Xem mẫu

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU I ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KINH NGHIỆM DẠY HỌC CHỦ ĐỀ MĨ, TÂY ÂU, NHẬT BẢN (1945 – 2000) ĐỂ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH 12 - THPT Giáo viên thực hiện: 1. LÊ THỊ DUYÊN 2. PHAN THỊ HỒNG Đơn vị công tác : Trường THPT Quỳnh Lưu I. Tổ chuyên môn : Xã hội Bộ môn: Lịch sử Năm học: 2020 – 2021 1
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là yêu cầu quan trọng trong đổi mới giáo dục hiện nay. “Chương trình giáo dục phổ thông mới” mới đã triển khai theo lộ trình cũng đang hướng tới phát triển năng lực người học. Thành công của chương trình cũng như chất lượng dạy học phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, tự học là một phần quan trọng của hoạt động học tập, là nhân tố “nội lực” có tác dụng quyết định chất lượng học tập và sự phát triển của người học. Tự học còn giúp người học có thể chủ động học tập suốt đời. Bằng con đường tự học, mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nhưng tự học như thế nào, hình thành năng lực tự học cho học sinh THPT ra sao với từng môn học là nhiệm vụ rất quan trọng và nặng nề đối với giáo viên. Đó là một quá trình khoa học, sư phạm lâu dài, thường xuyên và cần rất nhiều thời gian. Với bộ môn Lịch sử, việc rèn luyện năng lực tự học Lịch sử cho HS không những có một vị trí quan trọng trong thực hiện mục tiêu bộ môn mà còn góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện. Thực tế, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về dạy học phát triển năng lực người học. Trong đó, dạy học chủ đề là một hình thức được nhiều thầy cô lựa chọn trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng. Chương IV ‘‘Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – 2000)”, Lịch sử 12 – THPT rất quan trọng vì đó là 3 trung tâm kinh tế tài chính lớn của thế giới sau CTTG2 đã đem lại những bài học to lớn cho Việt Nam trong việc phát triển đất nước hiện nay nên được nhiều thầy cô chọn xây dựng thành chủ đề. Tuy nhiên, cấu trúc chủ đề được các giáo viên xây dựng nhưng chưa có sự thay đổi nhiều so với cấu trúc SGK, vẫn là tìm hiểu từng nước, chỉ cấu trúc lại theo lĩnh vực kinh tế, đối ngoại nên chưa thực sự phát triển được năng lực người học, nhất là năng lực tự học. Xuất phát từ các lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Kinh nghiệm dạy học chủ đề Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 - 2000) để phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 12 - THPT” với mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm trong việc xây dựng chủ đề theo hàng ngang các lĩnh vực kinh tế, đối ngoại và liên minh châu Âu (EU) để tổ chức cho học sinh có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, phát triển năng lực của bản thân, nhất là năng lực tự học thông qua thực hiện các nhiệm vụ giáo viên đưa ra một cách đa dạng, gắn thực tế với đời sống và hữu ích với định hướng nghề nghiệp và xây dựng đất nước hiện nay. 2
  3. 2. Đóng góp của đề tài - Tính mới, sáng tạo: Đây là đề tài đã được nghiên cứu và đúc rút từ kinh nghiệm có tính thực tiễn cao. Đề tài đã thực hiện nguyên tắc “Lấy học sinh làm trung tâm”, lấy “tự học của học sinh” là nhân tố “nội lực” quyết định chất lượng học tập và sự phát triển của người học và đã tìm ra một hướng đi mới trong rèn luyện, phát triển năng lực tự học cho HS THPT. - Về hịệu quả kinh tế: Đề tài có giá trị lớn (không thể tính được bằng tiền) trong chủ trương đổi mới đồng bộ mục tiêu, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đánh giá chất lượng giáo dục, gắn liền giáo dục trong nhà trường với thực tiễn cuộc sống, giúp học sinh được trải nghiệm,vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn cuộc sống, gắn các nội dung dạy học với thực tiễn cuộc sống; góp phần hình thành một số phẩm chất và năng lực của học sinh. Đề tài có khả năng ứng dụng rộng rãi trong việc dạy học Lịch sử với việc phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT. - Về hịệu quả xã hội: Đề tài đã tạo hiệu ứng tốt cho việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh. Đã tạo hứng thú, kích thích tinh thần tìm tòi, học hỏi, sáng tạo trong dạy, học Lịch sử, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức, nâng cao năng lực nhận thức và năng lực hành động, hình thành phẩm chất, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Đề tài áp dụng cho tất cả các đối tượng học sinh THPT. Kết quả của đề tài có thể áp dụng cho việc giảng dạy của giáo viên và là tài liệu tham khảo để giáo viên có thể xây dựng, thiết kế các chủ đề khác nhằm phát huy năng lực và hình thành phẩm chất học sinh. - Khả năng áp dụng mở rộng của công trình: Có thể áp dụng cho tất cả các trường THPT. 3
  4. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỀ TÀI 1 Cơ sở lý luận 1.1 Các khái niệm cơ bản: Năng lực, tự học, năng lực tự học - Năng lực: Là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí, ...thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Năng lực được hình thành và phát triển trong hoạt động, hoạt động là phương thức cơ bản để phát triển năng lực. Nếu không tổ chức hoạt động và con người không lăn mình vào hoạt động thì năng lực không thể bộc lộ và phát triển. - Tự học: Theo GS Nguyễn Cảnh Toàn “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành hiểu biết của mình”. Còn GS.TS Đặng Vũ Hoạt cho rằng “Tự học là một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính bản than người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, hoặc không theo chương trình và SGK quy định. Tự học có quan hệ chặt chẽ tới quá trình dạy học, nhưng có tính độc lập cao và mang đậm nét, sắc thái các nhân” Từ những nghiên cứu trên, chúng ta có thể hiểu, tự học là một bộ phận của việc học tập, là sự nỗ lực của mỗi cá nhân nhằm đạt đến một mục đích nào đó trên đường chiếm lĩnh kho tàng trí thức của nhân loại. - Năng lực tự học: Trong “chương trình giáo dục phổ thông tổng thể” quan niệm năng lực tự học của học sinh phổ thông thuộc cặp năng lực “năng lực tự chủ và tự học” và được gọi là “tự học, tự hoàn thiện” với các biểu hiện: Xác định nhiệm vụ học tập có tính đến kết quả học tập trước đây và định hướng phấn đấu tiếp; mục tiêu học tập được đề ra chi tiết, cụ thể, đặc biệt tập trung nâng cao hơn những khía cạnh còn hạn chế; Đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập; hình thành cách học tập riêng của bản thân; tìm được nguồn tài liệu phù hợp với các mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau; thành thạo sử dụng thư viện, chọn các tài liệu và làm thư mục phù hợp với từng chủ đề học tập của các bài tập khác nhau; ghi chép thông tin đọc được bằng các hình thức phù hợp thuận lợi cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết; tự đặt được vấn đề học tập; Tự nhận ra và điều chỉnh những sai sót, hạn chế của bản thân; suy ngẫm cách học của mình, đúc kết kinh nghiệm để có thể chia sẻ, vận dụng vào các tình huống khác; trên cở sở các thông tin phản hồi vạch kế hoạch điều chỉnh cách học để nâng cao chất lượng học tập; Thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân, các giá trị công dân. 4
