Xem mẫu

  1. A. PHẦN MƠ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Giáo dục 4.0 với sự phát triển và ứng dụng của thực tế ảo vào cuộc sống,  công nghệ  trí tuệ  nhân tạo được cải tiến, đổi mới liên tục, chương trình giáo  dục tiếp cận xuyên môn, thực hiện giáo dục suốt đời, cá nhân hóa học tập…   được  ứng dụng vào giáo dục đã tạo nên sự  đổi thay tích cực cho công tác dạy  học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng. Xu thế tất yếu của dạy học là phát   huy năng lực học sinh, đặc biệt trong môn Ngữ văn cần chú trọng phát huy năng   lực tư duy sáng tạo, cảm thụ thẩm mĩ, hợp tác và giao tiếp, học tập suốt đời…   Người giáo viên buộc phải thay đổi vị trí của mình không còn là người cung cấp   kiến thức mà chuyển sang người hướng dẫn, hỗ trợ và hợp tác.Vậy làm thế nào  để  có thể  tích cực hóa hoạt động của học sinh? Bằng cách nào để  tạo ra môi  trường học tập tương tác, phát huy được năng lực tư  duy sáng tạo, cảm thụ  thẩm mĩ ở người học? Đó cũng là trăn trở, băn khoăn của tác giả khi tìm đến đề  tài này. Kí văn học là thể  loại khá phổ  biến trong văn học hiện đại, cũng là thể  loại văn học chiếm thời lượng khá nhiều trong chương trình phổ  thông. Học  sinh khó phân biệt rạch ròi ranh giới thể  loại. Làm thế  nào để  tích cực hóa   hoạt động của người học, giúp các em có được sự  chủ  động, tích cực chiếm  lĩnh tri thức bài học… ? Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác và độc đáo  với “gu” thẩm mĩ riêng , tư duy liên tưởng phóng khoáng, bất ngờ, câu văn giàu   có dồn nén ý nghĩa…Tiếp cận, cảm hiểu được vẻ  đẹp và văn phong Nguyễn   Tuân là việc không hề dễ  với học sinh phổ  thông. Trong quá trình giảng dạy,  rất nhiều em học sinh hỏi tôi là đối với tác phẩm kí văn học làm thế  nào để  viết và cảm nhận tốt?  Kí văn học được đưa vào dạy học trong chương trình  phổ  thông với thời lượng tương đối nhiều và việc nắm bắt, tiếp nhận các tác  phẩm kí văn học với các em học sinh là việc tương đối khó, nhất là tùy bút của  Nguyễn Tuân với kho chữ nghĩa dày dặn và liên tưởng phóng khoáng, độc đáo,  bất ngờ … lại càng khó. Hơn nữa trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học  hiện nay, việc tích cực hóa hoạt động của học sinh , phát huy năng lực tư duy   sáng tạo , cảm thụ thẩm mĩ trong giờ dạy đọc hiểu văn bản kí văn học, tùy bút   cần được chú ý hơn bao giờ hết. Để  góp phần giải quyết những khó khăn mà  học sinh gặp phải cũng như  các câu hỏi trên, tôi đã đưa ra đề  tài:  Giải pháp  tích cực hóa hoạt động của học sinh, phát huy năng lực tư  duy sáng tạo,  cảm thụ thẩm mĩ  trong giờ dạy đọc hiểu văn bản kí văn học “ Người lái  đò Sông Đà”  1
  2. II. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI Giới hạn  nội dung:  Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của dạy học văn bản  kí văn học­ tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân theo hướng tích  cực hóa hoạt động, phát triển năng lực tư  duy sáng tạo, cảm thụ  thẩm mĩ của  học sinh. Giới hạn địa bàn:  Đề  tài được triển khai nghiên cứu tại các trường THPT trong huyện Đô  Lương, Nghệ An III. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung được triển khai qua   ba phần: Phần một: Thực trạng dạy và học kí văn học hiện đại trong nhà trường   phổ thông hiện nay. Phần hai: Cơ sở lí luận về thể kí văn học, đặc điểm tùy bút Nguyễn Tuân   và dạy học tích cực hóa hoạt động học sinh, phát huy năng lực tư duy sáng tạo,   cảm thụ thẩm mĩ khi ttor chức dạy học đọc hiểu văn bản kí văn học’ I.Thể kí văn học II. Đặc điểm tùy bút Nguyễn Tuân III.  Cái tôi Nguyễn Tuân qua tùy bút “ Người lái đò Sông Đà”. IV.Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh trong giờ  dạy đọc hiểu   văn bản kí văn học hiện đại, tùy bút “Người lái đò Sông Đà”. Phần ba: Vận dụng định hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, phát  huy năng lực tư duy sáng tạo, cảm thụ  thẩm mĩ khi tổ  chức dạy học đọc hiểu   văn bản kí văn học “Người lái đò Sông Đà”. IV. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH: ĐỀ  TÀI KẾT HỢP NHIỀU PHƯƠNG PHÁP: Phương pháp thống kê phân  loại, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp tổng hợp chứng minh.    2
  3. B. NỘI DUNG PHẦN MỘT: THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC KÍ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY. I. VỀ PHÍA NGƯỜI DẠY Qua thực tế dạy học  ở trường và dự  giờ  đồng nghiệp, bản thân tôi nhận  thấy: Giáo viên đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy   năng lực người học, dùng các câu hỏi phát hiện tín hiệu nghệ thuật và khai thác   ý nghĩa của các tín hiệu nghệ thuật. Tuy nhiên trong cách tổ  chức giờ dạy học,   năng lực tư  duy sáng tạo, cảm thụ  thẩm mĩ của học sinh chưa thực sự  được  khơi mở nhiều, thường có hai xu hướng sau: Hướng thứ  nhất: Một số  giáo viên quá ôm đồm kiến thức, đưa ra nhiều  chi tiết nghệ thuật phân tích tỉ  mỉ, vụn, khiến bài dạy nặng nề, không có điểm  nhấn. Hướng khai thác này học sinh chưa thực sự  được phát huy năng lực tư  duy sáng tạo, cảm thụ thẩm mĩ, khó ghi nhớ. Hướng thứ  hai:  Một số giáo viên từng trải đã tổ  chức giờ  dạy học theo   hướng đổi mới phương pháp, hướng dẫn học sinh khai thác, cảm nhận các chi   tiết nghệ  thuật tiêu biểu, song khai thác mới dừng lại  ở  việc nêu ý nghĩa nội  dung. Phần rèn luyện kĩ năng, năng lực tư  duy sáng tạo, cảm thụ  thẩm mĩ còn   sơ  sài, cảm thụ  văn bản kí văn học, tùy bút  ở  các phương diện chưa sâu. Hiệu  quả giờ dạy còn ở mức nhận biết, thông hiểu,rèn luyện kĩ năng, năng lực chưa  thực sự sâu sắc. II. VỀ PHÍA HỌC SINH Qua khảo sát thực tế học tập và làm bài của học sinh, bản thân người viết  nhận thấy: học sinh còn lúng túng trong việc đọc hiểu và cảm thụ, năng lực tư  duy sáng tạo chưa cao, nhận thức các em còn cảm tính. Học sinh có cảm giác   