Xem mẫu

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi:    Hội đồng thẩm định sáng kiến Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Ninh  Bình Nhóm tác giả sáng kiến Ngày   tháng  Trình   độ  Tỉ   lệ   %  T Họ và tên năm sinh chuyên môn đóng   góp  Nơi công tác Chức vụ vào việc tạo  ra sáng kiến Trường   THPT  Đỗ Thị Liệu 16/01/1974 Hoa Lư A Tổ trưởng Thạc sĩ 30% Trường   THPT  Đoàn Thị Thu Hạnh 24/5/1976 Hoa Lư A Giáo viên Đại học 25% Trường   THPT  Đỗ Thị Bích Thủy 17/9/1975 Hoa Lư A Giáo viên Đại học 25% Trường   THPT  Đinh Thị Mai Xuyên 11/10/1978 Hoa Lư A Giáo viên Đại học 10% Trường   THPT  Bùi Thị Phương 20/01/1979 Hoa Lư A Giáo viên Đại học 10% Là đồng tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến:  1. TÊN SÁNG KIẾN VÀ LĨNH VỰC ÁP DỤNG 1
  2. Tên sáng kiến:  DẠY   HỌC   TÁC   PHẨM   VĂN   HỌC   THEO   ĐẶC   TRƯNG   THỂ   LOẠI   (Qua bài: ĐÂY THÔN VĨ DẠ ­ Hàn Mặc Tử)  Lĩnh vực áp dụng: lĩnh vực giáo dục  Thời gian áp dụng: năm học:  2018 ­2019, 2019 ­2020, 2020­2021 2. MÔ TẢ SÁNG KIẾN 2.1. Về nội dung Mục đích của viêc giang day môn Ng ̣ ̉ ̣ ữ văn trong nha tr ̀ ương phô ̀ ̉  thông không chỉ cung câp cho h ́ ọc sinh về kiến thức khoa học, giup cac em ́ ́   ́ ược nhưng bai văn hay mà còn hình thành cho các em kĩ năng giao viêt đ ̃ ̀   tiếp, kĩ năng   sống, bồi đắp cho các em nhưng tinh cam cao đep, giá tr ̃ ̀ ̉ ̣ ị  thẩm mĩ, giúp các em tiêp cận tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại…           a.Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp mới Giải pháp cũ Giải pháp mới ­Dạy   học   từng   tác  ­Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại.  Nội dung phẩm   riêng   lẻ.   Học  Từ  đó học sinh sẽ  biết cách khai thác, tiếp  sinh   học   tác   phẩm  cận các tác phẩm khác cùng thể loại nào   chỉ   nắm   được  nội   dung   và   nghệ  thuật cơ  bản của tác  phẩm đó. ­   Chuyển   tải   kiến  ­ Hướng dẫ học sinh tìm hiểu các  tác phẩm  Mục đích thức     về   tác   phẩm;  vắn học theo đặc trưng thể  loại,   giáo dục  giáo dục phẩm chất,  phẩm chất, hình thành năng lực cho học sinh hình   thành   năng   lực  ­   Giúp   học   sinh   tích   cực,   chủ   động   trong  cho học sinh việc   tiếp   cận   tác   phẩm   văn   học   –   kể   cả  những tac phẩm ngoài chương trình ­ Phát triển năng lực tự  học, tự  bồi dưỡng,   năng lực tạo lập văn bản…cho học sinh. 2
  3. Kiến   thức   trình   bày  Học sinh học tập tích cực, giáo viên chuyển   Ưu điểm logic, có hệ thống giao nhiệm vụ  học tập cho học sinh. Dạy   học sinh cách tự thu thập kiến thức và tự rút  ra bài học. Hình thức học tập phong phú, đa  dạng: học sinh học thầy, học bạn, học trên  lớp, từ  thông tin đại chúng, từ  tài liệu tra  cứu trên Internet, học qua trải nghiệm thực  tế ­ Học sinh thụ  động,  Với những học sinh học yếu, thụ  động các  Nhược điểm kiến thức thiên về  lý  em   sẽ   khó   tiếp   cận   với   những   tác   phẩm  thuyết,   không   khích  ngoài chương trình. lệ   sự   sáng   tạo,   kỹ  năng thực hành kém,  áp dụng vào đời sống  thực tế hạn chế. Tiết  học   nhàm   chán,   đơn  điệu;   học   sinh   thiếu  hứng thú học tập.               ­ Về mục tiêu:  + Cung cấp kiến thức sâu rộng về đặc trưng thể loại tác phẩm văn  học cho học sinh. + Hình thành cho học sinh kỹ năng, năng lực mới: giao tiếp, bày tỏ  quan điểm suy nghĩ của bản thân, quản lý thời gian, xử  lý thông tin phù  hợp với nội dung, sử  dụng công nghệ  thông tin… Từ  đó giúp các em có   được khả năng tìm hiểu những tác phẩm văn học khác cùng thể loại ­ Về  hình thức: Thông qua hoạt động dạy học trên lớp học sinh   được phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực, chủ động tự giác và sáng tạo   của bản thân. Các em được bày tỏ quan điểm, ý tưởng;  được đánh gia và  lựa chọn ý tưởng hoạt động; được thể hiện và tự khẳng định bản thân. ­ Về phương pháp: Nhóm ngữ văn đã lựa chọn những phương pháp  phù hợp khi tổ chức hoạt động dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể  loại như: phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp thuyết trình, trả lời  câu hỏi, dạy học dự án…Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.  3