  5. 1.2 Một số kĩ năng tự học cần rèn luyện để phát triển năng lực cho HS THPT Trên cơ sở khái niệm năng lực và quan niệm về tự học đã nêu trên, có thể hiểu: Phát triển năng lực tự học cho HS THPT được hiểu là quá trình nâng cao, rèn luyện các kỹ năng học tập cơ bản đạt tới trình độ độc lập, chủ động, tự giác dựa trên sự kích thích nhu cầu, giá trị, tri thức cũng như các điều kiện chủ quan khác của cá nhân người học dưới tác động của môi trường và được thực hiện ngay trong quá trình dạy học. Có nhiều cách để hình thành và phát triển kĩ năng tự học cho HS. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu và rèn luyện cho HS các nhóm kĩ năng sau: 1. Nhóm kĩ năng xây dựng kế hoạch tự học, bao gồm các kĩ năng: - Kĩ năng xác định mục tiêu học học tập. - Kĩ năng xác định nhiệm vụ học tập. - Kĩ năng lập kế hoạch học tập. 2. Nhóm kĩ năng thực hiện kế hoạch học tập, bao gồm các kĩ năng: - Kĩ năng thu thập, tìm kiếm thông tin. - Kĩ năng lựa chọn và xử lý thông tin. - Kĩ năng trình bày, diễn đạt và chia sẻ thông tin. - Kĩ năng vận dụng kiến thức học được vào giải quyết các tinh huống cụ thể. 3. Nhóm kĩ năng tự đánh giá và điều chỉnh kế hoạch tự học của bản thân, bao gồm các kĩ năng: - Kĩ năng nhận ra ưu, nhược điểm của bản thân dựa trên kết quả học tập. - Kĩ năng điều chỉnh những sai sót, hạn chế và vạch kế hoạch điều chỉnh cách học để nâng cao chất lượng học tập. 1.3. Vai trò của hoạt động tự học và tự học trong dạy học Lịch sử Quá trình dạy học chỉ có kết quả khi người học tự nỗ lực, TH để nắm vững những tri thức mà nhân loại đã tích lũy được, tức là “tự chuyển hóa” được kiến thức cho bản thân. Rõ ràng phát triển NLTH, nhằm tích cực hóa hoạt động của HS là vô cùng cần thiết. Theo chúng tôi vai trò quan trọng của việc phát triển NLTH cho HS nói chung và trong dạy học LS ở trường THPT được thể hiện như sau: Thứ nhất, đây là một hoạt động không thể thiếu trong công tác giảng dạy. Lý luận dạy học hiện đại chỉ ra rằng bản chất của việc học chính là tự học, do vậy dạy học chính là quá trình dạy tự học. Kiến thức của nhân loại nói chung, kiến thức LS nói riêng là một kho bách khoa toàn thư với dung lượng vô cùng lớn, GV không thể nào cung cấp hết cho HS, chỉ bằng cách trang bị cho các em NLTH để các em có đủ phương pháp, có đủ KN và thái độ yêu thích tìm hiểu khoa học mới là phương án tối ưu nhất trong dạy học. Thứ hai, phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT góp phần tích cực vào đổi mới PPDH. Như đã trình bày ở trên, để có thể hình thành và phát 5
  6. triển NLTH cho HS trong quá trình dạy học của mình người GV cần thường xuyên hướng dẫn HS nắm vững kiến thức về phương pháp TH, tiến hành rèn luyện các KN TH và hình thành cho HS thái độ, động cơ học tập. Để làm tốt được công việc này chúng tôi cho rằng GV cần phải tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, HS là nhân tố chủ động và là trung tâm của việc học, GV chỉ là người hướng dẫn. Thứ ba, phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT là thực hiện mục tiêu đào tạo con người trong thời đại mới. NLTH rất cần thiết cho mỗi con người đặc biệt trong thời kì phát triển mới của đất nước, nó là thứ nội lực, là sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi con người mà nếu được phát huy sẽ tạo ra sức mạnh cho toàn dân tộc. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với quyết tâm TH- tự đào tạo thì đó chính là con đường ngắn nhất để tạo ra nội lực cần thiết cho sự phát triển của một con người và cho đất nước. Với vai trò quan trọng như vậy, phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT có ý nghĩa hết sức to lớn mà giáo viên cần rèn luyện cho học sinh. 1.4. Dạy học theo chủ đề với việc rèn luyện kĩ năng tự học Có rất nhiều công trình nghiên cứu về dạy học phát triển năng lực người học. Trong đó, dạy học chủ đề là một hình thức được nhiều thầy cô lựa chọn trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng để phát triển năng lực người học. Về bản chất thì dạy học theo chủ đề là con đường tích hợp những nội dung từ một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ với nhau làm thành nội dung học tập trong một chủ đề, làm cho nội dung chủ đề học tập trở nên ý nghĩa hơn, thực tế hơn, qua đó học sinh có thể tự hoạt động học tập nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn. Việc xây dựng chủ đề dạy học được tiến hành theo quy trình: Xác định tên chủ đề và thời lượng chủ đề dạy học; Xác định mục tiêu của chủ đề dạy học; Xây dựng bảng mô tả các cấp độ tư duy; Thiết kế các câu hỏi/bài tập để sử dụng trong dạy học, kiểm tra đánh giá chủ đề với việc phát triển năng lực; Xây dựng kế hoạch thực hiện chủ đề; Thiết kế tiến trình dạy học học. Như vậy, với việc thiết kế dạy học theo chủ đề trên sẽ rèn luyện cho HS năng lực tự học theo chu trình gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Tự nghiên cứu bằng nội lực của cá nhân. Ở giai đoạn này học sinh tự xây dựng kế hoạch tự học dưới sự hướng dẫn của GV. Sau đó là quá trình tự tìm tòi, thu thập tài liệu liên quan đến nội dung kiến thức cần học và tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô có tính chất cá nhân. Giai đoạn 2: Tự thể hiện khả năng học được của bản thân. Học sinh tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình thông qua các hoạt động học GV tiến hành. Giai đoạn 3: Tự kiểm tra, tự điều chỉnh. Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác trao đổi với các bạn và giáo viên, sau khi giáo viên kết luận, học sinh có thể tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh thành 6