nặng nề, khó nhớ, “khó cảm” các văn bản kí và nhận thức văn bản chưa sâu,  chưa biết gắn cảm thụ chi tiết nghệ thuật với bình luận, đánh giá, so sánh, nâng  cao vấn đề. Do đó khi làm bài kiểm tra, các bài thi, học sinh nghiêng về  diễn  xuôi, diễn ý. Đặc biệt các em chưa có kĩ năng vận dụng chi tiết nghệ thuật đặc   sắc trong bài kí văn hịc, tùy bút trên cơ  sở  đặc trưng thể loại kí; chưa biết gắn  với trào lưu văn học và thời đại văn học. Khả năng tư duy độc lập, khả năng tự  học của học sinh còn thấp, đa số các em chưa tự cảm thụ, cảm nhận bằng kinh   nghiệm riêng của bản thân mà còn dựa dẫm vào tài liệu tham khảo và sự hướng  dẫn của giáo viên. III. VỀ PHÍA TÀI LIỆU THAM KHẢO Các   tài   liệu   sách   giáo   khoa   (SGK)   Ngữ   văn   12   chương   trình   chuẩn,  chương trình nâng cao, trong phần hướng dẫn học bài rất ít các câu hỏi phát   triển tư duy sáng tạo, cảm thụ thẩm mĩ. 3
  4. Các tài liệu tham khảo như sách giáo viên (SGV) Ngữ văn 12 chương trình  chuẩn, chương trình nâng cao, cũng nghiêng về trả  lời các câu hỏi phần hướng  dẫn học bài, chưa có phần rèn kĩ năng phát hiện, khai thác các chi tiết nghệ  thuật đặc sắc,phát triển tư duy sáng tạo, cảm thụ thẩm mĩ. Các sách lý luận văn học: Lý luận văn học do Trần Đình Sử  ­ Nguyễn  Xuân Nam – Phương Lựu chủ biên, NXB GD 1987, giáo trình Phương pháp dạy  đọc văn bản, NXB Đại học Cần Thơ 2020 đã cung cấp những kiến thức lý luận   cơ bản về kí văn học và lý thuyết dạy đọc nói chung. IV. THI CỬ Khảo sát các đề  thi học sinh giỏi, theo tinh thần đổi mới kiểm tra đánh   giá, người ra đề đã chú ý đến các kiểu đề nhằm phát huy tư duy sáng tạo, cảm  thụ  thẩm mĩ của học sinh sau khi học văn bản kí văn học “Người lái đò Sông  Đà”. Đề thi chọn Học sinh giỏi văn cấp Thành phố Bình Thuận, năm học 2001  ­2002:  Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: “ Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà  khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ  ta không hề  thấy ngại miệng, một nhà  văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ  tuôn ra đầu ngọn bút đều như  có   đóng một dấu triện riêng.” Anh (chị) hãy phân tích những nét đặc sắc về  nghệ  thuật trong tùy bút “   Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân để làm sáng tỏ ý kiến trên. Đề  thi Tuyển sinh  Đại học khối D năm 2013, câu 2 điểm trong phần  chung cho tất cả các thí sinh, có câu: Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo   dục Việt nam, 2013) Nguyễn Tuân từng nhìn “Sông Đà như một cố nhân”. Người “cố nhân” ấy có tính nết như thế nào? Cách ví von này có ý nghĩa   gì? Đề thi học sinh giỏi lớp 12 tỉnh Hưng yên năm học 2017 – 2018: Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân thường tiếp cận những đối tượng phi  thường, xuất chúng bằng một ngòi bút tài hoa, uyên bác. Qua hình tượng con sông Đà trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà” của  Nguyễn Tuân, anh / chị hãy bình luận ý kiến trên. Từ những lý do trên tôi nhận thấy việc phát huy năng lực tư duy sáng tạo,   cảm thụ thẩm mĩ trong giờ dạy đọc văn bản kí văn học là rất cần thiết và có ý  nghĩa thiết thực. Vì vậy tôi muốn chia sẻ với các đồng nghiệp kinh nghiệm nhỏ  của bản thân trong đề tài này. 4
  5. 5
  6. PHẦN HAI: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỂ KÍ VĂN HỌC,ĐẶC ĐIỂM TÙY BÚT NGUYỄN  TUÂN, TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ  DẠY ĐỌC VĂN BẢN KÍ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI, TÙY BÚT “ NGƯỜI LÁI  ĐÒ SÔNG ĐÀ”. I. QUAN NIỆM VỀ THỂ KÍ VĂN HỌC I.1 Khái quát chung về thể kí văn học hiện đại Kí là một loại văn xuôi tự sự, có nguồn gốc từ kí lịch sử, dùng để ghi chép  về con người, sự vật, phong cảnh…kí bao gồm nhiều thể như: Bút kí, hồi kí, du   kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút… Theo từ điển Thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử chủ biên, kí  là loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể,   chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, kí sự, tùy bút… Trong văn học cổ phương Đông, thể kí vốn có mặt từ thời kỳ tiền Tần và   về  sau phân thành 2 nhánh: có kí của sử  và kí của truyện. Trong một thời gian  khá dài thì kí là tiền thân của tiểu thuyết, có khi tên gọi kí cũng dùng cho tiểu   thuyết hay một câu chuyện có kịch tính như Tây du kí, Tây sương kí… Trong nền văn học Việt Nam, kí có từ rất lâu đời, nhưng phải đến thế kỉ  XVII, đặc biệt là từ  thế kỷ XIX, khi đời sống các dân tộc ngày càng phát triển   nâng cao, khi kỹ nghệ in ấn và báo chí phát triển, khi văn học cũng đã thâm nhập  vào các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác của xã hội và nhà văn có ý thức tham   gia vào các cuộc đấu tranh xã hội, kí mới thực sự phát triển và là thể loại phức   tạp nhất trong văn xuôi tự  sự  thời trung đại. Sang thế  kỉ  XX, nhất là sau cách  mạng tháng Tám cùng với sự phát triển của văn học, thể kí có nhiều bước tiến   mới.  “Kí  sự   cao  Lạng”   của   Nguyễn  Huy  Tưởng,  “Đường  chúng  ta  đi”  của  Nguyên Ngọc, “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới… thấm đẫm chất thật của  đời sống, vừa đậm chất tài hoa văn chương của người viết. Kí văn học là thể  loại cơ  động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh  hiện thực  ở nét sinh động và tươi mới nhất. Tác phẩm kí vừa có khả  năng đáp  ứng những yêu cầu bức thiết của thời đại, đồng thời vẫn giữ  được tiếng nói   vang xa của nghệ thuật. Kí văn học là nơi gặp gỡ của hai nhân tố quan trọng: sự  thật đời sống và giá trị nghệ thuật. Trong thể kí văn học, cái Tôi bao giờ cũng là  cái tôi thẩm mĩ. (Nó khác với kí báo chí). Kí văn học có những đặc trưng cơ bản sau: ­ Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự  trung thực, chính xác. Người viết kí thường quan tâm, tôn trọng những sự  kiện  xã hội lịch sử, những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra trong đời sống. Người viết   6