  4. ­ Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác:  Ở  chuyên đề này, chúng tôi đã tạo điều kiện cho các em được hợp tác, phối  hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm,tránh hiện  tượng  ỷ lại. Từ đó, tính cách, năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ,   uốn nắn; phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. .. ­ Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò: t rước đây giáo  viên giữ  độc quyền đánh giá học sinh.Trong phương pháp tích cực, giáo  viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn  nhau. Ở chuyên đề này, chúng tôi đã tạo điều kiện cho các em được giám   sát, phản biện, nhận xét hoạt động của nhóm bạn. Việc kiểm tra, đánh giá  không chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã   học mà các em b. Hiệu quả xã hội đạt được *Với học sinh. ­ Chuyên đề  giúp học sinh tiếp cận tác phẩm một cách chủ  động,  chỉ  cần các em nắm được đặc trưng thể  loại các em sẽ  tìm hiểu được  những tác phẩm khác. Sau 03 năm áp dụng  (2018 ­2019, 2019 ­2020, 2020­ 2021) chất lượng giáo dục nâng cao rõ rệt: HSG cấp tỉnh tăng thêm 02  giải nhì, xếp loại học lực tăng 0,56% , thi THQG tăng 0,6% so với những  năm học trước. ­ Dạy học kiến thức:  Cùng một hoạt động học,học sinh tích hợp   được kiến thức li luận về đặc trưng thể loại tác phẩm văn học. Đây được  coi là chìa khóa tìm hiểu tác phẩm. ­ Giáo dục kĩ năng: buộc học sinh phải tìm hiểu tư  liệu và tự  tiếp   cận những tác phẩm văn học khác cùng thể loại. Học sinh học không phải  để đối phó với thi cử mà học để thực hành, để trải nghiệm, ứng dụng. Vì  vậy thông qua hoạt động,chúng tôi nhận thấy khá nhiều học sinh bộc lộ  rõ năng lực, sở  trường của mình. Giáo viên chỉ  gợi ý, định hướng, Qua  đây, học sinh thực sự được phát huy tính tích cực chủ động  của các em.  =>Như vậy, qua hoạt động học chúng tôi đã đạt được hai mục đích:  dạy học kiến thức khoa học và giáo dục kĩ năng cho học sinh. 4
  5. * Với giáo viên: ­ Tổ  chức dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể  loại,giáo   viên vừa đảm bảo kiến thức chuyên môn vừa rút ngắn thời gian dạy học  vừa khơi hứng thú học tập, dễ phát hiện năng lực của HS, nâng cao chất  lượng dạy học và giáo dục.  ­ Nâng cao hiệu quả trong phối kết hợp làm việc giữa các giáo viên. ­ Dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể  loại,   giáo viên  không phải là người cung cấp lí thuyết cho học sinh mà là người hướng   dẫn học sinh gắn lí thuyết với thực tiễn. Từ đó tạo cho học sinh sự hứng   thú, niềm đam mê và yêu thích môn học hơn. Giáo viên không phải là  người giao giảng đạo đức mà để  học sinh tự  trải nghiệm, tự  nhận thức,   từ đó học sinh mới có những bài học sâu sắc thấm thía. ­ Chuyên đề  cũng là cơ  hội để  cho các đồng chí giáo viên được   nghiên cứu, thảo luận, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm trong việc thiết kế  bài giảng sao cho phù hợp với đối tượng và mục đích dạy học, giáo dục.    ­> Từ  đó góp phần thực hiện tốt đổi mới phương pháp và hình  thức tổ  chức dạy học, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả  học tập của học sinh trong giai đoạn hiện nay. * Với phụ huynh học sinh:thấy rõ hiệu quả học tập của con em qua  phong thái tự  tin, thái độ  say mê, chất lượng học tập từ  đó đặt niềm tin   vào thầy cô và nhà trường.  2.2. Điều kiện và khả năng áp dụng  a, Điều kiện áp dụng:  + Về  phía học sinh: Các em cần phát huy tính tích cực, chủ  động,  sáng tạo của mình, tránh học chay, học vẹt, thụ động...  + Về  phía giáo viên: Giáo viên phải thực sự  khơi dậy được hứng  thú, say mê trong học tập và chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh.   giáo viên xây dựng kế  hoạch giảng dạy phù hợp với đối tượng và mục  tiêu giáo dục. + Về  phía tổ  nhóm chuyên môn: Tích cực đổi mới hình thức sinh   hoạt tổ nhóm chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài dạy, mạnh dạn giao  việc cho giáo viên, chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy­ học. 5
