Xem mẫu

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT THANH CHƯƠNG 1 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: GÓP PHẦN HÌNH THÀNH NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀ NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA DẠY HỌC BÀI CHUYỆN CHÚC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN - NGUYỄN DỮ CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) MÔN: NGỮ VĂN NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ THIÊN TỔ: VĂN - NGOẠI NGỮ Thanh Chương, tháng 3 - 2021. 1
  2. MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................................1 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI...................................................................................................2 II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................................2 III. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI...................................................................................................2 B. NỘI DUNG........................................................................................................................3 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN..............................................................................................................3 1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực...........................................................3 2. Những năng lực cần đạt qua dạy học môn Ngữ văn.................................................3 2.1. Năng lực giải quyết vấn đề..........................................................................................3 2.2. Năng lực sáng tạo...........................................................................................................4 2.3. Năng lực tự quản bản thân...........................................................................................4 2.4. Năng lực hợp tác............................................................................................................5 2.5. Năng lực ngôn ngữ........................................................................................................5 2.6. Năng lực thẩm mĩ...........................................................................................................5 3. Năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo......................................................6 3.1. Năng lực giải quyết vấn đề..........................................................................................6 3.2. Năng lực sáng tạo...........................................................................................................7 II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.....................................................................................................8 1. Thực trạng dạy....................................................................................................................8 2. Thực trạng học..................................................................................................................10 3. Thực trạng sách giáo khoa và tài liệu tham khảo....................................................11 4. Kiểm tra, đánh giá...........................................................................................................12 III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN......................................................................................13 1. Phát huy tích cực và làm mới các phương pháp dạy học truyền thống.............13 1.1. Phương pháp đàm thoại..............................................................................................13 1.2. Phương pháp trực quan...............................................................................................15 1.3. Phương pháp thực hành..............................................................................................15 2.Vận dụng tối đa các phương pháp dạy học mới........................................................17 2.1.Phuơng pháp dự án.......................................................................................................17 2.2. Phương pháp tình huống............................................................................................19 2.3. Phương pháp làm việc nhóm.....................................................................................23 3. Kết hợp các kĩ thuật dạy học.........................................................................................24 3.1. Kĩ thuật bốn ô vuông...................................................................................................24 3.2. Kĩ thuật tia chớp.......................................................................................... ................25 3.3. Kĩ thuật động não.........................................................................................................26 4. Mô hình giáo án minh họa.............................................................................................27 IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC............................................................................................39 1. Năng lực giải quyết vấn đề............................................................................................39 1.1. Năng lực nhận biết, nhận xét, đánh giá vấn đề.....................................................39 1.2. Năng lực thu thập, phân tích thông tin....................................................................39 1.3. Năng lực đề xuất, lựa chọn giải pháp......................................................................40 2. Năng lực sáng tạo............................................................................................................40 2