  7. sản phẩm khoa học. 2 Cơ sở thực tiễn 2.1 Phương pháp điều tra, nghiên cứu để thấy thực trạng vấn đề Để xác định cơ sở thực tiễn của đề tài về việc rèn luyện và phát triển năng lực tự học cho HS THPT cũng như thực trạng xây dựng và sử dụng hình thức tổ chức dạy học theo chủ đề trong dạy học bộ môn Lịch Sử nói chung và trong dạy học chương Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản nói riêng, chúng tôi đã tiến hành sử dụng phiếu điều tra, thăm dò ý kiến giáo viên đối với 48 giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch Sử của 10 trường THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong năm học 2018 – 2019 (theo thông tin ở phụ lục 1). 2.2 Kết quả điều tra, khảo sát để tìm ra nguyên nhân thực trạng vấn đề - Về thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học môn Lịch Sử THPT, sau khi thăm dò ý kiến GV chúng tôi thu được kết quả như sau: Bảng 1.1. Kết quả thăm dò ý kiến GV về việc sử dụng các PPDH tích cực trong dạy học bộ môn Lịch sử THPT hiện nay Số Thường Không Không sử TT PHƯƠNG PHÁP xuyên thường dụng xuyên SL TL % SL TL% SL TL % 1 Thuyết trình 20 41,67% 26 54,17% 2 4,16% 2 Hỏi đáp – tái hiện thông báo 26 54,17% 19 39,58% 3 6,25% 3 Hỏi đáp – tìm tòi 32 66,67% 16 33,33% 0 0% 4 Dạy học có sử dụng bài tập 15 31,25% 30 62,50% 3 6,25% tình huống 5 Dạy học có sử dụng bài tập 12 25,00% 31 64,58% 5 10,42% thực nghiệm 6 Dạy học có sử dụng sơ đồ, 18 37,50% 26 54,17% 4 8,33% bảng biểu 7 Dạy học nêu và giải quyết 31 64,58% 17 35,42% 0 0% vấn đề 8 Dạy học có sử dụng phiếu 28 58,33% 20 41,67% 0 0% học tập 9 Dạy học hợp tác theo nhóm 27 56,25% 21 43,75% 0 0% 10 Dạy học theo dự án 0 0% 13 27,08% 35 72,92% 11 Dạy học theo hợp đồng 0 0% 9 18,75% 39 81,25% - Về thiết kế và sử dụng các bài học theo chủ đề trong dạy học Lịch Sử: số GV thường xuyên thiết kế chủ đề dạy học là không; số GV không thường xuyên thiết kế chủ đề dạy học là 43 (chiếm 89,58%) và số GV rất ít thiết kế chủ đề dạy học là 5 (chiếm 10,42%); số GV chưa từng thiết kế chủ đề dạy học là không. Số 7
  8. GV cho rằng việc thiết kế chủ đề dạy học trong bộ môn Lịch Sử: rất cần thiết là 32 (chiếm 66,67%); cần thiết là 16 (chiếm 33,33%); không cần thiết: không. - Thông qua kết quả thăm dò ý kiến GV cùng với việc dự giờ thăm lớp, tham khảo giáo án của GV có thể thấy tình trạng sử dụng PPDH tích cực trong dạy học nói chung và dạy học theo chủ đề trong dạy học Lịch Sử nói riêng là: hầu hết các GV đã quan tâm sử dụng đến công tác đổi mới PPDH và tích cực sử dụng các PPDH tích cực trong dạy học bộ môn Lịch Sử THPT. Đồng thời GV đã nhận thấy được sự cần thiết và rất cần thiết của việc thiết kế và dạy học theo chủ đề trong bộ môn Lịch Sử THPT. Tuy vậy, trong thực tiễn thì việc dạy học theo chủ đề không được thực hiện thường xuyên bởi một số lý do sau : Thứ nhất: việc soạn giáo án theo chủ đề còn tốn nhiều thời gian, GV còn lúng túng trong quá trình soạn bài cũng như tổ chức các hoạt động học tập cho HS trên lớp do GV chưa được tập huấn một cách bài bản về dạy học chủ đề . Thứ hai: việc tập huấn có thời lượng rất ít, không có nhiều thời gian để GV có cơ hội thực hành và được “cầm tay chỉ việc” khi gặp khó khăn. Thứ ba: đa số học sinh vẫn còn lúng túng, khó khăn trong việc tự mình nghiên cứu và sưu tầm tài liệu, học liệu để học tập. - Về thực tiễn thiết kế bài dạy chương IV “Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – 2000)”, lớp 12 - THPT thì có 32 GV (chiếm 66,67%) đang dạy theo cấu trúc trong SGK; có 16 GV (chiếm 33,33%) thiết kế chủ đề theo chiều ngang kinh tế - khoa học kỹ thuật và đối ngoại của từng nước. Chưa có GV nào thiết kế bài học theo chiều ngang về kinh tế - khoa học kỹ thuật và đối ngoại của cả 3 trung tâm kinh tế tài chính lớn để tìm ra được nét tương đồng, khác biệt và mỗi liên hệ giữa các nước này với nhau để từ đó rút ra được bài học cho Việt Nam trong phát triển kinh tế cũng như quan hệ ngoại giao ở giai đoạn hiện nay. - Về thực trạng rèn luyện kĩ năng tự học của học sinh thông qua hoạt động dạy học Lịch Sử ở trường THPT, kết quả như sau: Bảng 1.2. Kết quả thăm dò ý kiến GV về việc rèn luyện các kĩ năng tự học cho HS thông qua dạy học bộ môn Lịch sử THPT hiện nay. Mức độ rèn luyện Thường xuyên Không Không TT Kĩ năng tự học tập thường tiến xuyên hành SL TL% SL TL% SL TL% 1 Kĩ năng xác định mục tiêu 30 62,50% 18 37,50% 0 2 Kĩ năng xác định nhiệm vụ học 31 64,58% 17 37,50% 0 tập 3 Kĩ năng lập kế hoạch học tập 32 66,67% 16 33,33% 0 4 Kĩ năng thu thập, tìm kiếm 34 70,83% 14 29,17% 0 thông tin 8
  9. 5 Kĩ năng lựa chọn và xử lí thông 33 68,75% 15 31,25% 0 tin 6 Kĩ năng trình bày, diễn đạt và 32 66,67% 16 33,33% 0 chia sẻ thông tin 7 Kĩ năng vận dụng kiến thức học 27 56,25% 21 43,75% 0 được vào giải quyết các tình huống 8 Kĩ năng nhận ra những ưu, nhược điểm của bản thân dựa 23 47,92% 25 52,08% 0 trên kết quả học tập 9 Kĩ năng điều chỉnh những sai sót, hạn chế và vạch kế hoạch 22 45,83% 26 54,17% 0 điều chỉnh cách học để nâng cao chất lượng học Thông qua kết quả thăm dò ý kiến của GV, chúng ta có thể thấy được hiện nay các GV đã tích cực rèn luyện các kĩ năng học tập cho học sinh thông qua hoạt động dạy học. Tuy nhiên, một số kĩ năng vẫn chưa được quan tâm rèn luyện ở mức thường xuyên như nhóm kĩ năng tự đánh giá và điều chỉnh kế hoạch tự học, đây là nhóm kĩ năng rất cần thiết để phát triển năng lực tự học cho HS THPT và cần được quan tâm nhiều hơn. 3. Giải pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT .3.1 Bồi dưỡng nhận thức về vai trò của hoạt động tự học Tự học chính là sự nỗ lực của bản thân người học. Tự học là hoạt động mang tính chủ động của cá nhân mỗi người học, do đó để có thể tự học hiệu quả thì người học cần phải có ý thức và nhận thức đúng đắn về vai trò và ý nghĩa của hoạt động tự học; có kế hoạch tự học rõ ràng được xây dựng trên tinh thần tự giác. Để HS nhận thức đúng đắn về vai trò của hoạt động tự học, GV cần phải giúp HS nhận ra ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động tự học; giúp HS hiểu vai trò của hoạt động tự học trong quá trình học tập và tích lũy tri thức của bản thân ngay từ những bài học đầu tiên. 3.2. Rèn luyện cho HS một số kĩ năng tự học - Kĩ năng lập kế hoạch học tập. - Kĩ năng hiểu và nghiên cứu tài liệu - Kĩ năng ghi chép tổng hợp kiến thức. 3.3. Đổi mới các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Để quá trình học tập không chỉ là quá trình tiếp thu và lĩnh hội tri thức mà đưa quá trình học tập thành quá trình chủ động chiếm lĩnh tri thức của người học, bản thân mỗi GV cần thực hiện các phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động học tập phù hợp. Với các phương pháp dạy học phù hợp, GV sẽ khơi dậy hứng thú trong học tập, tạo nhu cầu tự học, định hướng người học, định hướng người học tới các hoạt 9