  7. kí miêu tả thực tại tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử  học. Tác giả  kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa điểm,  hành động và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh gợi không khí. ­ Tác giả  kí khéo sử  dụng tài liệu đời sống kết hợp với tư  tưởng, cảm   thụ, nhận xét, đánh giá. Tất nhiên đan xen vào mạch tự  sự  con có những đoạn  thể hiện suy tưởng nhận xét chân thực, tường minh của nhà văn trước sự việc.   cái thú vị  của kí là những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả  được đan cài với  việc tái hiện đối tượng. Vì vậy sức hấp dẫn của kí là khả năng tái hiện sự thật   một cách sinh động của tác giả. Kí chấp nhận sự  hư  cấu, do đó phải dựa vào   những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật,  cuộc   sống.   Điều   đó   làm   nên   cái   đẹp   của   tácphẩmkí. ­  Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là chất chủ  quan, chất trữ  tình sâu đậm  của cái tôi tác giả. Cho nên sức hấp dẫn của kí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn   của cái tôi ấy (thường là những cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa, độc đáo…) Tùy bút là một thể của kí văn học. Trong “Vũ trung tùy bút” , Phạm Đình  Hổ  cho rằng tùy bút đề  cập đến những vấn đề  rất đa dạng, không theo một  trình tự nào, từ  chuyện thân thế, gia đình đến chuyện, thời cuộc, lịch sử… Tùy   theo hứng thú, sự quan tâm của người viết mà thể hiện các đề tài ấy. Trong văn  học hiện đại,  tùy bút là khái niệm được dùng để chỉ những tác phẩm viết một   cách phóng khoáng, tự  do, theo dòng suy nghĩ, liên tưởng của người viết. Tùy  bút cũng là ghi chép, nhưng không chỉ  ghi chép sự  việc mà trong đó có cả  suy   nghĩ, cảm xúc người viết khi tiếp xúc với thực tế. Với các tập “Tùy bút I”   (1941); “Tùy bút II) (1943) Nguyễn Tuân làm sống lại khái niệm tùy bút trong  văn học, đồng thời “định nghía” lại thể  tùy bút. Theo ông, phần trình bày suy  nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của người viết chiếm một tỉ trọng lớn,   do đó chất trữ tình thường khá đậm nét. II: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TÙY BÚT (KÍ) NGUYỄN TUÂN II.1. Nguyễn Tuân là một trong số không nhiều những nhà văn hiện đại đã  xây dựng được một phong cách nghệ  thuật cho riêng mình.Ông đặc biệt thành  công  ở  thể  tùy bút. Có thể  nói thể  tùy bút đã tạo đất cho nhà văn dụng võ,  ngược lại, với Nguyễn Tuân, thể  tùy bút cũng đã có bước phát triển mới. Nhà  văn thể hiện nét tài hoa uyên bác với con mắt của nhiều ngành nghệ thuật, ngôn  ngữ phong phú, hình ảnh sáng tạo mới lạ. Là một cây bút tài hoa, lịch lãm “thông   kim bác cổ”, những trang viết của Nguyễn Tuân đem đến cho người đọc rất  nhiều kiến thức: văn hóa, hội họa, điêu khắc, điện  ảnh, điện  ảnh, quân sự, võ  thuật và cả những thông tin khoa học. Nhà văn có cách nhìn, cách miêu tả thiên  nhiên rất độc đáo. Thích cái độc đáo duy nhất, Nguyễn Tuân tô đậm cái phi  thường tuyệt mĩ khiến người đọc choáng ngợp. Ông tìm đến Sông Đà với sự dữ  dội mãnh liệt và tuyệt mĩ thơ  mộng. Sông Đà được vẽ  lên bằng ngòi bút biến  hóa tài tình, độc đáo.Sông Đà – dữ  dội, Sông Đà – anh hùng ca, sông Đà – nên  7
  8. thơ. Tài năng độc đáo của Nguyễn Tuân làm cho bản chất ấy sắc nhọn thêm.Tác  giả gọi đó là vừa hung bạo vưà trữ tình.            Nguyễn Tuân nhìn và miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.   Người lái đò dưới con mắt nguyễn tuân được xem như  một nghệ  sĩ. Tài nghệ  của ông đò là là nắm chắc được quy luật của dòng nước Sông Đà, thuộc lòng  các luồng sinh, luồng tử của những con thác dữ, đưa con thuyền vượt trùng vi  thạch trận như một vị tướng dũng mãnh phi phàm, đạt đến trình độ nghệ sĩ tinh   vi, nghệ thuật cao cường. Một tay lái “ra hoa”.          Nguyễn Tuân thể hiện một trình độ sử dụng ngôn từ điêu luyện hiếm có.  Đi sâu tìm hiểu, khám phá sự  vật, nẵm bắt cho được cái cốt lõi,tinh túy, thần   thái của nó, nhà văn kết hợp với cảm xúc chủ quan, uyên bác giàu chất trí tuệ và   trữ tình và diễn đạt, thể hiện dưới hình thức ngôn ngữ sáng tạo. Dưới ngòi bút  của ông, sự vật hiện lên với đầy đủ  “khí chất”, văn bộc lộ hết “chất Nguyễn”,   sự  vật càng nổi hình nổi nét, cựa quậy xôn xao. Với Nguyễn Tuân, ngôn ngữ  nghệ thuật vừa là phương tiện, vừa là dấu ấn chủ quan của người nghệ sĩ. Qua  bàn tay ông, tiếng Việt như  một “khối vuông ru bích” biến hóa và dậy lên sắc   màu nghệ  thuật. Nói như  nhà văn Anh Đức: “Mỗi dòng, mỗi chữ  tuôn ra đầu   ngọn bút như có đóng một dấu triện riêng”; gọi ông là “một bậc thầy của ngôn  từ, ta không hề thấy ngại miệng”. Ông đã sáng tạo ra hàng loạt từ ngữ mới cho   từ điển Tiếng Việt. Phong cách nghệ thuật là diện mạo riêng của sáng tác được   tạo bởi sự  thống nhất giữa các hình thức, các phương diện biểu hiện phù hợp  với cái nhìn độc đáo của người nghệ sĩ với cuộc sống. Nguyễn Tuân thực sự là   nhà văn có phong cách phong phú, độc đáo. Phong cách  ấy đã mang lại cho tác   phẩm những giá trị  độc đáo, giúp người đọc thêm yêu cảnh trí thiên nhiên đất  nước và tự hào về những người lao động tài hoa, thêm yêu quý sự giàu đẹp của   ngôn ngữ dân tộc.  II.2. “Người lái đò Sông Đà” mang đặc điểm phong cách nghệ  thuật của   Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân là người đã đóng dấu “cái tôi độc tấu” của ông lên   thể  loại tùy bút. Ông là nhà văn đem đến cho tùy bút những phẩm chất nghệ  thuật mới theo cách nói vui vui của ông: Tùy bút là tùy vào bút mà viết, tùy bút   của ông có những đặc điểm in đậm cá tính sáng tạo và phong cách nghệ  thuật   của ông. Vì vậy, khi giảng dạy tác phẩm, thầy cô giáo cần lưu ý một số  đặc   điểm sau về tùy bút của nhà văn:   Tùy bút của Nguyễn Tuân có nhiều yếu tố  truyện. Nguyễn Tuân bén   duyên với truyện trước, sau đó mới gặp gỡ với tùy bút. Vì vậy truyện ngắn của  ông xen chất tùy bút và tùy bút lại pha chất truyện ngắn. Tùy bút của ông   thường phát huy sức mạnh của trí tưởng tượng, liên tưởng, so sánh để  dựng  cảnh, dựng truyện, có mô tả  tâm lý, khắc họa tính cách nhân vật  ở  một chừng  mực nhất định.  Tùy bút của Nguyễn Tuân rất đậm chất kí. Ghi chép sự  thật và thông tin  thời sự, chính xác, đó là nét riêng của tùy bút Nguyễn Tuân. Cũng do quan niệm   8