  3. 2.1. Năng lực phát hiện điểm tuơng đồng, khác biệt...................................................40 2.2. Năng lực tìm tòi, phát hiện vấn đề mới..................................................................41 2.3. Năng lực giải quyết vấn đề bằng các con đường khác nhau............................42 C. KẾT LUẬN.................................................................................................................43 I. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU.....................................................................................43 II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU........................................................................................43 1. Tính khoa học...................................................................................................................43 2. Tính mới............................................................................................................................44 3. Tính hiệu quả....................................................................................................................44 3.1. Phạm vi ứng dụng........................................................................................................44 3.2. Kết quả ứng dụng.........................................................................................................45 3.3. Ý nghĩa đề tài................................................................................................................46 III. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT..........................................................................................47 1. Đối với tổ, nhóm chuyên môn......................................................................................47 2. Đối với nhà trường..........................................................................................................47 3
  4. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những vấn đề cơ bản của giáo dục nước ta trong những năm gần đây, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Điểm nổi bật của phương pháp dạy học mới là hướng người học tới việc phát triển các năng lực cần có theo đặc trưng của bộ môn. Phát triển năng lực người học là định hướng quan trọng trong Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020. Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo của Đảng (tháng 9/2013) đã mở ra một thời kì mới cho việc dạy – học trong trường phổ thông ở nước ta: nhấn mạnh đến việc phát triển năng lực của người học hơn là cung cấp tri thức cho họ. Ngày 03/10/2017, Bộ giáo dục và Đào tạo cũng ra công văn số 4612/BGDĐT- GDTrH/ hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh. Trong đó, Bộ yêu cầu các trường, tổ/nhóm chuyên môn xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh phù hợp với kế hoạch giáo dục từng môn học, hoạt động giáo dục của nhà trường theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh. Có thể nói, dạy học theo định hướng phát triển năng lực là chủ đề nóng, là vấn đề cấp thiết của giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Đây là yêu cầu chung của tất cả các môn học, trong đó có Ngữ văn. Trong hệ thống năng lực chung, giải quyết vấn đề và sáng tạo là những năng lực cốt lõi nhất. Bởi lẽ, thông qua các năng lực này, người học không chỉ nắm vững kiến thức mà còn thành thạo phương pháp chiếm lĩnh nó. Đây cũng là những năng lực đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống con người và có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội bất cứ thời đại nào. Nó giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá, phân tích vấn đề hợp lí, khoa học, sáng tạo giúp mỗi người có khả năng học tập và làm việc tốt hơn. Vì vậy, việc rèn luyện cho học sinh năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo là nhiệm vụ quan trọng và cần được chú ý đến trong giáo dục. Ngữ văn là môn học bắt buộc thuộc lĩnh vực ngôn ngữ và văn học đối với các cấp học. Chương trình dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ thông hiện nay có sự tích hợp giữa ba phân môn Văn học, Làm văn và Tiếng Việt. Điều này giúp học sinh chiếm lĩnh được những tri thức và rèn luyện những kĩ năng trong mối quan hệ tổng hợp. Những tri thức và kĩ năng đó cũng chứa đựng ít nhiều tiềm năng phát triển các năng lực trong đó có năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo cho học sinh. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) là truyện ngắn trung đại Việt Nam duy nhất trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông. Nó không chỉ cho người đọc thấy những vấn đề của đời sống con người thế kỉ 16, đặc điểm truyện truyền kì, truyện ngắn thời trung đại cũng như tài năng của Nguyễn Dữ, mà qua bài học, người học còn có khả năng phát triển được năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo. Tuy vậy, khi dạy văn bản này, nhiều giáo viên vẫn chỉ tập 4
  5. trung vào kiến thức, hình thành phẩm chất của người học mà vấn đề phát triển năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo còn chưa được thực sự chú trọng. Với những lí do trên, tôi đã tiến hành thực hiện đề tài Góp phần hình thành năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 10 qua dạy học bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ). Với đề tài này, người viết sẽ đưa ra những nội dung kiến thức và phương pháp dạy học mới để các em hứng thú trong học tập, nắm được nội dung cơ bản, đặc biệt, phát huy tối đa các năng lực cần có, đặc biệt năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo của học sinh thay vì lối dạy học chú trọng kiến thức như trước. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để giải quyết vấn đề, tôi đã sử dụng một số phương pháp chính sau: - Phân tích, tổng hợp - So sánh đối chiếu - Khảo sát thống kê III. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI Ngoài phần Đặt vấn đề và Kết luận, công trình có các phần lớn - Cơ sở của đề tài - Giải pháp thực hiện - Kết quả đạt được 5