  6. b, Khả năng áp dụng: ­ Đề  tài sáng kiến của chúng tôi có thể  áp dụng rộng rãi với mọi  giáo viên và nhiều cấp học     +Về  mặt nội dung: Sáng kiến của chúng tôi rất khả  thi với tiết  dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể  loại  môn ngữ  văn  ở  cấp  Trung học.    + Về mặt phương pháp: vận dụng phương pháp tự học, tự nghiên  cứu ở các môn học khác nhau trong các cấp học. Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực,  đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ CƠ SỞ Hoa Lư, ngày 08 tháng 05 năm 2020 Người nộp đơn            Đỗ Thị Liệu Đoàn Thị Thu Hạnh Đỗ Thị Bích Thủy Đinh Thị Mai Xuyên Bùi Thị Phương   6
  7.               3.NỘI DUNG SÁNG KIẾN 3.1. Một số vấn đề về loại thể văn học             3.1.1. Quan niệm về loại thể và việc phân chia loại thể             Hình thức tổ chức tác phẩm văn học được xác định trong loại(loại hình,  chủng loại) và thể(thể tài, thể  loại). Loại là phương thức tồn tại chung; thể là   sự  hiện thực hóa của loại. Phần lớn các nhà nghiên cứ  đều tán thành phân các  tác phẩm văn học làm ba loại lớn: trữ tình (lấy cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng con  người làm đối tượng thể  hiện chủ  yếu), tự  sự  (dùng lời kể, miêu tả  để  xây   dựng cốt truyện, khắc họa tính cách nhân vật, dựng lên những bức tranh về đời  sống) và kịch (thông qua lời thoại và hành động của nhân vật mà tái hiện những  xung đột xã hội). Loại trữ tình có các thể: thơ ca, khúc ngâm…Loại tự sự có các thể:  truyện, kí…Loại kịch có các thể: chính kịch, bi kịch, hài kịch…   Loại thể văn học thuộc về ý thức, về cách thể  hiện cuộc sống trong văn   học cũng như  cách cấu tạo và biểu hiện nội dung trong tác phẩm văn học cụ  thể. Tác phẩm văn học tồn tại trong những hình thức của các loại thể văn học.   Không có tác phẩm nào tồn tại ngoài hình thức quen thuộc của loại thể. Phân  tích một tác phẩm về  nội dung cũng như  nghệ  thuật không thể  xem nhẹ  đặc  trưng loại thể. 7
  8.             Theo Trần Thanh Đạm, loại thể bao gồm loại (loại hình) và thể (thể tài).  Theo Nguyễn Thị Dư Khánh, loại thể gồm loại (loại hình) và thể (thể  thơ, thể  văn). Từ đây, chúng ta có thể hiểu một cách thống nhất về loại thể. Chúng gồm   các nhóm lớn nhất là loại, mỗi loại có những nhóm nhỏ  hơn là thể  (hoặc thể  loại, thể tài).    Sáng tác văn học hết sức đa dạng, phong phú, vì thế  để  thưởng thức, nghiên   cứu, phê bình, nắm bắt các qui luật của văn học, người ta có nhu cầu phân loại  các thể loại của các tác phẩm văn học. Đó là một công việc vì hai nguyên nhân.  Một là bản thân thể loại rất phức tạp và hai là có nhiều cách phân loại khác  nhau.         Các thể loại văn học đã nhiều lại luôn ở trong sự vận động, thay đổi, pha trộn  vào nhau. Trong tiến trình đời sống, một số thể loại do không thích hợp đã bị loại bỏ,  một số thể loại mới nảy sinh và thay thế. Các hiện tượng đó làm khó cho công việc   phân loại. Tiêu chí phân loại cũng rất nhiều. Phân loại về ngôn ngữ, về phương thức  cấu tạo hình tượng, về  dung lượng dài ngắn. Các tiêu chí làm cho việc phân loại  không khỏi chồng chéo, và nhìn chung sự phân loại chỉ có thể mang tính chất tương   đối.        Cho đến nay phổ biến vẫn tồn tại cách chia ba và cách chia bốn. Cách chia  ba có từ thời cổ đại, từ thời Aristote, văn học được chia làm ba loại theo phương  thức, phương tiện biểu đạt của chúng: tự sự, trữ tình, kịch. Cách chia bốn xuất   hiện muộn hơn, chia văn học làm bốn loại: thơ  ca, tiểu thuyết,   kịch, kí (tản  văn).    