  9. đi, sống và viết, xê dịch nên tùy bút của ông pha chút du kí, kí sự  hay phóng sự  điều tra. Chính nét riêng này khiến tùy bút của ông có lượng thông tin đáng tin  cậy và có nhiều giá trị tư liệu.   Tùy bút của Nguyễn Tuân giàu tính trữ  tình. Những trang tùy bút của  Nguyễn Tuân giàu tính cảm xúc, lắng thấm những cảm nghĩ của ông, thông qua  cái “tôi” chủ quan của ông mà phản ánh hiện thực cuộc sống.  Tùy bút của Nguyễn Tuân đúng nghĩa tự  do về phép tắc. Tùy bút là một  tác phẩm tự sự có kết cấu lỏng lẻo, nhưng không buông tuồng dễ dãi. Ở tùy bút   của Nguyễn Tuân, mạch văn cứ  theo dòng suy nghĩ mà tràn chảy miên man từ  truyện nọ  tạt sang truyện kia. Nhà văn cứ  theo hứng bút, cứ  nhởn nhơ  theo trí  nhớ  bông lông, theo năng lực cảm thụ  cái đẹp rất tài hoa nghệ  sĩ của mình mà  liên tưởng so sánh, tạo những bước nhảy vọt bất ngờ  của ý tứ, của hình ảnh,   nhưng không chệch ra ngoài vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật. Tùy bút của Nguyễn Tuân có phẩm chất văn chương qua sự  tìm tòi sáng   tạo về cách diễn ý, tả cảnh, đặt câu, dùng từ. Văn tùy bút của Nguyễn Tuân là  cả  một kho tu từ đầy  ắp và thú vị  những ví von,  ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng.   Nhà văn tả cảnh theo sự thay đổi cảm giác rất tinh tế “Bờ  sông hoang dại như  một bờ tiền sử…hồn nhiên như  một nỗi niềm cổ tích thuở  xưa” (Người lái đò  Sông Đà). Câu văn tùy bút của Nguyễn Tuân có kiến trúc đa dạng, giàu nhạc   tính.  Tùy bút của Nguyễn Tuân là sự kết tinh tài hoa và uyên bác, khi tập trung   miêu tả  con Sông Đà bằng sự  huy động vốn liếng tri thức chuyên môn cực kỳ  giàu có của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau (sử học, địa lí học, quân  sự, tri thức về  võ thuật, nghệ  thuật văn chương, hội họa, điêu khắc âm nhạc,   điện ảnh…). Và một khi đã miêu tả thì ông tả đến cùng sự vật hiện tượng, đúng   là tả đến “Sơn cùng thủy tận”, uống rượu cả cấn “Dĩ tận vi độ”.  Những đặc trưng cơ bản trên đây của các tác phẩm kí sẽ là điểm tựa cho  thầy cô giáo trong việc giảng dạy tác phẩm kí hiện đại Việt Nam.  III “Cái tôi” của Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà”. Sở dĩ Nguyễn Tuân tìm đến và thành công với thể tùy bút, bởi vì nó là thể  văn phóng túng, tự  do, đáp  ứng được cá tính “ngông” trên trang viết của ông.  Cùng với Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân là đỉnh cao của thể  tùy bút;  ảnh   hưởng nhiều tới các cây bút hậu bối (Võ Phiến…). Là nhà văn có phong cách   nghệ  thuật đặc sắc, Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc bởi “cái tôi” riêng biệt.   Cái tôi tác giả trong tùy bút là chủ thể bộc lộ: khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp,   thể hiện cảm xúc, chiêm nghiệm của chính tác giả. Biểu hiện gián tiếp qua đối  tượng được miêu tả, ghi lại; giọng hoặc cảm hứng ngầm  ẩn sau các miêu tả;   hình thức câu văn; cách ngắt nhịp; ngôn ngữ. Có khi biểu hiện trực tiếp qua nhân  vật cụ  thể  xưng “tôi”( thuyền tôi trôi trên Sông Đà…). Cái tôi Nguyễn Tuân  hướng ngoại, phô tỏ  tài năng trong quan sát, miêu tả, liên tưởng; độc đáo, tài  9
  10. hoa, uyên bác, giác quan sắc nhọn, tinh tế, nghệ  thuật sử  dụng ngôn từ  điêu   luyện, giàu hình ảnh, cảm xúc. Sức hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Tuân trong tác  phẩm “Người lái đò sông Đà” là ở sự độc đáo, sự giàu có về chữ nghĩa, sự công  phu trong quan sát và lựa chọn ngôn từ. Nguyễn Tuân là người thợ kim hoàn của  chữ, ngôn ngữ  của ông đầy cảm giác. Nếu Thạch Lam là văn chương của tính  từ, động từ  chỉ  trạng thái cảm xúc tế  vi, mềm mại; nếu Xuân Diệu là văn   chương của động từ  mạnh thì Nguyễn Tuân sử  dụng cả  động từ  và tính từ  chỉ  mức độ tận cùng, sắc nhọn; hay sử dụng những câu văn dài, trúc trắc, cách ngắt  nhịp lạ. Nguyễn Tuân là nhà văn ghi dấu ấn bởi những câu văn trùng điệp, gấp  khúc cùng những liên từ.   Đó là một cái tôi tài hoa: Luôn nhìn cuộc sống, sự  vật, con người  ở  phương diện, góc độ văn hóa thẩm mỹ nên phát hiện ra nhiều vẻ đẹp hùng vĩ và   mỹ  lệ  của thiên nhiên, đất nước. Với đôi mắt của nhà văn suốt đời “duy mĩ”,  Nguyễn Tuân đã nhìn sông Đà  ở  góc độ  thẩm mỹ  để  phát hiện ra vẻ  đẹp trữ  tình của con sông: Sông Đà được ông ví như  một người con gái đẹp kiều diễm  với “áng tóc mun ngàn ngàn vạn vạn sải” với màu sắc của nước sông Đà thay   đổi theo mùa, sông Đà gợi cảm, sông Đà “hoang dại như  một bờ  tiền sử, bờ  sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Không chỉ nhìn cảnh vật ở  điểm nhìn văn hóa thẩm mỹ, Nguyễn Tuân còn nhìn người lái đò ở góc độ nghệ  sĩ để  phát hiện ra tài năng trong nghệ  thuật vượt thác leo ghềnh, khi đã nắm  chắc được “binh pháp” của thần sông, thần đá “thuộc lòng các luồng sinh tử”  của các con thác dữ  nên chủ  động trong mọi tình huống, có thể  lái con thuyền   vút vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang hiểm hóc và Nguyễn Tuân đã gọi đó  là “tay lái ra hoa” của một người nghệ sĩ có tâm hồn cao thượng, một phong thái   ung dung, tự tại, một trí thông minh lão luyện và lòng dũng cảm được tôi luyện  trong lao động và chiến đấu.  Ở Nguyễn Tuân còn là một cái tôi “uyên bác”: “Uyên bác” là sự hiểu biết  sâu rộng nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghệ thuật và có thể  cung cấp, đóng góp,  lý giải những kiến thức đó cho người khác. Trong tác phẩm ông hay vận dụng những tri thức của rất nhiều ngành  nghệ  thuật, thậm chí cả  những ngành không liên quan gì đến nghệ  thuật để  miêu tả, khám phá hiện thực. Nó có tác dụng làm cho người đọc nhìn nhận hiện   thực  ở  nhiều góc độ  và cung cấp cho người đọc một lượng thông tin hết sức   phong phú ngoài văn chương. Chẳng hạn, ông mô tả  cái hút nước khủng khiếp của sông Đà bằng kỹ  thuật phim  ảnh “tôi sợ  hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào   muốn truyền cảm giác lạ  cho khán giả…” nhà văn còn sử  dụng tri thức của   quân sự, võ thuật để miêu tả nước, đá ở sông Đà: Nào là cửa sinh, của tử, đánh  khuýp vu hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp lá cà, nào là đòn tỉa, đòn âm, đá   trái, thúc gối, túm thắt lưng… 10