  6. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực 1.1. Năng lực là một phạm trù từng được bàn đến trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Có thể hiểu, năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… Năng lực của cá nhân được đánh giá qua phương thức và khả năng hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Như vậy, năng lực không mang tính chung chung mà khi nói đến năng lực, bao giờ người ta cũng nói về một lĩnh vực cụ thể nào đó như năng lực toán học của hoạt động học tập hay nghiên cứu toán học, năng lực hoạt động chính trị của hoạt động chính trị, năng lực dạy học của hoạt động giảng dạy… Năng lực của học sinh là một cấu trúc động, có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó không chỉ là kiến thức, kỹ năng mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội… thể hiện ở tính sẵn sàng hành động của các em trong môi trường học tập phổ thông và những điều kiện thực tế đang thay đổi của cuộc sống. 1.2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực yêu cầu tích cực hoá hoạt động của học sinh về trí tuệ, rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội (kĩ năng sống). Như vậy, trong quá trình dạy - học, bằng những phương pháp nào cũng phải đảm bảo: Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. 1.3. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực không chỉ trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng các môn học mà còn chú ý phát triển những năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, đáp ứng những nhu cầu trong đời sống xã hội của học sinh. Mỗi học sinh là một cá thể độc lập với sự khác biệt về năng lực, trình độ, sở thích, nhu cầu và nền tảng xuất thân. Dạy học phát triển năng lực thừa nhận thực tế này và tìm ra được những cách tiếp cận phù hợp với mỗi học sinh. Nó cho phép học sinh được áp dụng những gì đã học, thông qua sự gắn kết giữa bài học và cuộc sống. Điều này cũng giúp học sinh thích ứng với những thay đổi của cuộc sống trong tương lai. Đối với một số học sinh, dạy học phát triển năng lực cho phép đẩy nhanh tốc độ hoàn thành chương trình học, tiết kiệm thời gian và công sức của việc học tập. 2. Những năng lực cần đạt qua dạy học môn Ngữ văn 2.1. Năng lực giải quyết vấn đề 6
  7. Giải quyết vấn đề là năng lực chung mà tất cả các môn học hướng đến. Năng lực này được đánh giá dựa vào khả năng nhận thức, khám phá những tình huống có vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, tìm hiểu và đưa ra những cách giải quyết các tình huống đó, qua đó thể hiện tư duy, khả năng hợp tác để đưa ra những biện pháp tối ưu nhất từ đó giúp học sinh giải quyết tình huống được đặt ra. Đối với môn Ngữ văn, những tình huống có vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình dạy học như tiếp nhận một thể loại văn học mới, viết một loại văn bản mới, lí giải một hiện tượng đặt ra trong văn vản, thể hiện quan điểm của bản thân trước một vấn đề nêu trong văn bản, xây dựng kế hoạch học tập cụ thể...Thông qua việc phải tìm tòi, đưa ra những quyết định khác nhau để giải quyết những vấn đề trên, học sinh sẽ dần được hình thành thói quen, năng lực giải quyết các vấn đề, từ đó các em có thể xử lí những vấn đề xẩy ra trong đời sống một cách chủ động và có hiệu quả hơn. 2.2. Năng lực sáng tạo Sáng tạo là hoạt động mang tính tinh thần của mỗi cá nhân song mỗi người lại có cách thức và con đường sáng tạo khác nhau. Nó là khả năng tạo ra cái mới có giá trị dựa trên những phẩm chất độc đáo của cá nhân như tư duy sáng tạo, động cơ sáng tạo và ý chí. Sáng tạo là một năng lực vô cùng cần thiết không chỉ với mỗi cá nhân mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của dân tộc và nhân loại. Nó giúp con người tìm ra được nhiều giải pháp, ý tưởng để nâng cao chất lượng sống của mình, để cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội theo hướng tích cực và tiến bộ hơn. Nói cách khác, sáng tạo là tiền đề cho sự phát triển của cá nhân và toàn thể nhân loại. Vì lẽ đó, phát triển năng lực sáng tạo trở thành một trong những mục tiêu quan trọng nhất của mọi nền giáo dục tiến bộ trên thế giới. Ngữ văn, với đặc trưng là sự tổng hợp của ba phân môn Văn, Tiếng Việt và Làm văn nên tính thực hành - tổng hợp cao giúp học sinh có khả năng lựa chọn, vận dụng một cách sáng tạo nhiều tri thức và kĩ năng khác nhau để tạo lập văn bản hoàn chỉnh. Vì thế, dạy học làm văn trong nhà trường vừa phải giúp học sinh chiếm lĩnh được những tri thức và kĩ năng cần thiết cho việc hành văn vừa phải xoá bỏ những rào cản đối với sự sáng tạo và tạo ra được những tình huống kích thích niềm đam mê, hứng thú sáng tạo của học sinh. Cũng từ đây, học sinh không còn bị nỗi ám ảnh để rồi tìm cách thoả hiệp bằng cách nói theo, làm theo mà tự tin bộc lộ chính kiến, tự tin đứng lên bảo vệ cái đúng, bảo vệ lẽ phải bằng ánh sáng của tri thức. 2.3. Năng lực tự quản bản thân Năng lực tự quản bản thân là khả năng con người có thể kiểm soát được thái độ, ngôn ngữ, hành vi của mình trong quá trình hợp tác giải quyết vấn đề; khả năng lập kế hoạch và điều chỉnh bản thân thực hiện theo kế hoạch đã định; khả năng 7
  8. nhận ra và tự điều chỉnh thái độ, hành vi của mình trong những bối cảnh khác nhau. Năng lực tự quản bản thân giúp cho con người làm chủ được chính mình trong cuộc sống, sống có nguyên tắc và trách nhiệm đối với chính mình cũng như với những người xung quanh. Trong quá trình học môn Ngữ văn, học sinh phát triển năng lực tự quản bản thân thông qua việc xác định, đặt ra và thực hiện những kế hoạch nhất định cho mình khi tiến hành các mục đích của từng bài học. Đồng thời, khi hợp tác làm việc giữa các thành viên trong nhóm, khi trình bày quan điểm cá nhân, học sinh cũng học được cách tự quản thái độ, hành vi của mình. Nhờ đó, các em sẽ dần tạo cho mình năng lực tự quản tốt hơn. 2.4. Năng lực hợp tác Cũng nhưng năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác cũng là một năng lực chung của người học. Nó là khả năng tương tác giữa các cá nhân trong một tập thể. Năng lực này cho thấy hiệu quả làm việc của cá nhân trong mối quan hệ với những cá nhân khác, cùng nhau thực hiện một nhiệm vụ để đưa ra kết quả cao nhất. Đây là một năng lực rất cần thiết trong cuộc sống, nhất là khi chúng ta đang sống trong môi trường rộng mở của thời đại hội nhập. Trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng, năng lực hợp tác được thể hiện trong quá trình học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ hay trong tập thể để hoàn thành công việc chung. Học sinh sẽ học được cách trình bày, giải quyết vấn đề, cách thể hiện thái độ, quan điểm từ những người khác. Đồng thời các em phải lắng nghe, giúp đỡ nhau, có khi phải cùng nhau giải quyết những bất đồng, biết chấp nhận để có thể đi đến tiếng nói chung trong khi bàn luận. 2.5. Năng lực ngôn ngữ Năng lực ngôn ngữ là khả năng sử dụng thành thạo và sáng tạo ngôn ngữ nào đó vào quá trình giao tiếp. Phát triển năng lực ngôn ngữ là mục tiêu quan trọng cũng là mục tiêu thế mạnh mang tính đặc thù của môn học Ngữ văn. Qua những bài học Tiếng Việt, học sinh có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách đúng quy tắc, chuẩn mực phục vụ giao tiếp trong đời sống. Qua những văn bản văn học trong chương trình sách giáo khoa, học sinh học được cách sử dụng ngôn ngữ của các tác giả văn học, cách tạo lập văn bản theo đặc trưng thể loại. Qua những bài làm văn, học sinh sẽ biết cách thức và vận dụng sáng tạo trong việc tạo lập các văn bản theo yêu cầu. 2.6. Năng lực thẩm mĩ Năng lực thẩm mĩ là khả năng nhận diện, thưởng thức và đánh giá cái đẹp trong văn học và cuộc sống, biết làm chủ cuộc sống, biết làm chủ cảm xúc của bản thân, biết hành động hướng theo cái đẹp, cái thiện – cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ, nhận ra những giá trị thẩm mĩ trong văn học, biết rung cảm, hướng thiện. Cũng như năng lực ngôn ngữ, phát triển năng lực thẩm mĩ là thế mạnh đặc thù của môn 8