Vào thế  kỉ XIX, nhà lí luận văn học Nga là Belinski cũng chia tác phẩm  văn học thành ba loại: tự sự, trữ tình, kịch. Ông cho rằng, “chia thơ ca (văn học)  làm ba loại: tự sự, trữ tình, kịch là xuất phát từ ý nghĩa của việc nhận thức chân   lí, cũng tức là trên tinh thần nhận thức­ xuất phát từ  mối quan hệ  qua lại giữa   chủ  thể  với đối tượng­ khách thể  nhận thức. Thơ  trữ  tình biểu hiện phương   diện chủ  quan của một con người, đem con người bên trong phơi bày ra trước  mắt chúng ta, do đó toàn bộ là cảm xúc, tình cảm, âm nhạc. Thơ tự sự là miêu tả  khách quan một sự kiện đã hoàn thành, là nhà nghệ sĩ đã chọn cho chúng ta một   điểm thích hợp nhất để bày tỏ tất cả mọi phương diên, làm thành một bức tranh   cho chúng ta xem. Thơ kịch là sự  điều hòa hai phương diện trên, chủ  quan, trữ  tình và khách quan, tự sự. Trình bày ra trước mắt chúng ta, không phải là sự kiện  đã hoàn thành, mà là đang thực hiện; không phải nhà thơ đang thông báo sự việc   cho   ta,   mà   là   từng   nhân   vật   xuất   hiện   nói   với   chúng   ta”.           Từ truyền thống trên, trong lí luận văn học phương Tây thịnh hành cách   chia văn học làm ba loại. Theo truyền thống đó, loại tự sự bao gồm các thể loại  sử thi (anh hùng ca), thơ tự sự (truyện thơ), tiểu thuyết…; loại trữ tình bao gồm  8
  9. các thể  loại như  thơ  trữ  tình, văn xuôi trữ  tình; loại kịch bao gồm bi kịch, hài   kịch,   chính   kịch… Dựa theo tiêu chí loại hình nội dung thể  loại, nhà nghiên cứu Nga G.  Pospelov lại chia ra các loại thần thoại sử thi, thế sự và đời tư. Dựa theo tiêu chí  miêu tả cuộc sống đã hoàn thành và chưa hoàn thành, nhà nghiên cứu M. Bakhtin  đưa ra các thể loại văn học sử thi và các thể loại tiểu thuyết.    Ở Trung Quốc và Việt Nam từ xưa, do quan niêm văn sử bất phân, người   ta chia văn học ra làm hai loại chính theo hình thức ngôn từ  là thơ  và văn. Các  tuyển   tập   văn   học   lớn   trong   lịch   sử   văn   học   cũng   chia   ra   như   thế,   ví   dụ  như Hoàng Việt thi tuyển, Hoàng Việt văn tuyển do Bùi Huy Bích (1744­1818)  soạn. Cho đến những năm 60 thế  kỉ  XX xuất hiện bộ Hợp tuyển thơ  văn Việt   Nam do nhiều học giả  chủ  trì, sau đó xuất hiện bộ Thơ  văn Lí Trần do Viện  Văn học chủ trì. Các tên sách đều cho thấy quan niệm chia hai mảng văn thơ rất  thịnh hành.              3.1.2. Những mâu thuẫn và tồn tại           Các cách phân loại đã trình bày  ở trên đều có những  ưu điểm và nhược   điểm, nói chung đều có tính chất tương đối. Đó là vì, một là mọi khái quát về  loại thể  văn học xưa nay nói chung không bao giờ  đầy đủ. Thứ  hai không một  tiêu chí phân loại văn học nào có thể loại trừ được các tiêu chí khác. Thứ ba, các   thể  và các loại văn học không ngừng xâm nhập vào nhau, tạo thành các loại  trung gian. Chọn cách nào đều nhằm một mục đích tiện lợi nào đó trong việc   giảng dạy.             Theo chúng tôi thì việc chia ba loại: tự sự, trữ tình, kịch là tương đối ổn  định. Ở mỗi loại có các thể nhỏ:    ­ Loại tự sự             + Tự sự dân gian: gồm các thể thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện  cười.          + Tự sự cổ trung đại và hiện đại: gồm các thể truyền kì, tiểu thuyết,  truyện vừa, kí.    ­ Loại trữ tình             + Trữ tình dân gian: gồm các thể tục ngữ, ca dao, dân ca, vè, câu đố.             + Trữ tình trung đại và hiện đại: gồm các thể thơ cổ thể truyền thống và thơ tự  do.    ­ Loại kịch 9
  10.             + Sân khấu dân gian: gồm các thể chèo, tuồng, múa rối.             + Kịch hiện đại: gồm các thể bi kịch, hài kịch, chính kịch.             Cách phân loại trên là cần thiết khi bước đầu tiếp cận các tác phẩm văn   học trong nhà trường. Tuy nhiên, trong thực tế, một số tác phẩm thuộc thể loại   này nhưng lại mang tính chất của loại khác. Tức là tồn tại vấn đề  “chất của  loại” trong thể. Chẳng hạn như một truyện ngắn giàu chất trữ tình, một bài thơ  giàu chất tự sự, hay một truyện ngắn giàu chất kịch… Chúng ta cần thận trọng   với ba loại tính chất (tính chất trữ tình, tính chất tự sự, tính chất kịch) ở từng tác   phẩm. Nói cách khác, chúng ta cần chú ý đến “chất của loại” trong thể khi phân   tích tác phẩm văn học. Vì chính “tính chất loại thể” làm ra diện mạo tinh thần  của tác phẩm. Nó giúp ta tiếp nhận “đúng”, “trúng” với tác phẩm cụ  thể. Làm  thành “loại” và thể  hiện “loại” phải nhờ  các “thể”. Nhưng không ít “thể” của  tác   phẩm   thuộc   loại   này   nội   dung   lại   mang   tính   chất   ở   loại   kia.   