  10. động: tự đặt mục tiêu, xây dựng kế hoạch, tìm kiếm – nghiên cứu tài liệu, phát hiện và xây dựng những tri thức cho bản thân...phương pháp dạy học thích hợp biến quá trình giảng dạy thành quá trình dạy tự học, giúp người học trở thành chủ thể để khám phá và làm chủ tri thức. Khi khơi gợi hứng thú, nhu cầu, động cơ học tập của người học thì người học sẽ nhanh chóng thích ứng và tìm ra những phương pháp tự học hiệu quả. 3.4. Đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá trong dạy học. Trong bất kì hoạt động nào, đánh giá kết quả cũng đều quan trọng, vì nó giúp HS kịp thời phát hiện ưu, hạn chế của mình. Trong tự học, vấn đề tự kiểm tra có ý nghĩa quan trọng, nhằm đảm bảo kết quả, chất lượng của tự học. Quá trình tự đánh giá cần được diễn ra thường xuyên và liên tục làm cho người học đánh giá được hiệu quả quá trình tự học của bản thân, từ đó có định hướng cho quá trình tự học thích hợp. Đồng thời, với quá trình tự đánh giá, GV có thể đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá nhằm tạo động lực, khích lệ HS tự học. Trước mỗi hoạt động bài học, GV có thể dành thời gian để kiểm tra hoạt động chuẩn bị bài của HS. Trong quá trình học tập, GV giao những bài tập lớn theo nhóm, theo cặp để HS tự hoàn thiện và sau đó báo cáo kết quả tự học. Trước khi đánh giá, GV yêu cầu HS tự đánh giá trong nhóm thông qua trình tự: HS tự đánh giá bản thân, thành viên trong nhóm tự đánh giá nhau và sau đó GV đánh giá, tổng kết. Quá trình đánh giá được triển khai thông qua nhiều kênh thông tin sẽ giúp HS có động lực tự học và thúc đẩy quá trình tự học của HS được diễn ra thường xuyên và liên tục. Như vậy, qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học môn Lịch sử ở trường THPT chúng tôi nhận thấy việc phát triển NLTH môn LS cho HS là rất cần thiết không những đáp ứng được với nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay mà còn góp phần thực hiện hoàn thành mục tiêu giáo dục của bộ môn. Khảo sát thực trạng ở trường THPT cho thấy GV có nhận thức đúng về NLTH và tầm quan trọng của việc phát triển NLTH môn LS cho HS. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế trong việc triển khai. GV chưa thực sự quan tâm đến nhu cầu, động cơ, thái độ học tập của HS, chưa giúp các em có thêm cơ hội thành công và thêm yêu thích môn LS. GV còn nặng về truyền đạt kiến thức mà chưa chú trọng đến dạy cách TH cho HS. HS còn học đối phó và chưa thực sự chú trọng vào việc rèn luyện NLTH cho bản thân. Những vấn đề trên là cơ sở để chúng tôi chia sẻ kinh nghiệm dạy học chủ đề “Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – 2000)”, lớp 12 – THPT để phát triển NLTH môn LS nói riêng và NLTH nói chung. 10
  11. II. VẬN DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT QUA DẠY HỌC LỊCH SỬ CHỦ ĐỀ MĨ, TÂY ÂU, NHẬT BẢN (1945 – 2000) 1. Các biện pháp rèn luyện năng lực tự học Lịch sử cho học sinh THPT 1.1. Hướng dẫn học sinh cách xây dựng kế hoạch học tập Việc học và tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch học tập được xây dựng cụ thể, rõ ràng và có tính định hướng cao sao cho phù hợp với điều kiện cá nhân. Mục tiêu học tập là những gì người học đặt ra để phấn đấu trong học tập và có khả năng đạt được trong quá trình học tập. Để đạt được mục tiêu HS cần có kế hoạch cụ thể và rõ ràng, có thể đo lường và đánh giá được, có khả năng đạt được so với NL của bản thân và phải có thời gian để hoàn thành. Để giúp HS tự xây dựng được kế hoạch học tập một cách rõ ràng và phù hợp với mong muốn của bản thân, chúng tôi hướng dẫn học sinh xác định theo quy trình sau: Bước 1: Xác định mục đích và nhu cầu học tập. Bước 2: Lập kế hoạch học tập. Bước 3: Thực hiện kế hoạch học tập. Bước 4: Kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Việc thực hiện quy trình tự học này có thể thực hiện trong cả quá trình học tập, cũng có thể lập ra và thực hiện ngay trong một bài học, một dự án học tập. Và để phát triển NLTH của học sinh hiệu quả, GV cần có sự kiểm tra, nhận xét, góp ý cho kế hoạch và sản phẩm của các em kịp thời. Ví dụ: Khi dạy học chủ đề “Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – 2000)”, lớp 12 - THPT, GV có thể hướng dẫn HS xây dựng kế hoạch học tập như sau: - Xác định mục đích và nhu cầu: + Tìm hiểu sự phát triển của kinh tế - KHKT của Mĩ, Nhật Bản, Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai và biết được nguyên nhân của sự phát triển đó. Từ đó, rút ra bài học cho Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay cũng như định hướng nghề nghiệp cho tương lai. + Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Mĩ, Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai và ảnh hưởng của các chính sách đó đối với quan hệ quốc tế. Trên cơ sở đó, liên hệ và đánh giá được mỗi quan hệ ngoại giao giữa Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. + Tìm hiểu quá trình liên kết khu vực của các nước Tây Âu. Đánh giá được vai trò của EU đối với sự phát triển của Tây Âu và thế giới từ khi thành lập cho đến nay. Đồng thời so sánh với liên kết khu vực ở Đông Nam Á – ASEAN. + Rèn luyện các KN như: sử dụng tài liệu học tập, KN tư duy, KN giải quyết và trình bày vấn đề, KN tự kiểm tra đánh giá. + Bồi dưỡng tinh thần học tập, sáng tạo và hội nhập quốc tế. 11