  9. Ngữ văn. Sau khi học, học sinh sẽ thấy được cái hay, cái đẹp của tiếng Việt, của những tác phẩm văn học cũng như các thể loại, từ đó có thể nuôi dưỡng tâm hồn các em, giúp các em phát triển hài hòa đức, trí, thể, mĩ. 3. Năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo 3.1. Năng lực giải quyết vấn đề Năng lực giải quyết vấn đề là năng lực cần có của mỗi con người bất cứ lứa tuổi nào và trong tất cả các tình huống, các mối quan hệ. Hiệu quả công việc, một mối quan hệ phụ thuộc nhiều vào cách giải quyết vấn đề của con người. Vì vậy, rèn luyện cho học sinh năng lực này là rất cần thiết. Đầu thế kỷ XXI, nhìn chung cộng đồng giáo dục quốc tế chấp nhận định nghĩa: giải quyết vấn đề là khả năng suy nghĩ và hành động trong những tình huống không có quy trình, thủ tục, giải pháp thông thường có sẵn. Người giải quyết vấn đề có thể ít nhiều xác định được mục tiêu hành động, nhưng không phải ngay lập tức biết cách làm thế nào để đạt được nó. Sự am hiểu tình huống vấn đề, và lý giải dần việc đạt mục tiêu đó trên cơ sở việc lập kế hoạch và suy luận tạo thành quá trình giải quyết vấn đề. Có thể thấy, giải quyết vấn đề là quá trình tư duy phức tạp, bao gồm sự hiểu biết, đưa ra luận điểm, suy luận, đánh giá, giao tiếp... để đưa ra một hoặc nhiều giải pháp khắc phục khó khăn, thách thức của vấn đề. Năng lực này được thể hiện trên các mặt: - Phát hiện và làm rõ vấn đề: + Phân tích tình huống + Phát hiện vấn đề + Biểu đạt vấn đề - Đề xuất và lựa chọn giải pháp: + Thu thập thông tin liên quan + Đề xuất giải pháp + Lựa chọn giải pháp phù hợp - Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề + Thực hiện giải pháp + Đánh giải giải pháp + Nhận thức và vận dụng phương pháp hành động phù hợp với bối cảnh mới. Phát triển năng lực giải quyết vấn đề là yêu cầu cơ bản của dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói riêng. Nó giúp các em có định hướng nhận diện, suy luận, lí giải và đưa ra những hướng giải quyết vấn đề khác nhau, từ đó giúp học sinh hình thành được kĩ năng cơ bản để cảm nhận văn học, giải quyết các đề thi cũng như giải quyết những vấn đề cơ bản của cuộc sống. 9
  10. 3.2. Năng lực sáng tạo Sáng tạo là tạo ra, đề ra những ý tưởng mới, độc đáo, hữu ích, phù hợp với hoàn cảnh, nói cách khác là dám thách thức những ý kiến và phương cách đã được mọi người chấp nhận để tìm ra những giải pháp hoặc khái niệm mới. Cũng có thể hiểu một cách đơn giản sáng tạo chỉ là tìm ra một cách mới để làm việc hoặc làm công việc đó trôi chảy hơn. Có thể hiểu năng lực sáng tạo là khả năng cá nhân giải quyết tình huống có vấn đề mà ở đó không có sẵn quy trình, thủ tục, giải pháp thông thường có sẵn, hoặc có thể giải quyết một cách thành thạo với những nét độc đáo riêng, theo chiều hướng luôn đổi mới, phù hợp với thực tế. Như vậy, năng lực sáng tạo là năng lực giải quyết vấn đề một cách cao hơn, có hiệu quả hơn. Năng lực sáng tạo được biểu hiện như sau: - Nhận ra ý tưởng mới + Xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức tạp từ các nguồn thông tin khác nhau. + Phân tích các nguồn thông tin độc lập để thấy được khuynh hướng và độ tin cậy của ý tưởng mới. - Hình thành và triển khai ý tưởng mới + Nêu được nhiều ý tưởng mới trong học tập và cuộc sống + Suy nghĩ không theo lối mòn. + Tạo ra yếu tố mới dựa trên những ý tưởng khác nhau. + Hình thành và kết nối các ý tưởng; + Nghiên cứu để thay đổi giải pháp trước sự thay đổi của bối cảnh + Đánh giá rủi ro và có dự phòng. - Tư duy độc lập + Đặt được nhiều câu hỏi có giá trị, không dễ dàng chấp nhận thông tin một chiều + Không thành kiến khi xem xét, đánh giá vấn đề + Quan tâm tới các lập luận và minh chứng thuyết phục + Sẵn sàng xem xét, đánh giá lại vấn đề Phát triển năng lực sáng tạo là một trong những mục tiêu của giáo dục trong việc dạy học phát triển năng lực. Nó không chỉ giúp học sinh phát huy khả năng sáng tạo của mình để phát triển bản thân trong mọi hoàn cảnh mà nó còn giúp giáo viên phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo những nhân tố vượt trội. 10
  11. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN Thực tế giảng dạy môn Ngữ văn trong thời gian qua ở các trường phổ thông, giáo viên cũng đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh để bài học có hiệu quả cao nhất, nhằm phát triển các năng lực cần có cho học sinh. Tuy vậy, quá trình diễn ra gặp không ít những vấn đề tồn tại đáng đề cập. 1. Thực trạng dạy. Tôi đã gửi phiếu thăm dò đến một số giáo viên dạy Ngữ văn ở ba trường THPT nơi mình công tác và các trường lân cận để khảo sát một số ý kiến xung quanh vấn đề dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực ở các trường này. Khi được hỏi về mục đích của việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực, 12 người (100%) cho rằng, đó là một trong những mục tiêu quan trọng cần hướng đến của các giờ dạy học văn hiện nay. Về chất lượng các giờ học, đặc biệt tiết học Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ), các đồng chí đã thực hiện, không ai khẳng định các giờ dạy của mình đều thực hiện tốt, 4 người (33.3%) tự nhận đã đạt mức khá, đã có chủ ý dạy học hướng đến các năng lực cần có cho học sinh, tuy vậy vẫn còn mờ nhạt, chủ yếu vẫn thói quen truyền thụ kiến thức. 8 người (66.7%) cho rằng giờ dạy của mình đạt mức trung bình trong việc hướng đến rèn luyện các năng lực cho học sinh. Về việc đánh giá thái độ của học sinh đối với các tiết học văn, tiết học Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ), 3 người (25%) cho rằng