Ví   dụ  như truyện Chữ người tử tù, Chí Phèo vừa giàu chất trữ tình, vừa giàu kịch tính.  Nếu chỉ chú ý vào thể mà quên đi tính chất loại trong thể trong tác phẩm, chúng  ta rất dễ  phân tích tác phẩm một cách rập khuôn, sai lệch. Như  vậy, chúng ta  cần quan tâm và tìm ra các phương pháp, biện pháp thích hợp để  giải quyết  những tồn tại và mâu thuẫn này trong quá trình dạy học tác phẩm   văn   chương.             3. 2. Vấn đề dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể             3.2.1. Người dạy bị chi phối bởi “thể” nhiều hơn “tính chất của  loại trong thể”             Qua thực tế dự giờ của một số đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy rằng,   cho đến nay, giáo viên dạy học tác phẩm văn chương phần lớn chỉ quan tâm đến  thể  loại, không quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng mức “tính chất của loại  trong thể”. Ngay cả sách tham khảo, những tài liệu hướng dẫn cũng chưa chú ý   đến loại thể  trong quá trình phân tích tác phẩm văn học, đặc biệt là vấn đề  “chất của loại” trong thể.              Ví dụ, dạy bài Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), giáo viên khai thác “chuyện  tình” giữa Hàn Mặc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc, biến bài thơ thành bài minh họa   cho một “chuyện tình”. Chúng ta biết, đó là một bài thơ  trữ  tình. Do đó, điều   quan trọng là phải chú ý phân tích cảm xúc, tâm trạng, cảm hứng của nhân vật  trữ  tình, chú ý khai thác hình  ảnh, vần, nhịp điệu… trong tác phẩm. “Chuyện  tình” giữa tác giả và Hoàng Thị Kim Cúc chỉ  là một yếu tố  để  ta hiểu thêm về  tác phẩm chứ không phải là căn cứ để phân tích tác phẩm. 10
  11.             Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do giáo viên chưa xác định loại  thể  của tác phẩm hoặc chưa chú ý đến đặc điểm của loại thể  của tác phẩm.  Việc không xác định loại thể của tác phẩm cũng như chưa chú ý đến đặc điểm  của loại thể của tác phẩm khi phân tích tác phẩm văn chương cũng giống như  việc không xác định giới tính hoặc chưa chú ý đến đặc điểm giới tính khi phân  tích, nhận xét, đánh giá một con người. Tình trạng này khiến cho việc phân tích,  nhận xét, đánh giá mang tính rập khuôn, võ đoán.             3.2.2. Việc xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong dạy học tác phẩm  văn chương             Không xác định rõ “chất của loại” trong thể dễ dẫn đến tình trạng khi  thấy thơ, ta dạy thơ trữ tình, khi gặp truyện, ta dạy học theo tinh thần văn xuôi   tự sự. Xa rời bản chất loại thể của tác phẩm chính là xa rời tác phẩm cả về linh   hồn và thể  xác. Vì thế, có thể  nói, xác định loại thể  là vấn đề  mấu chốt trong  việc dạy học tác phẩm văn chương.              Trước khi tìm hiểu một tác phẩm, chúng ta cần xác định loại thể, xác  định “chất của loại” trong thể  trong tác phẩm. Để  nhận biết “chất của loại”  trong thể  trong một tác phẩm, chúng ta cần chú ý đến đặc điểm của loại. Sau  đây là một số đặc điểm của loại tự sự, trữ tình và kịch.            ­ Loại tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan (tương đối) của nó­  qua con người, hành vi, sự kiện được kể  lại bởi một người kể chuyện nào đó. Tác phẩm tự  sự  hầu như không bị  hạn chế  bởi không gian và thời gian. Nó có  thể  kể  về  những khoảnh khắc hay những sự kiện xảy ra hàng trăm năm. Tầm   bao quát cuộc sống trong tác phẩm rộng lớn. Nhịp điệu trong tác phẩm nhìn  chung là khoan thai.        Nhân vật tự sự được khắc họa đầy đặn nhiều mặt: bên trong, bên ngoài, cả  điều nói ra và không nói ra, cả ý nghĩ và cả cái nhìn, cả cảm xúc, tình cảm, ý  thức và vô thức, cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Hệ thống chi tiết nghệ thuật của tác phẩm tự sự phong phú, đa dạng, bề bộn  hơn hai loại trữ tình và kịch. Tác phẩm tự  sự  nào cũng có hình tượng người trần thuật của nó. Hình   tượng người trần thuật, kể  chuyện rất  đa dạng: khách quan, ngôi thứ  nhất,  thông suốt, thông suốt có chọn lựa… và cũng có khi người kể chuyện như một   11