  12. + Biết được cuộc khủng hoảng năng lượng dầu mỏ năm 1973 và tác động của nó đến kinh tế thế giới, nhất là Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản. Từ đó liên hệ đại dịch Covid- 19 hiện nay để tìm ra giải pháp thích ứng với các biến đổi trong cuộc sống mang đến cho con người. - Lập kế hoạch tự học: đọc và tìm hiểu SGK, các nguồn tài liệu tham khảo có liên quan; Khai thác thông tin, hình ảnh trên internet; Hỏi thầy cô, bạn bè, người thân. - Thực hiện kế hoạch học tập: trình bày những nội dung mình đã tìm hiểu, trả lời các câu hỏi mà bạn bè, GV đưa ra, ghi chép lại làm tư liệu học tập cá nhân. - Tự kiểm tra đánh giá: qua những nhận xét, đóng góp, góp ý của bạn bè và thầy cô tự nhận thấy những thiếu sót và tự điều chỉnh. Như vậy thông qua việc xây dựng quy trình kế hoạch học tập, HS có thể dễ dàng xác định mục đích tự học cho bản thân. Qua các hoạt động có định hướng này sẽ giúp cho học có mục đích TH rõ ràng và lựa chọn những kiến thức mà mình muốn tìm hiểu thêm một cách rất tự nhiên, đầy mới mẻ, không dẫn đến nhàm chán và có thể tự điều chỉnh kế hoạch một cách linh hoạt, chủ động phù hợp với điều kiện của bản thân khi GV nhận xét, góp ý kế hoạch. 1.2. Hướng dẫn học sinh cách tự đọc SGK, tài liệu tham khảo 1.2.1 Hướng dẫn học sinh tự làm việc với SGK Lịch sử ở nhà trước giờ học SGK là tài liệu học tập được sử dụng chủ yếu ở trường phổ thông. SGK nói chung, SGK LS nói riêng có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong dạy học ở trường phổ thông. Đối với GV, SGK là chỗ dựa đáng tin cậy không thể thiếu trong soạn và giảng bài. Bởi vì, SGK cung cấp đầy đủ những kiến thức cơ bản, hiện đại, có hệ thống đã được qui định trong chương trình. Để thiết kế kế hoạch từng bài học và tiến hành giảng bài trên lớp nhằm thực hiện mục đích dạy học, GV phải dựa vào SGK. Đối với HS, SGK là tài liệu học tập cơ bản có ý nghĩa to lớn về các mặt bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện KN và giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em. Cấu trúc của SGK hiện hành bao gồm các phần: kênh chữ, kênh hình. Phần kênh chữ của sách là bài viết và các câu hỏi, bài tập. Phần kênh hình gồm tranh, ảnh, bản đồ, niên biểu, biểu đồ, đồ thị… Từ đặc trưng của SGK LS như vậy, cho thấy kiến thức về tự làm việc với SGK cần hướng dẫn cho HS bao gồm: KN đọc hiểu. Đây là công việc quan trọng giúp HS khi đọc SGK hiểu được nội dung của từng mục trong bài viết. Muốn vậy, khi làm việc với SGK trước hết HS phải tìm ra được ý chính trong từng mục mà tác giả muốn nhấn mạnh, những ý phân tích cụ thể hóa cho những ý chính đó. Đồng thời tìm được mối liên hệ giữa các mục, từ đó hiểu được tên bài học và nội dung bài viết. Có như vậy HS mới hiểu bài, tránh được tình trạng đọc nhiều mà không hiểu, thường học vẹt. Ghi chép lại những nội dung đã đọc, công việc này thể hiện việc hiểu nội dung của SGK mà các em vừa nghiên cứu. Trên cơ sở đọc từng mục của SGK, HS tìm được ý chính cho từng đoạn trong mục, các em viết những ý đó thành một dàn ý theo trình tự nội dung SGK trình bày. Việc lập dàn ý những nội dung đọc được 12
  13. từ SGK sẽ giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, biết lập đề cương (dàn ý), đọc sách và phát triển tư duy logic, khả năng tổng hợp, khái quát hóa kiến thức. Xử lý và hệ thống hóa kiến thức để ghi nhớ dễ dàng. Việc khái quát lại nội dung kiến thức trong SGK, GV có thể hướng dẫn cho HS lập bảng biểu, vẽ sơ đồ nhận thức như: sơ đồ tư duy, sơ đồ mạng, sơ đồ nhánh… HS có thể tự làm việc với SGK dựa trên mục tiêu đọc gồm: - Đọc lướt qua: Nhằm khái quát những khái niệm ban đầu và nội dung trong cuốn sách. Với những người có kinh nghiệm, bằng cách đọc lướt đã nắm được nội dung cơ bản của tài liệu. Khi đọc lướt, người đọc có thể bỏ qua một số trang, đoạn nào đó hoặc dừng lại kĩ ở một số nội dung. Cách đọc này sử dụng khi đọc để tìm hiểu một vấn đề, cần làm rõ thêm hoặc tìm những cách diễn đạt khác nhau cho một vấn đề nào đó. - Đọc có trọng điểm (hay đọc từng phần): là cách đọc từng đoạn, từng phần đã được lựa chọn từ trước nhằm tập trung thời gian cho những nội dung cần thiết. - Đọc toàn bộ nhưng không nghiên cứu sâu: Cách đọc này nhằm khái quát toàn bộ nội dung cuốn sách mà không đi sâu vào từng nội dung cụ thể. Với cách đọc này, người đọc có thể nắm được ý tưởng chính cũng như nội dung chính của cuốn sách. - Đọc kĩ và nghiên cứu sâu nội dung: Đây là cách đọc quan trọng nhất, cần thiết nhất trong tự học để lĩnh hội đầy đủ nội dung cuốn sách. Từng nội dung, từng vấn đề được người đọc xem xét, tìm hiểu cặn kẽ. Những nội dung, tư tưởng của cuốn sách được người đọc đánh giá, phê phán và được hiểu một cách đầy đủ, sâu sắc. Như vậy, trang bị cho HS kiến thức về sử dụng SGK giúp HS có thể tự xác định nội dung kiến thức khó, gây thắc mắc. Từ những thắc mắc đó HS có thể trao đổi với bạn bè, với thầy cô. Trải qua quá trình tìm tòi, khi được giải đáp HS sẽ hiểu sâu sắc vấn đề và có thể nhớ rất lâu. Mặt khác việc đọc trước SGK tạo nên sự hào hứng, tò mò, từ đó kích thích HS khao khát tìm tòi và khám phá. Trong thực tế GV có thể khuyến khích, khơi gợi để HS tìm hiểu vấn đề, sưu tầm các tài liệu liên quan đến bài học bởi thời gian trên lớp chỉ gói gọn trong 45 phút với nhiều hoạt động, vì vậy việc đọc SGK chuẩn bị bài trước khi học ở trên lớp nên là một yêu cầu bắt buộc với một giờ học Lịch sử của HS THPT. Đây là một hoạt động tư duy độc lập có chủ đích của bản thân và là hoạt động có ý nghĩa thiết thực đối với việc rèn luyện nhiều kĩ năng nhằm hình thành và phát triển năng lực tự học Lịch sử cho HS. Để rèn luyện năng lực tự học cho HS thông qua làm việc với SGK trước giờ học đòi hỏi ở HS tính tự giác, nghiêm túc suy nghĩ kĩ trước khi đọc bài, tránh trả lời câu hỏi một cách qua loa hoặc đối phó như chép lại câu trả lời. Nội dung chuẩn bị rất cụ thể trong SGK, nếu có kĩ năng đọc SGK HS có thể trả lời được các câu hỏi trên. Có sự chuẩn bị bài chu đáo sẽ giúp HS tiếp thu bài trên lớp hiệu quả, kiến thức được khắc sâu. GV ngoài việc hướng dẫn HS làm việc với SGK trước giờ học 13