học sinh thường xuyên chuẩn bị bài đầy đủ, có chất lượng, phát biểu xây dựng bài, tham gia hoạt động nhóm trên lớp hăng hái, thực hiện bài tập giáo viên giao về nhà đầy đủ, 7 người (58.3%) cho rằng học sinh có thái độ bình thường, 2 người (16.7%) khẳng định học sinh không thích thú môn học này, ít phát biểu, làm việc không hăng hái, chủ yếu do giáo viên chỉ định. Về phương pháp và phương tiện dạy học mà các giáo viên đã sử dụng, 8 giáo viên (66.7%) đã sử dụng thuyết giảng, 3 người (25%) dùng vấn đáp, 1 người (8.3%) sử dụng phương pháp khác có kèm công nghệ thông tin trong một số giờ dạy. Sau khi học các tiết học, kĩ năng vận dụng các năng lực cần có của học sinh trong lớp học cũng như trong các hoạt động khác, 4 giáo viên (30%) cho biết, nhiều em đã vận dụng linh hoạt các năng lực như hợp tác, giải quyết tình huống, năng lực tự quản cá nhân ... một cách có hiệu quả. Nhiều em đã có sự vận dụng sáng tạo kiến thức đã học để tạo ra những sản phẩm có giá trị như những bài văn đạt điểm cao trong các kì thi hoặc những văn bản thơ, văn xuôi trong các kì thi viết báo tường nhân ngày 20/11. Một số em có thể thực hiện dẫn chương trình, biên kịch, tổ chức các hoạt động tập thể như các hoạt động ngoài giờ lên lớp, lễ tri ân và 11
  12. trưởng thành của học sinh khối 12. 8 người (70%) có ý kiến, các em mới chỉ tiếp thu kiến thức trên lớp, vấn đề phát triển năng lực còn nhiều hạn chế. Học sinh còn ngại đưa ra ý kiến cá nhân, ngại tranh luận, bảy tỏ thái độ. Một số em chưa quản lí tốt kế hoạch cũng như hành vi, thái độ của mình trong những tình huống nhất định. Riêng năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo, khi được hỏi các giáo viên đã làm gì để phát huy tối đa thế mạnh của bộ môn Ngữ văn trong việc phát triển các năng lực này, 7 người (54.7%) khẳng định đã có những phương pháp cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết để các em có thể nhận diện vấn đề nhanh nhất. 5 người (35.3%) cho rằng đã cung cấp kiến thức đầy đủ, song để kĩ năng giải quyết vấn đề chủ động và sáng tạo trong các câu hỏi, các tình huống nâng cao, áp dụng liên hệ thực tế ở học sinh phát huy một cách tối đa là việc làm tương đối khó khăn với họ. Như vậy, qua kết quả khảo sát, tôi thấy: Tất cả giáo viên đều cho rằng môn học Ngữ văn có vai trò quan trọng trong chương trình ở trường phổ thông, góp phần bồi dưỡng năng lực, hoàn thiện nhân cách học sinh và là môn học công cụ thiết thực cho các em (100%). Nhiều giáo viên có nhận xét chất lượng dạy học môn này theo định hướng phát triển năng lực chỉ đạt mức hơn trung bình (66.7%). Việc các giáo viên đánh giá cao năng lực của một số em trong việc giải quyết hình huống, lập kế hoạch, tổ chức các hoạt động hay kĩ năng vận dụng ngôn ngữ ở các hoạt động khác nhau trong và ngoài nhà trường, các giáo viên đều thừa nhận, phần lớn các em được học từ gia đình, bạn bè, mạng xã hội, phong trào chung của nhà trường, chứ chưa phải xuất phát chính từ các giờ học môn Ngữ văn. Về việc sử dụng các phương pháp dạy học trong các giờ học Ngữ văn, rất nhiều giáo viên thừa nhận chủ yếu họ đã sử dụng phương pháp truyền thống là thuyết giảng và vấn đáp, trong đó phương pháp vấn đáp dùng nhiều hơn (66.7%). Trong quá trình giảng dạy, giáo viên vẫn chú trọng phần kiến thức chứ chưa thực sự hướng đến sự phát triển năng lực cho học sinh. Có thể nói, khi dạy học môn Ngữ văn, giáo viên vẫn còn gặp nhiều vấn đề trong việc phát triển năng lực cho học sinh. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, một phần là do nhận thức. Mặc dù đã được chỉ dẫn, quán triệt rất nhiều lần các hội nghị, các đợt tập huấn, bồi dưỡng nhưng có một bộ phận cán bộ quản lý và thầy cô giáo, nhất là đối tượng lớn tuổi vẫn còn thể hiện rõ sự bảo thủ, trì trệ, hạn chế nhiều trong nhận thức. Phần lớn giáo viên ở các bậc học phổ thông được đào tạo trước đây, chủ yếu tiếp thu và vận dụng theo phương pháp dạy học truyền thống, lấy người thầy làm trung tâm, cung cấp kiến thức, kỹ năng đến học sinh theo cách áp đặt, một chiều. Số đông nhà giáo còn mắc bệnh nghề nghiệp như chạy theo lý thuyết kinh điển, bám vào tri thức có sẵn trong sách giáo khoa, không gắn với thực tiễn đời sống, luôn cho mình là đúng, khó chịu với những thắc mắc của học sinh... Bên cạnh những tấm gương thầy, cô giáo rất tâm huyết, nỗ lực trong việc đổi mới 12
  13. phương pháp còn có số đông thầy cô khác lại vẫn “giậm chân tại chỗ” trong hầu hết các tiết dạy. Họ chỉ dạy phương pháp dạy học mới mang tính đối phó và nặng thành tích khi và chỉ khi có người dự giờ, thao giảng, thi giáo viên dạy giỏi các cấp.... Trong quá trình dạy học văn, nhiều giáo viên cũng đã cố gắng hướng học sinh đến những năng lực khác. Một số phương pháp và kĩ thuật được áp dụng như lồng ghép trò chơi vào bài dạy, tạo nhóm, đóng vai, dạy theo dự án… Giáo viên phải tiếp thu cách dạy theo cảm nhận, theo trải nghiệm sáng tạo của phương pháp dạy giá trị sống, kĩ năng sống. Với những phương pháp này, học sinh có hứng thú hơn trong việc học Ngữ văn, có thể phát huy được nhiều năng lực. Tuy nhiên, công việc này đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị công phu, bởi vậy giáo viên thường thiếu kiên trì với cái mới. 2. Thực trạng học Tôi đã tiến hành phát phiếu trắc nghiệm thăm dò ý kiến của 127 học sinh ở các lớp 10A, 11C, 12I của trường mình về việc học môn Ngữ văn cũng như học bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Về việc học văn của học sinh: Khi được hỏi về vai trò của phân môn Ngữ văn trong chương trình THPT, 95 học sinh (74.8%) có ý kiến đó là môn học quan trọng đối với mình, 32 em (25.2%) xem môn học này cũng bình thường như những môn học khác và không có em nào cho đó là môn học không cần thiết. Như vậy, các em đều thấy được đây là môn học rất quan trọng trong quá trình theo học trên ghế nhà trường. Khi được hỏi về mục đích của việc học văn, 100 em (78,7%) cho rằng học văn để biết được những tác phẩm văn học từ trước đến nay, biết các quy tắc sử dụng Tiếng Việt cũng như quy tắc tạo lập các văn bản. 25 em (19,7 %) cho việc học văn là để hoàn thành các môn học trong chương trình của Bộ Giáo dục đưa ra, còn 2 em (1,6 %) không biết học văn để làm gì. Có thể nói, học sinh đã phần nào thấy được mục đích của việc học văn. Tuy nhiên, các em đang nhìn nhận học văn như một môn học khác, đồng thời chỉ nhìn nhận môn văn ở trạng thái cung cấp kiến thức cơ bản chứ chưa có vai trò lớn trong việc hình thành các năng lực cần có cho mình. Khi giáo viên hỏi: theo em, môn văn khác với những bộ môn nào? thì các em cho biết, môn văn không học các phép tính, các tính chất, các định luật, quy luật..., môn văn cung cấp kiến thức về phần tiếng Việt, cách làm văn và những văn bản có giá trị. Như vậy, có thể hiểu, học sinh chỉ nhận thấy sự khác biệt giữa môn Ngữ văn và các môn học khác ở phương diện hình thức chứ chưa hiểu được bản chất bên trong. Nó là một môn khoa học đồng thời là môn học nghệ thuật, bởi thế, môn học này sẽ được các em ứng dụng trong thực tế rất nhiều, trong giao tiếp, tạo lập 13