  12. nhân vật… khi nhập thân, khi gián cách, khi đứng ngoài, khi hòa nhập… ít nhiều  ta vẫn nhận ra thái độ của họ.  Lời văn của loại tự sự có thể là văn vần hay văn xuôi nhưng luôn hướng   người đọc ra thế giới đối tượng, khác hẳn lời trữ tình hướng sự  chú ý tới cảm   xúc, ý định chủ quan của người nói, khác hẳn lời thoại trong kịch.           Lời nói của nhân vật tự sự là một thành phần, một yếu tố của văn tự sự.  Nó xuất hiện gắn liền với sự miêu tả. Trong tự sự, không có chỗ cho những lời  thổ lộ trữ tình độc lập, hay tự biểu hiện một cách trực tiếp, cái đó chủ yếu dành  cho nhân vật. Chính vì vậy mà trong tự sự vẫn chấp nhận ngôn ngữ đa thanh, đa  nghĩa, nửa trực tiếp, nủa gián tiếp. Văn tự sự có chức năng tái hiện, phân tích sự vật qua miêu tả và thuyết minh.  Việc khẳng định loại tự sự phải căn cứ trên cả nội dung và nghệ thuật. Nó cũng  mang những chủ đề: lịch sử  dân tộc, thế sự đạo đức và đời tư. ­  Loại trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người.  Trong tác phẩm trữ tình, tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ... được trình  bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Tác giả có thể biểu  hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến  cố, sự kiện nào.         Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó  cũng được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi  vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc  về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì...Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn được  thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả  các sự vật, hiện tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật,  sinh động. Những chi tiết chân thật, sinh động trong đời sống dễ khêu gợi  những tình cảm sâu sắc, mới mẻ. Có điều những chi tiết trong tác phẩm trữ tình  bao giờ cũng hết sức cô đọng, súc tích.        Tác phẩm trữ tình bao giờ cũng mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Ðó là  những nỗi niềm chủ quan thầm kín nhưng khi sáng tác nhà thơ luôn luôn nâng  mình lên thành người mang tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ cho một loại người,  một thế hệ và cả những chân lí phổ biến...Người ta thường nói đến từ chân trời  của cái "tôi" đến chân trời của cái "ta", "từ chân trời của một người đến chân  trời của tất cả" cũng trên ý nghĩa này. Trong tác phẩm trữ tình có nhân vật trữ tình và nhân vật trong tác phẩm  trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tâm  sự, cảm xúc, suy nghĩ ...của mình, là nguyên nhân trực tiếp khêu gợi nguồn cảm  hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối tượng để nhà thơ miêu tả  12
  13. mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về lẽ sống và  con người được thể hiện trong tác phẩm. Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện  với tư cách là những tình cảm, tâm trạng, suy tư... của chính bản thân nhà thơ.  Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của  tác giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể  tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo qui luật  điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân vật trữ  tình nhập vai. Lời văn trong tác phẩm trữ tình đòi hỏi bộc lộ những tình cảm mạnh  mẽ, những ý tập trung, hàm súc do đó nó phải tìm cho mình những lời văn phù  hợp với yêu cầu gây ấn tượng mạnh, không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà  còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ nữa. Không phải ngẫu nhiên mà  nhiều người khẳng định đặc điểm quan trọng nhất của lời văn trong tác phẩm  trữ tình là giàu nhạc tính. Nhạc tính này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân  tộc, được  biểu hiện khác nhau. ­ Loại kịch có hai loại: kịch bản văn học và nghệ  thuật sân khấu kịch.   