  11. Ngoài ra nhà văn còn vận dụng những tri thức của nhiều bộ môn khoa học   trong tác phẩm của mình, một vốn văn hóa phong phú, lịch lãm hiếm thấy, làm  cho bài tùy bút của ông có giá trị văn hóa cao. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà”   đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lí sông Đà, về  lịch sử  cách mạng xung quanh con sông này, về  địa hình địa thế  của nó, về  những con thác đủ loại, về các tài nguyên đất nước vùng sông Đà, về những bài  thơ của Nguyễn Quang Bích, Tản Đà…về con sông miền Tây của Tổ quốc này.   Ở  “Người lái đò sông Đà”, lâu nay người ta chỉ  quen thấy một cái tôi tài hoa,   uyên bác. Nhưng rõ ràng thông qua cái tôi ấy, người đọc còn nhận thấy được tác  phẩm còn là cảm hứng ngợi ca đầy say mê của một con người yêu tha thiết vẻ  đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người như Nguyễn Tuân – suốt đời đi tìm cái  đẹp, cái đẹp của một cây bút tài hoa độc đáo. Văn chương là tâm huyết thực sự  của đời ông. Làm nên linh hồn của những áng văn xê dịch ấy là tấm lòng gắn bó  thiết tha với quê hương, đất nước của ông. Cũng như  Nguyễn Du làm giàu và   làm sang cho ngôn ngữ  dân tộc bằng “Truyện Kiều”, Nguyễn Tuân cũng thế.   Những trang văn của ông không chỉ  thấm đượm linh hồn quê hương mà còn là   sự thể hiện sự giàu có của tiếng nói dân tộc Việt, đó là “sự giàu có và giá trị tạo  hình cao, như muốn ganh đua cùng tạo hóa”.  Từng câu, từng chữ mà ông đặt lên  trang giấy là cả  một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng.  Nguyễn Tuân thích sáng tạo những cái độc đáo cả  trong đời thực và trong văn   chương. Ông thích Đô­xtôi­ép­xki, và dường như chính ông là một minh họa cho   định nghĩa nổi tiếng của Đốt: “Tài nghệ  vĩ đại nhất của nhà văn là ở  chỗ  biết   xóa bỏ”. Trong suốt cuộc đời lao động nghệ  thuật cần cù, miệt mài, trau chuốt   từng câu, từng chữ, Nguyễn Tuân đã biết tự  “xóa bỏ” để  tồn tại và trở  thành   một nghệ sĩ lớn. Đằng sau sự uyên bác về kiến thức, cầu kì, tỉ mỉ trong từng câu  chữ, là một tấm lòng tha thiết yêu quê hương xứ  sở. Giáo sư  Nguyễn Đăng  Mạnh từng nói: ở Nguyễn Tuân, bài học thấm thía nhất là bài học về tính chất   “khổ hạnh” của nghệ thuật ngôn từ. Đây quả là “ nghề chơi cũng lắm công phu   ” , một lao động đầy gian nan vất vả. thành công của nó được trả giá bằng tâm   huyết, lòng tự trọng, bằng vốn sống và sự lăn lộn với đời, bằng tri thức, mồ hôi  của trí não đổ  xuống khi “thiết kế” từng hình  ảnh, xếp đặt từng câu, cân đo   từng chữ. Gorki từng nói: “Cái bình thường là cái chết của nghệ  thuật”. Đó có  lẽ  cũng là điều mà một người như  Nguyễn Tuân sợ  nhất. “Con người  ấy luôn  muốn đề  cao cái bản ngã độc đáo của mình, không để  mình giống ai và cũng  không ai bắt chước được mình” . (Phan Cự Đệ). IV.   TÍCH   CỰC   HÓA   HOẠT   ĐỘNG   HỌC   TẬP   CỦA   HỌC   SINH   TRONG GIỜ  DẠY ĐỌC VĂN BẢN KÍ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI, TÙY BÚT  “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”. IV.1. Giao “dự án” cho các nhóm học sinh tìm hiểu các thông tin liên quan   đến văn bản. IV.1.1 Nguyên tắc dạy đọc 11
  12. Như tất cả các hoạt động dạy học, dạy đọc phải đáp ứng  mục tiêu dạy   học,phù hợp đối tượng người học, đặc trưng môn học, phù hợp với các đặc  điểm của hoạt động học. IV.1.1.1. Dạy cách kiến tạo nghĩa   Trong đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát huy năng lực người   học, dạy đọc phải là quá trình dạy học sinh cách tự kiến tạo ý nghĩa cho mình.   Đó không chỉ là quá trình “ lấy ra “, “thu về” những thông tin trong văn bản mà  còn là ý kiến của chính người đọc­ học sinh dựa trên thái độ, kinh nghiệm, kiến   thức nền.    Để  dạy học sinh cách kiến tạo ý nghĩa, GV cần cung cấp cơ  hội và   hướng dẫn cho học sinh biết đọc dựa trên kiến thức nền của mình. Hay nói cách   khác HS cần biết kết nối những điều đã biết với thông tin trong văn bản để  hiểu được và kiến tạo được ý nghĩa từ văn bản. Người GV cần khơi gợi được  kiến thức nền của HS bao gồm : kinh nghiệm sống, kinh nghiệm học, kiến th ức   về thể  loại, cách tổ  chức văn bản… bằng hệ  thống phương pháp, kĩ năng dạy  học của mình. Như văn bản kí văn học, GV cần giúp các em xây dựng kiến thức   nền phù hợp trước khi học văn bản như : hiểu biết về tác giả, đặc điểm phong  cách nghệ thuật; hiểu biết về thể loại kí , tùy bút; cách thức đọc hiểu bài kí, tùy   bút… Bên cạnh đó, người GV cần khơi gợi khuyến khích trải nghiệm của học  sinh về  đối tượng Sông Đà được nhắc đến trong bài học như: địa lý, lịch sử  Sông Đà. GV tổ chức các hoạt động học tập để HS dựa trên kiến thức nền chủ  động khai thác, khám phá các tầng nghĩa của văn bản kí hiện đại; dạy cho HS   các phương pháp, kĩ thuật đọc văn bản kí hiện đại. IV.1.1.2. Dạy phương pháp, kĩ thuật đọc       Dạy đọc là quá trình giúp cho học sinh trở thành người đọc hiệu quả, giúp  cho học sinh có kĩ thuật đọc và biết sử  dụng hiệu quả  kĩ thuật đó để  đọc các  văn bản GV cần huownga dẫn HS cách sử  dụng kĩ thuật đọc và được tạo điều  kiện thực hành vận dụng kĩ thuật ấy vào quá trình đọc. HS cần được đọc, cung   cấp cơ hội thực hành vận dụng kĩ thuật đọc văn bản kí hiện đại. IV.1.1.3 Dạy kĩ năng tương tác       GV cần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để HS trao đổi với GV và các   bạn về những gì các em đã đọc như : trao đổi thảo luận trong các nhóm nhỏ ,vẽ  bản đồ tư duy, trình diễn…  IV.1.1.4 Kết hợp dạy viết, nghe, nói trong quá trình dạy đọc    GV giúp HS trở thành người đọc, người tư duy hiệu quả khi kết hợp dạy đọc  với dạy viết. Qua các hoạt động tư  duy như  phân tích, đánh giá, khái quát hóa  thông tin , GV giúp HS trình bày sự  hiểu hay cảm thụ  văn bản. Việc ttor chức   thảo luận về  văn bản giúp HS phát triển năng lực tư  duy, cảm thụ, diễn đạt,  12