  14. văn bản, góp phần hình thành những giá trị trong cuộc sống, giúp học sinh có những thái độ yêu ghét rõ ràng, dám phê phán cái xấu để bảo vệ công bằng và lẽ phải. Với câu hỏi: các em đã học văn như thế nào? phần lớn các em đã trả lời đã học một cách thụ động theo thói quen soạn bài, ghi bài, trả lời câu hỏi, làm bài tập. Thậm chí, rất nhiều em cho việc soạn bài chỉ là sao chép sách tham khảo để đối phó với giáo viên. Việc phân nhiệm vụ theo nhóm chỉ một số cá nhân thực hiện, còn lại không tham gia hoặc ít đưa ra ý kiến phản hồi. Những câu hỏi khó đòi hỏi sự sáng tạo, các em rất lúng túng hoặc ngại suy nghĩ. Việc thường xuyên tạo lập các văn bản là hoàn toàn không tự giác, chỉ thực hiện khi có giáo viên yêu cầu. Tôi đã tiến hành khảo sát trên cả ba đối tượng là lớp 10, lớp 11 và cả lớp 12 ở các mức độ học tập của các lớp là giỏi, khá, trung bình. Khi được hỏi Em đã có sự thay đổi như thế nào sau khi học văn và sau tiết học Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ), (về khả năng hợp tác, khả năng quản lí bản thân, khả năng giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, khả năng sử dụng ngôn ngữ, khám phá cái đẹp....)? hầu như các em thấy lúng túng. Một số em chỉ ra được kĩ năng tìm hiểu nhân vật trong truyện truyền kì, kĩ năng lựa chọn tình huống, sử dụng ngôn ngữ của mình đúng hơn, chuẩn mực hơn, có thể viết được một số loại văn bản, hiểu được những giá trị nhân văn mà các văn bản văn học đặt ra. Còn những năng lực khác, học sinh chưa thực sự nhận ra sự thay đổi do học Ngữ văn. Như vậy, có thể hiểu, việc học văn trong quan niệm của học sinh vẫn nặng về cung cấp kiến thức liên quan đến bộ môn, còn sự phát triển năng lực chưa được các em lưu ý. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, có thể hiểu, một phần do sự tác động của tâm lí, thói quen và phương pháp dạy học của giáo viên như đã nói ở trên. Nó dần hình thành ở học sinh tâm lí thụ động, ỷ lại, học theo kiểu thiếu sự sáng tạo, chỉ rập khuôn máy móc, thích điểm cao nên cố gắng hoàn thành kiến thức mà không có sự đột phá, lối suy nghĩ và cách thể hiện khác. Trong bối cảnh phát triền mạnh mẽ của công nghệ, khoa học, các em có sẵn tài liệu tham khảo phục vụ việc tìm hiểu kiến thức, bởi thế tư duy bị hạn chế vì tâm lí có sẵn. Học sinh cũng chưa nhận thấy tính ứng dụng của môn học Ngữ văn trong đời sống. Năng lực là sự hình thành kĩ năng đầu ra, bởi thế, nhận thấy được sự tác động trực tiếp, có ý nghĩa tức thì rất khó nhận ra. Bởi vậy, học sinh chưa có cách tiếp cận đúng đắn môn học này. Điều đó khiến việc dạy học bị hạn chế. 3. Thực trạng sách giáo khoa và tài liệu tham khảo Cũng như những phân môn khác, tài liệu dành cho chương trình dạy học ngữ văn không ít. Nhiều công trình được xuất bản, đặc biệt khi công nghệ thông tin phát triển, nhiều tài liệu được chuyển tải qua mạng Internet giúp người dạy và học thực hiện dạy học văn một cách thuận lợi hơn. Về văn học nước ngoài và tiết học Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ), có một số tài liệu hướng dẫn chính thống như Tài liệu chuẩn kiến 14
  15. thức kĩ năng môn Ngữ văn lớp 10; Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa trung học phổ thông môn Ngữ văn lớp 10; Sách giáo viên Ngữ văn 10,… Những tài liệu này đã có định hướng cho giáo viên trong việc triển khai bài học, tuy nhiên sự hướng dẫn vẫn còn chung chung, dưới dạng lí thuyết. Trên các trang mạng, nhiều giáo án được giới thiệu, trong đó có những giáo án được soạn bằng điện tử đã cung cấp cách dạy cụ thể từng câu hỏi, từng bước của quá trình dạy học. Tuy vậy, những bài giảng này vẫn nặng về cung cấp kiến thức, phương pháp chủ yếu vẫn là hỏi đáp và thuyết giảng. Giáo viên có thể sử dụng giáo án điện tử có sẵn trên mạng, bổ sung chỉnh sửa theo ý tưởng của mình, như thế sẽ tiết kiệm được khoảng thời gian lớn. Nhưng thực tế không phải giáo viên nào cũng sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, hơn nữa, thiết bị máy móc ở từng trường, lớp không đảm bảo nên việc sử dụng loại tài liệu này cũng gặp không ít khó khăn… Như vậy, có thể nói, tài liệu dành cho việc dạy học môn Ngữ văn trong trường phổ thông không ít nhưng để có tài liệu cụ thể, tiện dụng, có chất lượng, giúp giáo viên và học sinh tìm hiểu kĩ từng bài học theo định hướng phát triển năng lực thì rất hiếm. Thực tế, người giáo viên cần biết vận dụng các tài liệu linh hoạt vào bài giảng của mình để có hướng khai thác phù hợp, đạt hiệu quả cao. Người học cần có sự chọn lọc, suy nghĩ trước những gợi ý của sách tham khảo. 4. Kiểm tra đánh giá Kiểm tra đánh giá là một trong những khâu quan trọng trong quá trình giáo dục. Thông qua đánh giá, người dạy nắm được đặc điểm tình hình cũng như nguyên nhân những ưu nhược điểm của người học, từ đó đưa ra những định hướng sư phạm để điều chỉnh quá trình dạy học đạt hiệu quả cao nhất. Thực tế trong quá trình giảng dạy của giáo viên trường tôi và những trường lân cận trong những năm qua cho thấy, giáo viên thường chỉ chú ý vào việc kiểm tra, đánh giá bằng bài luận sau mỗi chương, mỗi phần hay cuối kì. Các kì thi lớn của chúng ta cũng chủ yếu tập trung đánh giá kiến thức và xem đó là những bản đánh giá toàn bộ những gì về tri thức mà học sinh có được sau một năm học, khóa học. Chính vì cách kiểm tra đánh giá đó nên học sinh học đối phó, không có động lực, đợi đến kiểm tra mới học. Với cách đánh giá ấy, giáo viên cũng chỉ có thể kiểm tra học sinh nhớ được những tri thức gì, ở một vài bài nào đó chứ không thể đánh giá được toàn bộ quá trình học tập của các em, cũng như không phát huy được các năng lực của học sinh... Theo PGS.TS Trần Anh Tuấn – Trường CĐSP Nghệ An thì đánh giá học sinh theo cách tiếp cận năng lực là đánh giá theo chuẩn về sản phẩm đầu ra nhưng sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng mà là năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập tới một chuẩn nào đó. 15