Nghệ  thuật sân khấu kịch mang tính chất tổng hợp bao gồm nhiều hoạt động   của diễn viên, đạo diễn, hóa trang, ánh sáng, âm thanh… Kịch bản văn học chỉ  là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và quan trọng   nhất   của   kịch. Kịch bản văn học được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu trước  một tập thể khán giả trong một thời gian nhất định nên nhà văn không thể xây  dựng kịch bản với một thời gian quá dài với nhiều nhân vật qua những không  gian rộng lớn như trong tiểu thuyết. Ngoài ra, nhân vật còn phải “sân khấu hóa”  tất cả những gì được miêu tả. Những sự kiện, diễn biến của cốt truyện phải  được xây dựng thế nào cho phù hợp với việc thể hiện một cách trực tiếp trên  sân khấu thông qua hành động, ngôn ngữ của diễn viên. Như vậy, có thể nói,  kịch bản là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ  với nghệ thuật sân khấu. Chính nghệ thuật này đã qui định những đặc điểm của kịch  bản văn học. Kịch bắt đầu từ xung đột. Đó là sự  phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của   hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí  cụ  thể  được thể  hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Có thể  có rất nhiều loại  13
  14. xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén, giằng co, chống đối  giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự  đấu tranh nội tâm của   một nhân vật, có xung đột là sự  đấu trí căng thẳng và lí lẽ  để  thuyết phục đối   phương   giữa   hai   lực   lượng… Xung đột kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ  sở của tác phẩm kịch. Hành động là những hoạt động bao gồm cả ngôn ngữ, cử  chỉ, thái độ, quan hệ…của con người trong cuộc sống xung quanh. Trong kịch,   hành động được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật, qua hành vi, động tác, ngôn   ngữ   của   họ. Ðiểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm kịch với tác phẩm tự sự là kịch  không có nhân vật người kể chuyện. Tác phẩm kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế  bởi không gian và thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như  trong các tác phẩm tự sự và cũng không được khắc họa tỉ mỉ, nhiều măt. Do đó,  tính cách nhân vật trong kịch tập trung, nổi bật vàxác định nhằm gây ấn tượng  mãnh liệt và sâu sắc cho khán giả. Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do  đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con  người bắt buộc phải hành động và vì vậy, con người không thể  không đắn đo,  suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt…Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể  hiện trong các loại văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ  biến   nhất   trong   kịch. Một phương tiện rất quan trọng để  bộc lộ  hành động kịch là ngôn ngữ.  Trong kịch không có nhân vật người kể  chuyện nên không có ngôn ngữ  người  kể chuyện. Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ  có ngôn ngữ  nhân vật. Có thể  nói đến ba dạng ngôn ngữ  nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng  thoại. Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Các lời   đối thoại trong kịch sắc sảo, sinh động và có tác dụng hỗ tương với nhau nhằm   thể  hiện kịch tính. Ðộc thoại là lời nhân vật tự  nói với mình, qua đó bộc lộ  những dằn vặt nội tâm và những ý nghĩa thầm kín. Bàng thoại là nói với khán  giả. Có khi đang đối đáp với một nhân vật khác, bỗng dưng nhân vật tiến gần  đến và hướng về  khán giả  nói vài câu để  phân trần, giải thích một cảnh ngộ,   một tâm trạng cần được chia sẻ  14
  15. một điều bí mật.      Bên cạnh việc nắm vững các đặc điểm của mỗi loại, chúng ta có thể  dựa vào thi pháp, tư  tưởng, phong cách, cái “tạng” riêng của từng nhà văn để  khám phá ra “chất của loại” trong tác phẩm cụ thể. Chẳng hạn, Nam Cao là một  nhà văn hiện thực, ngòi bút của ông thường thể  hiện những nỗi đau sâu kín  trong tâm hồn con người. Tác phẩm của Nam Cao thường thể hiện nỗi đau tinh  thần giằng xé trong tâm hồn con người, con người trong tình huống bị hạ nhục;   cái nhục bị đẩy đến tận cùng là lúc nhân tính phát sáng. Tác phẩm của Nam Cao   thường   có   nhiều   tầng   bi   kịch. Nếu không xác định được thi pháp tư tưởng của nhà văn, ta chỉ mới dạy  học được cái tầng nghĩa cụ thể nào đó. Các tác phẩm của Ngô Tất Tố thường  vang lên tiếng kêu cứu của những người bần cố nông, nhất là phụ nữ và trẻ em.  