  13. biết so sánh, tổng hợp, đánh giá , hiểu văn bản và những vấn đề  cuộc sống do   văn bản gợi lên. IV.1.1. 5 Phối hợp nhiều biện pháp trong quá trình dạy đọc     Để luôn tạo hứng thú cho HS trong giờ dạy đọc văn bản kí văn học, GV   cần biết chọn lọc và phối hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy đọc, cách tổ chức  hoạt động học tập. IV.1.2. Xuất phát từ  năm nguyên tắc dạy đọc đó, GV giao dự  án cho các  nhóm HS là một phương pháp hiệu quả nhằm tích cực hóa hoạt động của  học   sinh trong giờ dạy đọc văn bản kí hiện đại, nhất là thể tùy bút. Giao “dự án” cho   các nhóm học sinh tìm hiểu thông tin liên quan đến văn bản, bao gồm: ­ Nhóm 1: Thế nào là văn bản kí văn học? Đặc điểm văn bản kí văn học? Ở Việt Nam có những nhàn văn nào viết về thể loại này? ­ Nhóm 2: Tìm hiểu về  nhà văn Nguyễn Tuân, đặc điểm sáng tác, sở  trường và phong cách? Những nhận định, đánh giá về nhà văn Nguyễn Tuân? ­ Nhóm 3: Nội dung chính của văn bản? Tác giả sử dụng biện pháp nghệ  thuật nào để  miêu tả  hình tượng? Có những tác giả  nào cũng miêu tả  về  dòng   sông trong văn học? Sông Đà hiện lên qua âm nhạc như thế nào? ­ Nhóm 4: Hình ảnh người lái đò Sông Đà được miêu tả như thế nào? Có  gì giống và khác với nhân vật Huấn Cao? Thông qua giao dự  án, GV hướng dẫn HS biết tự đọc, tự  tìm hiểu trước  bài học,biết liên hệ  với những kiến thức đã có, đã biết. Đồng thời GV hình   thành  ở  HS kĩ năng đọc văn bản kí văn học, tùy bút. Khả  năng đọc là nhân tố  then chốt cho sự  tham gia thành công của mỗi con người trong cuộc sống. GV  dạy cho HS cách đọc văn bản kí, tùy bút chứ không phải là cung cấp cách hiểu   về văn bản kí, tùy bút. HS phải được học cách đọc. IV.2. Thông qua hệ thống câu hỏi, GV khơi gợi HS liên hệ kiến thức nền,   khuyến khích trải nghiệm cá nhân về văn bản, thưởng thức tài năng của tác giả.   Từ đó HS hiểu những gì đang đọc. IV.2.1. Kiến thức nền là những kiến thức cơ bản, nền tảng học sinh cần   có để tìm hiểu văn bản. Đó có thể là những kiến thức, hiểu biết về tác giả  mà   học sinh đã có ở bài học trước; cũng có thể là tri thức về thể loại, hiểu biết về  khả  năng liên hệ kiến thức bài học với thực tiễn. Có ba loại liên hệ  mà người   học có thể thực hiện trong quá trình đọc: liên hệ với bản thân, liên hệ với cuộc   sống, liên hệ  với các văn bản khác. GV có thể  sử  dụng một số  câu hỏi để  hướng dẫn HS thực hiện ba loại liên hệ trên:  ­ Liên hệ với bản thân:  + Chi tiết con Sông Đà “ mùa thu nước lừ  lừ  chín đỏ  như  da mặt một  người bầm đi vì rượu bữa” gợi nhớ điều gì về con sông Lam mùa mưa lũ? 13
  14. + Tính cách của em có gì tương đồng với nhân vật người lái đò không? + Em cảm thấy thế nào khi đọc văn bản “Người lái đò Sông Đà”? ­ Liên hệ với văn bản: + Văn bản gợi cho em liên tưởng tới văn bản nào mà em đã học? + Văn bản này có gì giống với văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông”? + Những chi tiết trong văn bản gợi cho em liên tưởng tới văn bản nào   khác? + Điểm khác biệt giữa văn bản này và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là gì? + Em đã từng đọc cái gì đó tương tự như vậy chưa? ­ Liên hệ với thế giới: + Văn bản này gợi nhớ  điều gì về  thế  giới xung quanh? Trên thế  giớ  có  dòng sông nào đi vào thơ văn mà em biết? + Em đã gặp nhân vật tương tự như người lái đò Sông Đà trong cuộc sống  chưa? Điều này gợi cho em suy nghĩ gì? +Văn bản này gợi cho em nhớ đến điều gì? + Văn bản gợi cho em suy nghĩ gì về cuộc đời, con người? IV.2.2. Để  khuyến khích HS trải nghiệm cá nhân về  bài học, GV có thể  hướng dẫn học sinh phê phán, đánh giá. GV có thể tạo cơ hội cho HS suy ngẫm   về những câu hỏi như:  ­ Tác giả đã thể hiện chủ đề của tác phẩm tốt đến mức nào? ­ Đặc sắc nổi bật của tác phẩm là gì? Hạn chế của tác phẩm là gì? ­ Em có suy nghĩ, đánh giá như thế nào về vấn đề mà tác giả đặt ra trong  văn bản? ­  Em có suy nghĩ gì khi đọc văn bản? IV.3.  Sử  dụng kĩ thuật KWL ( Know: đã biết, Want: muốn biết, Learn:   học được ), DR­ TA ( Directed Reading – Thinking Activity – đọc có hướng dẫn­   hoạt động tư duy ) để hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản kí văn học “Người   lái đò Sông Đà” IV.3.1.  KWL gồm ba câu hỏi: Tôi đã biết gì về  vấn đề  này? Tôi muốn   biết/ học thêm những gì về  vấn đề  này? Tôi đã học được gì về  vấn đề  này?   Trước khi đọc kĩ văn bản, GV yêu cầu HS đọc lướt qua tựa đề và tranh vẽ chân   dung tác giả  Nguyễn Tuân và suy nghĩ về  những gì các em đã biết ( về  đề  tài   văn bản, về tác giả…) và ghi ra giấy.  Bước này có tác dụng giúp học sinh động   não, sử dụng kiến thức nền đã có để chuẩn bị bước vào khám phá văn bản. 14