  14. còn có thể kiểm tra việc chuẩn bị bài của HS để kịp thời đôn đốc, nhắc nhở, hướng dẫn HS tự học tốt hơn. Ví dụ: Chúng tôi tiến hành TNSP cho phần KN sử dụng SGK tại trường THPT khi dạy học chương IV: “Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – 2000)” ở lớp 12, chúng tôi yêu cầu HS hãy đọc SGK LS lớp 12 từ trang 42 – 57, sau đó lập dàn ý lại bài viết từ SGK trong 3 tờ giấy A4 về tình hình kinh tế - KHKT và chính sách đối ngoại của 3 trung tâm kinh tế tài chính lớn này. Từ đó rút ra nhận xét về những nội dung vừa nghiên cứu. Sau khi thu lại bài viết dàn ý của HS, chúng tôi có những nhận xét như sau: Hầu hết các em làm được theo yêu cầu của GV, đó là tóm tắt lại nội dung bài viết trong SGK; nội dung tương đối đầy đủ các ý chính, có một số em biết cách sơ đồ hóa lại kiến thức. Đối với lớp TN, do có phần chuẩn bị dàn ý trước ở nhà nên khi tiến hành bài học các em nắm bài rất tốt, ghi chép rõ ràng và hăng hái phát biểu ý kiến. Ở lớp ĐC, do không được chuẩn bị bài trước nên đa số HS chăm chú vào ghi bài, lớp học kém sôi nổi và GV mất nhiều thời gian hơn cho việc giảng bài mà ít có các hoạt động cho HS trong giờ học. Sau giờ học chúng tôi cho HS ở cả hai lớp làm bài kiểm tra 5 phút nhằm đánh giá mức độ hiểu bài và khả năng sử dụng SGK của HS. Kết quả kiểm tra cho thấy khả năng sử dụng SGK của lớp TN đạt được ở mức độ cao hơn so với lớp ĐC. Bảng kết quả TN từng phần biện pháp hướng dẫn HS tự làm việc với SGK LS Kết quả thực nghiệm (điểm số/tỉ lệ %) Lớp/sĩ số 0–1 2-4 5-7 8 - 10 ĐC 12D2 (42 HS) 12 (28,5%) 23 (54,8%) 7 (16,7%) 0 (0%) TN 12A03 (45HS) 4 (8,9%) 13 (28,9%) 17 (37,8%) 11 (24,4%) Mức chênh lệch 19,6% 25,9% 21,1% 24,4% Qua TNSP, chúng tôi thấy nếu trang bị cho HS KN tự làm việc với SGK thì việc dạy và học môn LS ở trường THPT sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn. 1.2.2 Sưu tầm và làm việc với các tài liệu tham khảo dưới sự hướng dẫn của GV Trong dạy học LS ở trường phổ thông, bên cạnh SGK, tài liệu tham khảo có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với GV và HS. Do đặc trưng của kiến thức LS, tài liệu tham khảo là một nguồn kiến thức không thể thiếu. Nó góp phần nhất định vào việc khôi phục lại bức tranh LS. Đây là những căn cứ khoa học, bằng chứng về tính chính xác, tính cụ thể, phong phú của sự kiện LS, giúp HS khắc phục tình trạng “hiện đại hóa LS”. Việc sử dụng tài liệu tham khảo trong học tập LS còn giúp HS có cơ sở để nắm vững bản chất của sự kiện, hình thành khái niệm, hiểu rõ quy luật và bài học kinh nghiệm. Qua sử dụng tài liệu tham khảo còn rèn luyện cho HS có thói quen đọc sách, nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy LS, và giúp các em hiểu rõ hơn SGK. Vì vậy HS phải có kỹ năng làm việc với tài liệu tham khảo. 14
  15. Đối với HS phổ thông có thể hướng dẫn các em tự làm việc với tài liệu tham khảo thông qua: GV nêu bài tập, giới thiệu cho HS sách và chỉ rõ chương, mục cần nghiên cứu; HS nghiên cứu sách kết hợp với SGK để làm bài tập. Khi tiến hành đọc sách HS cần chú ý: Tự ghi chép khi đọc sách (tên sách, tác giả), thời gian đọc; nội dung chủ yếu của sách theo dạng dàn ý; những câu thích thú, tâm đắc; Suy nghĩ và ghi những vấn đề cần rút ra sau khi đọc sách. Sự phong phú về tư liệu làm bài học sinh động, hấp dẫn và dễ nhớ hơn. HS biết rộng, hiểu sâu kiến thức hơn. Tuy nhiên việc hướng dẫn cho HS tự làm việc với tài liệu tham khảo đòi hỏi nhiều thời gian, công sức cho việc tìm và đọc tài liệu. Để khắc phục nhược điểm này GV cần định hướng cho HS. Ví dụ như chỉ rõ tên tài liệu, trang cần tìm, những nội dung nào cần ghi chép lại… kết hợp với việc giao bài tập về nhà có những nội dung cần phải sử dụng đến các tư liệu ngoài SGK. Việc sưu tầm tài liệu mở rộng kiến thức Lịch sử ngoài SGK có thể tiến hành như sau: - Tự nghiên cứu đoạn trích từ trong các tác phẩm lịch sử. Ở trường hợp này nội dung hoạt động bao gồm tự đọc đoạn trích, phân nhỏ đoạn trích theo các ý mà tác giả muốn trình bày; tìm tư tưởng chính của từng ý; viết những tư tưởng đã tìm được theo trình tự, thành dàn ý. Trên cơ sở những ý chính đã viết ra học sinh sẽ tìm được nội dung chính đoạn trích muốn nói, khái quát hóa ý hiểu của bản thân về nội dung đoạn trích và trình bày trên lớp (nếu cần). - Đọc các loại sách phù hợp với trình độ nhận thức của các em. Để cho việc tự đọc sách của học sinh không tản mạn, chệch hướng giáo viên cần hướng dẫn các em chọn sách và phương pháp đọc. - Tìm kiếm các hình ảnh, video tư liệu trên internet ở các website: + http://www.google.com (trang công cụ tìm kiếm phổ biến nhất) + http://www.wikipedia.org (trang công cụ tìm kiếm Bách khoa toàn thư) + http://www.edu.net.vn (trang Web của Bộ GD – ĐT) + http://www.youtube.com (trang công cụ tìm kiếm video clip) + http://www.violet.vn (trang thư viện giáo án điện tử) Ví dụ: Để TNSP cho biện pháp hướng dẫn học sinh TH ở nhà thông qua hoạt động sưu tầm và làm việc với tài liệu tham khảo, chúng tôi tiến hành như sau: Khi dạy chủ đề “Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – 2000)”, lớp 12, phần khoa học kỹ thuật, trong SGK viết rất sơ lược. Để HS có những hiểu biết nhiều hơn về khoa học kỹ thuật với việc phát triển kinh tế ở các nước này, chúng tôi đã giao cho HS sưu tầm thêm các tư liệu, tranh ảnh về các thành tựu KHKT đã và đang sử dụng phổ biến hiện nay. Phần chuẩn bị này GV giao nhiệm vụ cho 3 nhóm. Đến giờ học GV cho đại diện các nhóm trình bày thành quả của mình trước lớp. Qua quan sát lớp học chúng tôi thấy các thành viên trong nhóm rất háo hức trong công việc sưu tầm, tuyển chọn, sắp xếp hợp lí và trình bày ấn tượng tác phẩm của mình; vào giờ học 15
  16. cả lớp trông đợi và ngạc nhiên trước thành quả của chính bản thân các em… Công việc này ngoài việc giúp HS có KN trong việc sử dụng SGK, KN sử dụng tài liệu tham khảo còn góp phần rèn luyện các KN khác như: KN phát hiện và giải quyết vấn đề, KN trình bày và làm bài thi môn LS, KN sử dụng đồ dùng trực quan từ đó giúp phát triển NLTH LS cho HS. Đặc biệt, chính thông qua việc rèn luyện KN này HS lĩnh hội vững chắc kiến thức, điều này thể hiện rõ ở kết quả TNSP. Ở lớp ĐC, chúng tôi tiến hành giờ học bình thường, đó là GV giảng và cung cấp một số hình ảnh về KHKT cho HS. Lớp học diễn ra với không khí khá trầm vì một phần đã là cuối của tiết học, một phần là HS không có kiến thức sâu rộng về các hình ảnh liên quan. Còn ở lớp TN, tinh thần học của HS khác hẳn, các nhóm đều háo hức được trình bày sản phẩm của mình trước lớp. Vì thế, chúng tôi cho HS làm một bài kiểm tra ngắn, kết quả cho thấy ở lớp TN các em có kết quả cao hơn lớp ĐC, chứng tỏ biện pháp chúng tôi đưa ra có tính khả thi. Bảng kết quả TN học sinh tự làm việc với tài liệu tham khảo Nội dung điều tra Lớp TN (45 HS) Lớp ĐC (42 HS) Giờ hoc rất thú vị 20 (44,4%) 0 (0%) Em thấy khá hứng thú 20(44,4%) 7 (16,7%) Em thấy bình thường 5(11,2%) 25(59,5%) Em