  16. Để chứng minh người học có năng lực ở một mức độ nhất định, giáo viên phải tạo cơ hội để các em được giải quyết vấn đề trong tình huống, bối cảnh mang tính thực tiễn. Khi đó, người học vừa phải vận dụng những kiến thức kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa phải vận dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường Như vậy, việc đánh giá quá trình dạy học phân môn Ngữ văn còn nhiều điểm còn hạn chế đòi hỏi người dạy và người học chú ý để phát huy mọi năng lực của học sinh, để các em có những kĩ năng nhất định, phục vụ cuộc sống. Việc dạy học văn cũng không xa rời thực tế, khi đó, việc học văn của các em sẽ có những hứng thú hơn. III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN Từ sự nhận thức trên, trong khuôn khổ của công trình, tôi đưa ra một số giải pháp để phát huy năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ). 1. Phát huy tích cực và làm mới các phương pháp dạy học truyền thống Phương pháp dạy học truyền thống là cách dạy học được truyền từ lâu đời qua nhiều thế hệ. Về cơ bản thì có thể hiểu, phương pháp này lấy trung tâm là giáo viên. Giáo viên sẽ là người thuyết trình, diễn giải kho tàng tri thức còn học sinh sẽ là lắng nghe, ghi chép và học thuộc. Giáo án dạy chương trình cũng được thiết kế theo một đường thẳng từ trên xuống. Cách dạy truyền thống khiến học sinh dễ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, giờ học cũng buồn tẻ và kiến thức chỉ thiên về lý thuyết. Bởi vì không có nhiều cơ hội thực hành, nên học sinh khó có thể áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn. Tuy vậy, trong một chừng mực nào đó, giảng dạy theo tính truyền thống mang đặc điểm về sự logic cao và vẫn có sự thúc đẩy sự phát triển năng lực của người học. 1.1. Phương pháp đàm thoại Trong các phương pháp dạy học truyền thống diễn giả, đàm thoại là phương thức thường xuyên được sử dụng. Giáo viên sẽ đặt ra một hệ thống câu hỏi, tổ chức để học sinh trả lời. Học sinh sẽ thực hiện được trao đổi qua lại và tranh luận với nhau cũng như là tranh luận với giáo viên để lĩnh hội được bài học một cách tốt nhất. Phương pháp này có ưu điểm: Kích thích được tính tích cực trong quá trình nhận thức của học sinh, bồi dưỡng được năng lực diễn đạt một vấn đề khoa học nhất có thể, giúp giáo viên có thể thu được tín hiệu từ học sinh một cách nhanh chóng và kịp thời để điều chỉnh quá trình dạy học. Trong quá trình đàm thoại, học sinh cũng có khả năng nhận diện, phát hiện và xử lí vấn đề theo cách riêng của mình. Tôi đã sử dụng phương pháp đàm thoại cho bài giảng này như một cách thức hỗ trợ quá trình hình thành kiến thức và kĩ năng cho học sinh khi học văn. 16
  17. Các câu hỏi mà chúng tôi đưa ra để tổ chức đàm thoại với học sinh cũng khá nhiều. Giáo viên sẽ dựa vào năng lực của từng lớp để đưa ra các câu hỏi gợi mở. Một số câu hỏi được sử dụng như: - Vào đầu tiết học, để tạo không khí cho giờ học, tôi đã đưa ra câu hỏi tự do, thực tế cho các em: Với em, thế nào là người có lòng dũng cảm? Hành động dũng cảm nhất mà em đã thực hiện là gì, hãy chia sẻ điều đó? Với câu hỏi này, học sinh có thể tự do thể hiện theo quan niệm, suy nghĩ của mình. Nó hướng học sinh đến một trong những vấn đề bồi dưỡng phẩm chất qua bài học, đồng thời, trong quá trình suy nghĩ, trình bày, một phần học sinh cũng cần xác định vấn đề để giải quyết theo yêu cầu của câu hỏi, từ đó hình thành năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo. - Ở những phần sau, tôi cũng sử dụng một số câu hỏi cho học sinh như: + Em hãy nhận xét về kết cấu truyện sau khi đọc và xem phần diễn của các bạn? Câu hỏi này sẽ đặt các em trước thử thách là phải rút ra được nhận xét về kết cấu truyện, sự độc đáo của tác giả trong việc dựng truyện… + Vì sao Tử Văn đốt đền? Việc tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi mới đốt đền có ý nghĩa gì? Học sinh sẽ phải lí giải được hành động và ý nghĩa của hành động mà nhân vật thể hiện. + Hình ảnh ngọn lửa đốt đền của Tử Văn gợi cho anh chị cảm nhận và suy nghĩ như thế nào? Đây là câu hỏi giúp học sinh đánh giá ý nghĩa của hình ảnh, chi tiết có trong văn bản. + Hành động của Tử Văn cho thấy tính cách gì của nhân vật? Hành động đó thể hiện phẩm chất gì của tri thức Việt? Các câu hỏi này nhằm giúp các em tìm ra phẩm chất của nhân vật, ý nghĩa của việc xây dựng nhân vật. Muốn trả lời được những câu hỏi này, buộc học sinh phải có sự suy luận, khái quát. + Hành động của Tử Văn có vai trò gì trong diễn biến của cốt truyện? Khi trả lời được câu hỏi này, học sinh cũng cần phải huy động kiến thức để phán đoán, nhận định, giải quyết vấn đề, giúp học sinh thấy được ý nghĩa của hành động nhân vật trong việc xây dựng sự phát triển của truyện. - Các câu hỏi đàm thoại cũng có thể sử dụng cho phần tìm hiểu viên Bách hộ họ Thôi. Các câu hỏi đàm thoại ở mục này sẽ đặt các em trước những tình huống tái hiện hoặc tình huống có vấn đề, từ đó các em có thể thu thập, phân tích và xử lí thông tin bằng những cách khác nhau. Như vậy, thông qua các câu hỏi đàm thoại, học sinh sẽ rèn luyện được năng lực nhận biết, nhận xét, đánh giá vấn đề, năng lực thu thập, phân tích thông tin năng lực đề xuất, lựa chọn giải pháp, cũng như cách giải quyết vấn đề theo suy nghĩ riêng, mới của học sinh được rèn luyện. 17