  15. Tiếp theo GV yêu cầu HS liệt kê những câu hỏi mà HS muốn biết trước  khi đọc văn bản này. Bước này có tác dụng giúp HS tiếp tục động não, khơi gợi   sự tò mò, hứng thú của HS đồng thời giúp các em định hướng việc đọc có trọng  tâm. Trong quá trình đọc, HS có thể  “tạm dừng” trong tư  duy để  so sánh với  những thông tin đã ghi ra về Know và Want để điều chỉnh cách hiểu của mình.  GV làm mẫu và hướng dẫn HS thực hiện từng bước, giải thích cho HS hiểu tác   dụng của từng bước. IV.3.2 Kết hợp với kĩ thuật DR –TA, GV yêu cầu HS đọc lướt tựa đề, các  đoạn văn bản… GV sử  dụng câu hỏi mở  để  hướng dẫn HS dự  đoán về  nội  dung văn bản. Ví dụ: “ Với tựa đề “Người lái đò Sông Đà” em cho rằng văn bản  sẽ viết về điều gì?  Theo em, nội dung của văn bản là gì?”. GV mời HS đọc một  đoạn văn bản “ …Sông Đà tuôn dài tuôn dài như  một áng tóc trữ  tình… sông   Lô… “ , bằng những câu hỏi GV gợi nhắc HS xem lại những dự đoán mà bản  thân đã nêu trước đó và điều chỉnh lại cách hiểu về  nội dung văn bản. GV nên  hỏi những câu hỏi như: Em có suy nghĩ gì về dự đoán trước đó của mình? Em có  tìm ra chi tiết, hình ảnh nào trong văn bản để  chứng minh cho dự đoán của em  không? Những gì đã đọc có làm cho em thay đổi dự đoán của mình không? Đó là  những thay đổi nào? Vì sao? GV tổ chức cho HS đọc cá nhân, đọc và thảo luận trong nhóm nhỏ, thảo   luận với cả  lớp. HS trở  thành người đọc tích cực, sâu sắc. GV khơi gợi được   kiến thức nền của HS, hướng dẫn được HS kiểm soát việc hiểu văn bản trong   quá trình đọc; phát triển năng lực tư duy phê phán của HS. IV. 3.3 Biện pháp khơi gợi cảm xúc của học sinh Mục tiêu của dạy văn là phải phát triển năng lực nhận thức lẫn năng lực   thẩm mĩ, sự  nhạy cảm với cái đẹp . Do vậy, bên cạnh việc sử  dụng câu hỏi   phát hiện, suy luận, phân tích, khái quát, đánh giá về  nội dung lẫn nghệ  thuật   của văn bản, GV cần sử dụng những câu hỏi khơi gợi cảm xúc người đọc, tạo   cơ hội cho HS sử dụng kiến thức nền và những ­ Nêu câu hỏi cho bản thân trong quá trình đọc để tích hợp thông tin, nhận  ra những ý chính, tóm tắt thông tin ­ Suy luận để đánh giá và rút ra kết luận từ các thông tin trong văn bản ­ Tóm tắt, tổng hợp thông tin từ văn bản ­ Tưởng tượng ra hình ảnh về đối tượng được gợi lên bằng cảm nhận và   hiểu biết riêng của bản thân IV.3.4. Biện pháp hướng dẫn học sinh kĩ năng đọc IV.3.4.1 Hướng dẫn học sinh nhận biết các chi tiết quan trọng,  ý  chính ­ GV sử dụng bài tập từ hay, phiếu học tập từ vựng và các yêu cầu sau: 15
  16. ­ Tìm chi tiết, hình ảnh miêu tả con Sông Đà, người lái đò Sông Đà ­ Xác định biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn bản ­ Nhận xét, đánh giá ý nghĩa của các chi tiết nghệ thuật đó? ­ Em hiểu được gì về ngòi bút của nhàn văn Nguyễn Tuân? IV.3.4.2 Hướng dẫn học sinh dự đoán  ­ GV khơi gợi để HS tự trả lời những câu hỏi như:  ­ Những từ ngữ, hình ảnh nào em mong là sẽ thấy trong văn bản này? ­ Những điều em dự đoán có đúng không? ­ Em nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Sau khi đọc xong từng phần của văn bản, các em sẽ khẳng định hoặc loại  bỏ những ước đoán đó. IV.3.4.3 Hướng dẫn học sinh suy luận GV hướng dẫn HS suy luận và tích hợp các thông tin từ văn bản, kiến tạo   ý nghĩa cho văn bản và sử dụng kiến thức nền phù hợp. GV yêu cầu HS tìm chi  tiết tiêu biểu về  hình tượng Sông Đà, sau đó ghi những suy luận của mình về  đặc điểm, tính chất của hình tượng. GV sử dụng các câu hỏi đẻ  giúp HS không  chỉ hiểu tác giả nói gì mà còn tạo thêm những nét nghĩa mới, cách hiểu mới cho   văn bản. ­ Hãy tìm những chi tiết nhà văn miêu tả con Sông Đà? Người lái đò Sông   Đà ? ­ Ý nghĩa của từ ngữ, hình ảnh… ? ­ Từ ngữ, hình ảnh này có thể hiểu theo những cách nào? ­ Tác dụng của biện pháp nhân hóa, đối lập, so sánh? ­ Vì sao tác giả viết như vây? ­ Dựa vào đâu em cho là con Sông Đà là hung bạo/ trữ tình? ­ Nếu em là nhà văn, em sẽ viết như thế nào về con Sông Đà? ­ Em có suy nghĩ gì về cách viết của tác giả? ­ Thông điệp nhà văn muốn gửi gắm qua văn bản là gì? ­ Em có suy nghĩ gì khi đọc văn bản? IV.4.  Sử dụng trò chơi khởi động sinh động, tạo tâm thế  cho người  học bước vào tiếp nhận bài học ­ Tiến trình đọc văn bản trải qua 3 giai đoạn: trước, trong và sau khi đọc   với những hoạt động tư  duy và cảm xúc. “ Người đọc bước vào văn bản với  những dự đoán, những mong chờ: thông tin nào sẽ được trình bày trong văn bản,  16
  17. văn bản này thú vị hay chán ngắt, dễ  đọc hay khó đọc, hữu ích hay không. Sau  đó người đọc đọc,liên hệ cái họ đã dự đoán với nững thông tin có sẵn trong văn  bản, xem lại dự đoán của mình, điều chỉnh hoặc xác nhận cái mình đã dự  đoán  trong ánh sáng của những thông tin mới. Khi những thông tin mới hợp nhất với   những thông tin cũ,mục tiêu đọc thay đổi”. (Rudell, 2006 tr89). Do vậy, trong   giờ dạy đọc văn bản kí văn học, phần khởi động GV cần sử dụng trò chơi khởi   động sinh động, tạo tâm thế cho người học bước vào tiếp nhận bài học. Ví dụ: trò chơi hái dừa, đuổi hình bắt chữ, ai là triệu phú… Trong các trò  chơi GV khéo léo cài các câu hỏi về kiến thức liên quan đến bài học để HS bắt   thăm câu hỏi và trả  lời. GV cử  một HS có khả  năng dẫn chương trình để  dẫn  dắt phần chơi này và đánh giá kết quả của các đội chơi. Trong phần này, thông  qua hệ  thống câu hỏi GV dẫn dắt HS liên hệ  với kiến thức nền, khơi gợi trải   nghiệm cá nhân để bước vào tìm hiểu bài học. GV có thể gợi ý HS dẫn chương trình đưa ra một số câu hỏi cho 2 nhóm  chơi như: ­ Thế nào là kí? ­  Ai là nhà văn “suốt đời săn tìm cái đẹp”? ­ Nét riêng của tùy bút Nguyễn Tuân? ­  HS có thể  đánh đàn ghi ta một đoạn nhạc và bạn khác hát lời bài hát  “Tiếng gọi Sông Đà” hoặc bài rap “ Người lái đò Sông Đà”… IV.5. Trong tiến trình dạy đọc, GV chú trọng dạy các kĩ năng đọc và cách  kết hợp ghi chép trong khi đọc. Ngoài ra, để  tổ chức cho HS tương tác, GV kết  hợp tổ  chức, hướng dẫn HS làm việc cá nhân và thảo luận nhóm, thuyết trình,   tranh luận, tương tác giữa các nhóm để tìm hiểu nội dung bài học IV.5.1. Dạy văn bản kí văn học trong nhà trường GV cần chú ý hướng  dẫn HS tìm các chi tiết, hình  