thấy nhàm chán 0 (0%) 10(23,8) 1.3 Tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận trong giờ học Tổ chức cho HS làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận là biện pháp nhằm bảo đảm cho quá trình học tập diễn ra tích cực và hiệu quả, rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm cho các em. Thông qua các hoạt động nhóm, kết hợp với thảo luận toàn lớp sẽ giúp cho giờ học trở nên linh hoạt, tạo không gian hoạt động đa dạng, nâng cao khả năng hợp tác giữa GV với HS, giữa HS với HS; tạo cơ hội cho HS tự nghiên cứu, tự thể hiện khả năng của mình, tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và phát triển toàn diện nhân cách. Thông qua môi trường học tập hợp tác, HS không chỉ lĩnh hội được tri thức mà còn học được các kĩ năng thực hành, kĩ năng hợp tác. Ngoài ra, học tập theo nhóm kết hợp với thảo luận còn giúp HS phát triển ý thức làm việc tập thể, phát huiy tính tích cực học tập, năng lực tự học như: năng lực tổ chức, năng lực quản lí thời gian, năng lực thực hiện; tạo điều kiện để mỗi HS có cơ hội được trải nghiệm, từ đó có biện pháp khắc phục những hạn chế cũng như biết phát huy điểm mạnh, sở trường của bản thân. Để rèn luyện kĩ năng làm việc theo nhóm cho HS, GV có thể thực hiện theo 3 bước (giai đoạn) cơ bản như sau: Bước 1: Giới thiệu chủ đề và giao nhiệm vụ. Bước này gồm các hoạt động sau: - Giới thiệu chủ đề chung của giờ học: thông thường nhiệm vụ này do GV thực hiện, đôi khi có thể giao cho HS trình bày, các nhóm cần có sự thống nhất và chuẩn bị trước cùng GV. 16
  17. - Thành lập các nhóm làm việc: lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ. Tùy vào mục tiêu, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được giao cùng một nhiệm vụ hoặc các nhiệm vụ khác nhau. Có rất nhiều tiêu chí thành lập nhóm, GV có thể áp dụng linh hoạt các hình thức chia nhóm như: + Chia nhóm ngẫu nhiên (GV có thể chia nhóm theo bàn, theo tổ, ...) + Chia nhóm theo năng lực học tập: GV dựa vào năng lực học tập của HS để chia thành các nhóm giỏi, khá, trung bình, yếu. Nhũng HS có học lực yếu hơn sẽ xử lí các câu hỏi cơ bản, những HS giỏi sẽ nhận thêm được các câu hỏi bổ sung. + Chia nhóm cố định trong một thời gian dài: nhóm được duy trì trong một số tuần hoặc theo tháng. Các nhóm này có thể được đặt tên riêng. Số lượng nhóm, số lượng thành viên trong nhóm và thời gian thảo luận phụ thuộc vào số lượng HS trong lớp hoặc nội dung của vấn đề thảo luận. - Xác định nhiệm vụ của các nhóm: GV xác định và giải thích nhiệm vụ cụ thể giữa các nhóm, xác định rõ những mục tiêu cần đạt. Bước 2: Làm việc theo nhóm. Trong giai đoạn này, các nhóm tự thực hiện nhiệm vụ được giao, trong đó có các hoạt động chính sau: - Chuẩn bị, sắp xếp nơi làm việc của nhóm: cần sắp xếp sao cho các thành viên có thể ngồi đối diện với nhau để thảo luận. Hoạt động này cần diễn ra nhanh để tiết kiệm thời gian. - Lập kế họach hoạt động nhóm và thực hiện nhiệm vụ của nhóm: + Chuẩn bị và đọc tài liệu. + Phân công công việc cho mỗi thành viên trong nhóm. + Lập kế hoạch và thời gian thảo luận. + Mỗi cá nhân thực hiện nhiệm vụ đã phân công, sắp xếp kết quả theo một trình tự khoa học. + Phân công các thành viên trình bày kết quả học tập của nhóm. Khi thực hiện bước này, GV cần quan sát, hỗ trợ HS. Trong quá trình HS thảo luận nhóm, GV di chuyển xung quanh các nhóm, quan sát và hỗ trợ các nhóm khi cần. Khi HS gặp khó khan, vướng mắc, GV có sự hỗ trợ kịp thời, hưỡng dẫn các nhóm giải quyết vấn đề thông qua các câu hỏi gợi mở. Bước 3: Trình bày và đánh giá kết quả Đại diện các nhóm sẽ lên trình bày kết quả trước lớp, có thể kèm theo các bản báo cáo, minh họa bằng hình vẽ. Kết quả trình bày của mỗi nhóm được các bạn HS trong lớp và GV tổng kết, đánh giá, rút ra kinh nghiệm cho các lần thực hiện tiếp theo. Ví dụ : Khi dạy phần kinh tế của “Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – 2000)”, GV triển khai 2 dự án cho học sinh nghiên cứu trước. Dự án 1: Ứng viên làm việc cho công ty tư vấn du học Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản. 17
  18. - Mục tiêu hoạt động: Tìm hiểu tình hình phát triển kinh tế của Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản từ 1945 – 1973. Qua đó rèn luyện cho HS được các kĩ năng tự học, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng vận động nhanh nhẹn, kĩ năng hợp tác, kĩ năng làm việc nhóm để rèn luyện được tính tích cực của HS trong học tập môn Lịch sử. - Nhiệm vụ: Trên cơ sở nêu được những nét chính về kinh tế của Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945 – 1973). HS thực hiện dự án theo nội dung câu hỏi: “Một công ty tư vấn du học đang tuyển nhân viên tư vấn du học Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản. Một trong những yêu cầu đối với vị trí tuyển dụng là phải lập được hồ sơ về những thành tựu tiêu biểu của nước Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản và đề xuất lí do vì sao các du HS nên chọn du học ở Mi, Tây Âu, Nhật Bản. Giả sử là ứng viên dự tuyển vào vị trí đó, em hãy lập hồ sơ về chủ đề trên”. - Hình thức : Dự án nhóm theo trình chiếu Slide. - Tổ chức hoạt động: GV chia lớp thành 3 nhóm bắt thăm ngẫu nhiên và giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm về nhà thực hiện nhiệm vụ. GV có thể gợi ý cho các nhóm tham khảo mẫu hồ sơ sau (hoặc các nhóm có thể sáng tạo trình bày theo cách riêng của nhóm mình). Lưu ý, riêng Tây Âu: HS có thể chọn 1 nước tiêu biểu, có thể Đức, Pháp, Hà Lan ... Mẫu hồ sơ tham khảo MĨ , TÂY ÂU , NHẬT BẢN – MỘT ĐIỂM ĐẾN HỌC TẬP Một số nét khái quát về Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản. - Diện tích:……………………………………................................................... - Dân số:……………………………………….................................................... - Thủ đô:……………………………………….................................................. - GDP (2019):…………………………………...................................................... Một số thành tựu tiêu biểu của của Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản. - Kinh tế:……………………………………..................................................... - Văn hóa – Giáo dục:……………………………............................................ Vì sao bạn nên chọn du học Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản? - Hệ thống giáp dục:…………………………................................................. - Thành tựu giáo dục:……………………………................................................ - Những thuận lợi khác:…………………………................................................. - Biện pháp tiến hành: + Cho đại diện các nhóm lên trình chiếu Slide báo cáo sản phẩm của mình. + Các nhóm có thể tranh luận đối thoại trực tiếp. Yêu cầu: Mỗi nhóm phải đưa ra các lập luận để giải thích cho quan điểm của nhóm mình ( có thể đặt câu hỏi cho nhóm đối phương). + Mỗi nhóm cử 3 bạn lên trình bày những quan điểm, tranh luận, đối thoại trực tiếp trong thời gian 10-15 phút. 18