  18. 1.2. Phương pháp trực quan Phương pháp dạy trực quan là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan và các phương tiện kỹ thuật để củng cố kiến thức của học sinh. Phương pháp này giúp học sinh có thể nắm bắt được đầy đủ các thông tin về đối tượng nghiên cứu dựa trên cơ sở huy động nhiều yếu tố khách quan khác nhau. Từ đó các em sẽ phát triển được tư duy một cách trừu tượng và hình thành khái niệm về đối tượng rõ ràng nhất. Nó làm thỏa mãn cũng như là phát triển hứng thú của người học, giúp cho các tài liệu học tập trở nên vừa sức hơn đối với học sinh. Trực quan cũng là phương pháp hỗ trợ cho sự phát triển của năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo. Ở phương pháp này, tôi đã sử dụng tối đa ưu điểm của máy chiếu để cho các em trực quan sinh động. Tôi cho học sinh xem một số hình ảnh về chân dung của Nguyễn Dữ, bìa cuốn Truyền kì mạn lục, một số sự minh họa các cảnh trong truyện tiêu biểu các em đã học (Chuyện người con gái Nam Xương) cũng như truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Các sơ đồ tư duy cũng như các tranh ảnh của học sinh cũng được trình chiếu để bài học sinh động, đồng thời kích thích quá trình tư duy của học sinh. Phương pháp trực quan sinh động cũng được thể hiện qua việc các em thực hành tình huống đóng vai. Thông qua việc xem các bạn diễn, học sinh có cái nhìn gần gũi, dễ hiểu, ấn tượng về truyện. Phần nào, trực quan sinh động cũng là con đường biện chứng đến tư duy để thấu hiểu, lí giải những vấn đề tác giả đề cập đến trong văn bản một cách hiệu quả và sáng tạo. 1.3. Phương pháp thực hành Trong các phương pháp dạy học truyền thống, nhóm thực hành mang tính chủ động nhiều nhất. Giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh hoạt động thực hành để khám phá tri thức mới, và vận dụng nó để củng cố rèn luyện kỹ năng của bản thân. Nhóm phương pháp này sẽ bao gồm việc luyện tập, ôn và làm việc trong phòng thí nghiệm. Phương pháp này có ưu điểm: rèn luyện cho học sinh những kỹ năng kỹ xảo và củng cố tri thức; hình thành cho người học những phẩm chất như việc thu thập thông tin, đánh giá vấn đề, tìm tòi các vấn đề mới, những điểm tương đồng với những văn bản trong cùng tập truyện, hoặc với các truyện hiện đại… từ đó có cách giải quyết các vấn đề văn bản đặt ra một cách hiệu quả nhất. Với bộ môn văn, tôi nhận thấy, phương pháp thực hành có hiệu quả cho sự lĩnh hội kiến thức và phát triển năng lực nói chung, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo nói riêng bằng các cách sau: - Vẽ sơ đồ tư duy: Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Mindmap. Đây là một phương pháp được đưa ra như một phương tiện giúp tăng khả năng ghi nhận hình ảnh của não bộ. Mindmap là một kĩ thuật giúp nâng cao cách ghi chép bằng cách sử dụng bản đồ để thể hiện 18
  19. tổng thể vấn đề, được chỉ ra dưới dạng một hình ảnh trong đó các đối tượng liên hệ với nhau bằng những đường nối, qua đó giúp dữ liệu được dễ dàng ghi nhớ hơn và nhanh chóng hơn. Giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy tóm tắt văn bản thông qua việc lập dự án ở nhà. Khi vẽ sơ đồ tư duy, học sinh phải có sự nhận biết vấn đề, thu thập, phân tích thông tin, năng lực đề xuất, lựa chọn giải pháp phù hợp. - Làm bài tập: Đây là cách làm thường thấy của các giáo viên khi dạy văn. Tuy vậy, trong khi cho các em làm bài tập cũng cần có những yêu cầu để phát triển kĩ năng chứ không chỉ kiểm tra tri thức. Với văn bản này, tôi cho học sinh làm một số bài tập trắc nghiệm nhỏ ở phần củng cố bài học như: Câu 1: Nét tính cách nổi bật nhất của Tử Văn được tác giả tô đậm, nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm là gì? a. Cương trực, khảng khái b. Ngất ngưởng, khinh bạc c. Điềm tĩnh, tự tin d. Tài hoa, hào hiệp Câu 2: Kết thúc vụ án, Tử Văn được đền đáp. Lòng tốt và sự cương trực đã được biểu dương, ân thưởng. Hiểu một cách sâu xa, khái quát nhất, đó là ai thắng ai? a. Chính thắng tà b. Thật thắng giả c. Thiện thắng ác d. Nội tộc thắng ngoại bang Câu 3: Xét về mặt nghệ thuật viết truyện, vì sao tác giả lại rất chú ý đến việc kể, tả về cơn sốt hay trạng thái tâm lí bất thường của Tử Văn? Cách lí giải nào sau đây không thỏa đáng? a. Vì khi đưa người đọc từ thế giới thực sang thế giới hoang tưởng, cần tạo ra chuyển biến hợp lí, tự nhiên. Cơn sốt của Tử Văn thỏa mãn yêu cầu này. b. Vì không sử dụng yếu tố kì ảo một cách tùy tiện mà vẫn tạo ra được sự tự nhiên, hợp lí cho câu chuyện. c. Bản thân cơn sốt là một mắc xích không thể thiếu được trong chuỗi biến cố. d. Vì đốt đền là hành động liều lĩnh, lỗ mãng, báng bổ thần linh, khinh thường ma quỷ nên Tử Văn bị trừng phạt. Rõ ràng, bản thân các câu hỏi trắc nghiệm là giữa các đáp án có sự na ná giống nhau, nguyên tắc của các đáp án là làm nhòe thông tin chi tiết, vậy nên khi 19
  20. làm các bài tập này, học sinh cần phải phân tích, xử lí thông tin chính xác mới lựa chọn được giải pháp phù hợp, đúng đắn. Bài tập tiếp theo mà tôi đưa ra cho học sinh là lập dàn ý cho đề văn sau: Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Nguyễn Dữ viết: Than ôi! Người ta thường nói: “cứng quá thì gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm? Em có đồng ý với ý kiến trên không? Bài tập này tôi cho các em tiến hành trong phần vận dụng. Thông qua việc đưa ra ý kiến của mình, học sinh sẽ cần có khả năng nhận diện, đánh giá vấn đề, đưa ra các cách giải quyết khác nhau. - Vẽ tranh: Đây là phương pháp kết hợp giữa tư duy văn học và tư duy nghệ thuật hội họa. Điều này khiến học sinh sẽ hứng thú, giảm áp lực, phát huy được trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của các em. Phần này, tôi đã cho các em làm trong bài tập giao về nhà khi kết hợp với dự án. Tôi sử dụng phương pháp vẽ tranh khi yêu cầu học sinh tái hiện lại một cảnh tiêu biểu trong truyện như cảnh Tử Văn đốt đền hoặc cảnh phán xử ở Minh ti; có thể thiết kế trang phục cho các nhân vật trong truyện. Học sinh có thể kết hợp sự hiểu biết của mình để tưởng tượng và thể hiện theo sự sáng tạo của các em. Trong quá trình vẽ, học sinh sẽ động não và sáng tạo. Bài tập này được kết hợp trong dự án thiết kế giao cho học sinh làm ở nhà. Như vậy, có thể nói, phương pháp truyền thống cũng có thể vận dụng để phát huy năng lực của người học. Điều này đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh để linh hoạt sử dụng, đồng thời giáo viên cũng là người định hướng các em để học sinh phát huy được khả năng của mình. 2. Vận dụng tối đa các phương pháp dạy học mới Phương pháp dạy học mới là phương pháp dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm. Để dạy học theo phương pháp tích cực yêu cầu thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp truyền thống. 2.1. Phương pháp dự án Dạy học dự án là một hình thức của dạy học hợp tác, hướng học sinh đến việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng thông qua quá trình giải quyết một bài tập tình huống được gọi là một dự án mô phỏng môi trường mà các em đang sống và sinh hoạt. Bản chất của dạy học dự án không phải là dạy học sinh những nội dung kiến thức cụ thể mà là dạy cho các em cách tiếp thu và vận dụng kiến thức. 20
nguon tai.lieu . vn