ảnh, từ  ngữ  đặc sắc, hướng đến khơi gợi kinh  nghiệm đọc cá nhân HS tìm hiểu cách tạo nghĩa cho văn bản, trình bày ý kiến cá   nhân về văn bản, thưởng thức tài năng của tác giả. Cách dạy đọc của nhiều GV  trong nhà trường Việt Nam hiện nay chủ yếu hướng học sinh đến việc đọc để  lấy thông tin, người đọc ­ học sinh không được khuyến khích trải nghiệm. Để  dạy đọc văn bản kí văn học thực sự  trở thành quá trình giúp HS phát   triển năng lực đọc thì GV cần coi việc dạy đọc văn bản kí văn học là dạy HS   cách kiến tạo nghĩa, dạy kĩ năng đọc văn bản kí văn học, tùy bút, dạy kĩ năng   tương tác và kết hợp dạy viết, nghe, nói. GV cũng cần phải phối hợp nhiều   phương pháp trong quá trình dạy để  giúp HS trở  thành những người có kĩ năng  đọc, kĩ năng giao tiếp, hợp tác. Kĩ năng đọc văn bản kí văn học, tùy bút người  học cần phải có bao gồm: (1)   Kĩ năng liên hệ  với kiến thức nền ( về  thế  giới, về  văn bản, về  bản   thân…) 17
  18. (2)  Xác định những thông tin/ từ ngữ/ hình ảnh quan trọng trong văn bản (3)  Dự đoán (4)  Tưởng tượng (5)  Suy luận (6)  Tóm tắt (7)  Kiểm soát việc hiểu của bản thân ( cho học sinh “cần câu” chứ  không   phải cho “con cá”, dạy cách đọc chứ  không phải là cung cấp cho người   học những cách hiểu sẵn có về văn bản ).   (8)  Hướng dẫn học sinh phê phán, đánh giá GV tạo cho HS cơ hội suy ngẫm, đánh giá về những câu hỏi như:  ­ Tác giả thể hiện chủ đề ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người miền Tây  Bắc Tổ Quốc tốt đến mức nào? ­  Đặc sắc nghệ  thuật nổi bật của bài tùy bút này là gì? Hạn chế  của bài  tùy bút này là gì? ­  Đánh giá như thế nào về vấn đề mà tác giả đặt ra trong văn bản? ­  Suy nghĩ gì khi đọc bài tùy bút? (9) Khơi gợi cảm xúc của học sinh Bên cạnh việc sử  dụng những câu hỏi phát hiện, suy luận, phân tích,  khái quát, đánh giá về nội dung lẫn nghệ thuật cảu bài tùy bút, GV cần sử dụng  những câu hỏi khơi gợi cảm xúc của HS, tạo cho HS cơ hội sử dụng kiến thức   nền và những trải nghiệm của bản thân trong quá trình đọc để tương tác và tạo   nghĩa cho văn bản, điều chỉnh những kiến thức, kinh nghiệm đã có với kiến  thức bài học. ­ Điều gì làm em vui thích khi đọc bài tùy bút? ­  Có điều gì không hợp lý trong cách  nhìn vấn đề của tác giả? ­ Câu chuyện ông đò vượt thác có làm em liên hệ  đến cuộc sống của  mình không? ­  Bài tùy bút gợi cho em cảm xúc gì? ­ Cảm nhận, suy nghĩ của em về  dòng Sông Đà và người lái đò Sông   Đà? IV.5.2. “Dạy HS trở thành những người đọc hiệu quả là một mục tiêu  quan trọng của những năm học bắt buộc  ở  nhà trường phổ  thông. Nó bao gồm   giúp HS mở  rộng vốn từ và hiểu biết về  thế  giới, phát triển kiến thức về  văn  phạm và kĩ năng giải mã văn bản, phát triển khả năng đọc trôi chảy và khả năng   hiểu thấu đáo những gì các em được đọc, xem từ mức độ nghĩa đen đến mức độ  suy luận cao hơn cả  là phê bình” ( Theo Queensland Studies Authority, 2010   18
  19. Teaching reading and viewing). Để dạy HS trở thành những người đọc hiệu quả,  GV cần có chiến lược, cách thức tổ  chức hoạt động dạy đọc. Để  giờ  dạy đọc  sinh động và thực sự phát huy được năng lực học sinh, Gv kết hợp làm việc cá  nhân và làm việc nhóm, thảo luận.  GV chia HS thành 4 nhóm theo 4 tổ  (hoặc HS tự  chọn nhóm), hướng  dẫn HS đọc tại lớp và ghi chép nhật kí đọc. Sau đó GV tổ chức thảo luận trong   nhóm nhỏ về nội dung đã đọc. Trong tiết đầu, khi tìm hiểu về hình tượng Sông  Đà, sau khi đã hướng dẫn HS đọc hiểu khái quát, GV hướng dẫn HS làm việc cá   nhân, tìm hiểu về lời đề từ để định hướng cảm nhận văn bản. GV cần khơi gợi  cảm xúc của HS đối với văn bản và vấn đề của cuộc sống do văn bản gợi lên: ý  thức bảo vệ thiên nhiên, môi trường, tình cảm gắn bó với những dòng sông quê   hương. GV có thể  sử  dụng phiếu học tập hướng dẫn HS ghi chép trong quá   trình đọc. Tiếp đó, GV tổ chức cho HS thảo luận theo 4 nhóm tìm hiểu về hình  ảnh con Sông Đà hung bạo. HS sử  dụng bảng nhóm, kĩ thuật “khăn phủ  bàn”  mỗi  bạn trong nhóm  tìm  hiểu về  Sông  Đà  ở  từng quãng, ví  dụ: ghềnh Hát  Lóong, hút nước, tiếng nước thác, trùng vi thạch trận… Sau đó nhóm trưởng  tổng hợp chốt ý kiến vào phần trung tâm của bảng nhóm. Trong tiến trình thảo luận, GV quan sát, theo dõi, hỗ  trợ  HS khi thảo   luận. GV cũng có thể  tham gia cùng thảo luận với HS, cùng tháo gỡ  những   vướng mắc của HS khi tiếp nhận bài học. Sau khoảng thời gian thảo luận, GV   tổ  chức cho các nhóm trình bày sản phẩm. Các nhóm tranh luận với nhau,bố  sung ý kiến. GV chú ý rèn HS kĩ năng lắng nghe, nêu câu hỏi, khơi gợi ý tưởng  người nghe, hợp tác… Sau khi các nhóm trình bày, bổ sung, tranh luận, GV chốt   kiến thức trọng tâm của bài, tính cách hung bạo của Sông Đà được khắc họa   độc đáo ở bốn phương diện. Nhà văn vận dụng tri thức liên ngành ( quân sự, võ  thuật, thể  thao…) miêu tả  độc đáo  ấn tượng, cách nhìn con sông vô cùng độc  đáo: như  một con người với tâm địa, hiểm ác, độc dữ. Câu văn co duỗi nhịp   nhàng, ngôn từ sắc nét ấn tượng… IV.6.  Như đã nói  ở trên, tiến trình đọc văn bản trải qua ba giai đoạn:  trước, trong và sau khi đọc. Trong tiến trình này, vô số hoạt động tư duy và cảm  xúc đã xảy ra. Ở giai đoạn sau khi đọc, để phát triển kĩ năng khái quát, nhìn lại   quá trình đọc của bản thân, liên hệ  với thực tế, GV hướng dẫn HS luyện tập,   vận dụng sau bài học qua các graps, bản đồ tư duy, bài tập ­ Bài tùy bút gợi cho em nhớ  đến văn bản nào? Điểm giống và khác  nhau giữa chúng? ­   Phần nào gây  ấn tượng cho em? Vì sao? Một người đọc  ở  thế  kỉ  khác có thể suy nghĩ gì về bài tùy bút này ? ­ Chúng ta đã thảo luận về đặc sắc ngòi bút Nguyễn Tuân khi miêu tả  Sông Đà và người lái đò. Còn vấn đề gì khác mà chúng ta cần thảo luận. Những gì ta thu nhận từ bài tùy bút có thể vận dụng vào thực tế? 19
  20. 20
nguon tai.lieu . vn