  19. + Cuối cùng GV chốt lại các vấn đề trọng tâm trên cơ sở ý kiến của các nhóm khác, có khích lệ kịp thời đối với các nhóm khi có bài chuẩn bị ở nhà tốt. Tất cả các nhóm có cùng một nhiệm vụ, do đó sẽ thuận lợi cho HS khi nhận xét, bổ sung, tránh tình trạng cục bộ, chỉ biết đến nhiệm vụ của nhóm mình, có tác dụng phát huy tính cạnh tranh giữa các nhóm. Đây là loại hình hoạt động nhóm đơn giản, dễ thực hiện và phát triển năng lực học sinh rõ nhất, như: năng lực giao tiếp, năng lực tư duy phản biện, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực ngôn ngữ, năng lực xã hội...Vấn đề quan trọng là GV phải biết lựa chọn kiến thức cơ bản, trọng tâm và đưa ra hệ thống câu hỏi có giá trị để kích thích HS tìm hiểu, thảo luận. Dự án 2: “ Em tập làm chuyên gia kinh tế”. - Muc tiêu hoạt động: Tìm hiểu tình hình kinh tế của Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản từ 1973 đến nay thông qua tình huống : “Là chuyên gia kinh tế, em hãy dự đoán và phân tích tình hình kinh tế Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản từ sau năm 1973 như thế nào? Tại sao lại như vậy”?Từ đó rút ra được bài học trong phát triển kinh tế cho các nước là gì? - Hình thức : Dự án nhóm thảo luận và trình bày ½ giấy A0 - Tổ chức hoạt động: GV chia lớp thành 3 nhóm; Chuyển giao nhiệm vụ cho từng nhóm; Các chuyên gia thảo luận và thực hiện nhiệm vụ; HS 3 nhóm lên bảng dán sản phẩm, mỗi nhóm cử 1 chuyên gia lên báo cáo kết quả; Các chuyên gia của nhóm khác có thể nhận xét, bổ sung, phát biểu ý kiến tranh luận (nếu có). GV nhận xét, phân tích, kết luận. * Dự kiến sản phẩm: a. Tình hình kinh tế 1973 - nay * Mĩ * Nhật Bản * Tây Âu - Từ 1973 – 1983: suy thoái - Từ 1973: Phát triển - Từ 1973 - 1991: suy do tác động của khủng hoảng xen kẽ với suy thoái thoái do tác động của năng lượng năm 1973. ngắn khủng hoảng năng - Năm 1983: phục hồi và - Những năm 80 là siêu lượng 1973. phát tiển trở lại. cường tài chính số 1 thế - Từ 1991 - 2000: kinh - Từ 1991 - 2000: trải qua giới. tế phục hồi và phát nhiều đợt suy thoái ngắn, - Từ 1991 - 2000: suy triển trở lại. nhưng kinh tế Mĩ vẫn đứng thoái nhưng vẫn là một - Giữa thập kỉ 90, hang đầu thế giới. trong 3 trung tâm kinh GNP chiếm 1/3 tổng tế - tài chính lớn của thế sản phẩm công nghiệp giới. của thế giới. b. Nguyên nhân suy giảm kinh tế Mĩ, Tây âu, Nhật Bản từ nửa đầu những năm 70 đến nay. - Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 đã tác động đến tất cả các nước. - Sự phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ của các nước công nghiệp mới NIC. 19
  20. - Sự khủng hoảng theo chu kì của các nước TBCN. - Mâu thuẫn trong xã hội ngày càng cao, tệ nạn xã hội xuất hiện. c. Bài học cho các nước trên thế giới Cần thường xuyên cải tổ nền kinh tế phù hợp với xu thế thời đại, áp dụng những thành tựu khoa học vào mục tiêu phát triển kinh tế với mục tiêu tích cực, luôn lấy con người làm trung tâm cho sự phát triển, cạnh tranh lành mạnh. Qua thực tế triển khai chúng tôi thấy rằng dạy học dự án là một phương pháp có nhiều ưu điểm trong việc phát triển năng lực tự học cho HS. Thông qua quá trình làm dự án các em được luyện tập nhiều về các KN như: sử dụng SGK, khai thác tài liệu tham khảo, KN tư duy, KN giải quyết vấn đề… Trong quá trình báo cáo dự án thì các em được thực hành rèn luyện để phát triển các KN như: trình bày và làm bài thi, tự kiểm tra đánh giá và KN tự ôn tập củng cố kiến thức. Kết quả thực nghiệm sư phạm bước đầu cho thấy dạy học dự án rất khả thi cho việc hình phát triển NLTH cho HS trong dạy học Lịch sử ở trường THPT. 1.4. Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh Tích cực hóa hoạt động học tập của HS có vai trò quan trọng đối với hiệu quả hoạt động tự học, giúp các em hứng thú, tự giác trong học tập. Để tích cực hóa hoạt động học tập của HS, theo chúng tôi cần: - Tăng cường hứng thú học tập cho HS. Trong quá trình dạy học, thông qua các cách gợi mở, nêu và giải quyết vấn đề, GV cần khơi gợi, tạo ra các tình huống học tập có ý nghĩa nhằm giúp các em say mê, yêu thích môn học. GV cần xây dựng động cơ, mục tiêu cho HS thông qua các hoạt động dạy học cụ thể, hướng dẫn phương pháp tự học và thường xuyên giám sát hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp của các em. - Có sự kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp dạy học của GV và phương pháp tự học của HS. Đối với HS phổ thông, hoạt động tự học chủ yếu thông qua sự hướng dẫn của GV. Do vậy, GV cần xây dựng động cơ tự học cho HS, bởi quá trình tự học cần được bắt nguồn từ động cơ bên trong, từ chính năng lực và nhu cầu của người học. Đổi mới phương pháp dạy học cần tập trung vào dạy cách học, phương pháp học tập và cả phương pháp tự học. GV cần sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo môi trường học tập đa dạng, khuyến khích HS tự tìm hiểu, tự khám phá kiến thức thông qua các phương pháp dạy học tích cực, chẳng hạn như: dạy học theo dự án, dạy học theo vấn đề,… Ví dụ 1: Khi học xong tiết 1 của chủ đề “Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – 2000)”, lớp 12, phần kinh tế - KHKT. HS đã nhận thức được sự phát triển kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2, về tinh thần tự lực tự cường của người dân Nhật Bản kết hợp với khoa học – kĩ thuật đã tạo nên hiện tượng “Thần kì” trong những năm 1960 - 1968; đặc biệt là sự phục hồi nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973. Những sản phẩm mà Nhật Bản quan tâm đầu tư để chiếm lĩnh thị trường thế giới, trong đó có Việt Nam mà lịch sử gọi là “Nhật Bản mua cả thế giới”. Để tạo hứng thú, khích lệ HS tích cực tham gia vào các hoạt động tự học, 20
nguon tai.lieu . vn