Còn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là những tấn bi hài kịch của kiếp  người. Thạch Lam cũng vậy. Cái riêng của ông là thể hiện vẻ đẹp tình người  kín đáo, đằm thắm, sâu xa, lắng đọng. Chất “thơ văn xuôi”, “chất trữ tình hiện  thực” tràn đầy trong các tác phẩm của ông. Chúng ta phải dạy học tác phẩm của  Thạch Lam theo hướng với tác phẩm trữ tình cho dù nó là truyện. 3.2.3. Định hướng phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử  theo đặc  trưng thể loại.        Tiết 87 ĐÂY THÔN VĨ DẠ                                  Hàn Mặc Tử A ­ MỤC TIÊU BÀI HỌC: Giúp HS:     1. Về kiến thức: + Cảm nhận được vẻ  đẹp thơ  mộng, đượm buồn của thôn  Vĩ và nỗi buồn, cô đơn trong cảnh ngộ  bất hạnh của một con người tha thiết   yêu thiên nhiên, yêu sự sống.  + Thấy được phong cách Hàn Mặc Tử qua bài thơ: Một hồn thơ đau đớn hướng  về cuộc đời trần thế, trí tưởng tượng phong phú, hình ảnh thơ có sự hòa quyện   giữa thực và ảo.    2.Về  kĩ năng: Rèn kĩ năng đọc ­ hiểu một bài thơ  trữ  tình theo đặc trưng thể  loại, kĩ năng cảm thụ, phân tích tác phẩm thơ.    3. Về thái độ: Có được tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí và nghị  lực   ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn. 15
  16.    4. Tích hợp với kiến thức thực tế đời sống, kết nối kiến thức địa lí, văn hóa và   giáo dục thái độ sống.   5. Hình thành các năng lực: năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản;   năng lực giải quyết những tình huống liên quan đến văn bản; năng lực đọc­ hiểu  thơ hiện đại Việt Nam theo đặc trưng thể loại; năng lực trình bày suy nghĩ, cảm   nhận của bản thân, năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận… B­ CHUẨN BỊ         GV: SGK, SGV, thiết kế bài giảng, tư liệu, máy chiếu…    HS: Đọc tác phẩm, thu thập tài liệu, chuẩn bị bài theo câu hỏi SGK … C ­ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC: 1. Ổn định tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ (kết hợp trong hoạt động trải nghiệm) 3. Bài mới:            Hoạt  động của GV và   HS Nội dung cần đạt Hoạt   động   1:   Khởi  I. TÌM HIỂU CHUNG: động: 1/ Tác giả: Cho   5   câu   hỏi   trắc  2/ Tác phẩm nghiệm   để   kiểm   tra  3. Thời đại kiến thức tiết trước  Hoạt   động   2:   Hướng  dẫn   học   sinh   đọc   hiểu  văn bản. ? Theo các em  tứ  thơ  là  II. ĐỌC ­ HIỂU: gì 1/Tìm hiểu tứ thơ: ? Vậy khi tìm hiểu thơ  ­ Tứ  thơ  là gì? Theo cuốn từ  điển thuật ngữ  văn học thì  thì   chúng   ta   luôn   chú   ý  tứ thơ là cảm xúc thơ hoặc ý nghĩa hình ảnh thơ đến   đặc   trưng   nào   của  thơ? Đặc trưng của thơ:   ­ Cảm xúc của nhân vật   ­  Ở  bài thơ  này, tứ  thơ  được gợi cảm hứng từ  bức  ảnh   trữ tình phong cảnh do Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử:   ­ Cấu tứ thơ Trong cảnh  ấy, có thôn Vĩ hiện lên trong nắng với hàng   ­   Xây   dựng   hình   ảnh   cau vào buổi sớm, có vườn tược, có mấy khóm tre, có   thơ:  chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có cả ánh trăng chiếu   16
  17. + Hình ảnh xuống mặt nước và đằng sau tấm  ảnh có lời hỏi thăm   + Ngôn ngữ sức khỏe Tử nhưng người viết không kí tên. Bức bưu ảnh  + Biện pháp nghệ thuật mà trí tưởng tượng của Hàn Mặc tử  gán cho là bến Vĩ    ?   Nêu   cảm   nhận   ban  Dạ  và dòng chữ  của HTKC  đã gợi cảm hứng để  Hàn  đầu   của   em   về   tứ   thơ  Mặc Tử viết Đây thôn Vĩ Dạ trong   bài   thơ  Đây   thôn  ( Trình chiếu sơ đồ Cấu tứ bài thơ qua 3 khổ) Vĩ Dạ? HS:   trả   lời,   thảo   luận  ­>ĐTVD là bài thơ  bề  ngoài trong trẻo nhưng trong sâu  nhận xét thẳm  vẫn mang những  đặc  điểm  đặc trưng của “Thơ  GV: chốt và trình chiếu  điên”: với cảm xúc đặc thù là đau thương, mạch liên kết  bằng   hình   ảnh   thôn   Vĩ  là dòng tâm tư  bất định. Lớp ngôn từ  nổi bật là cực tả  ,   Dạ  trong nắng mai, sau  bài thơ  có sự  nhảy cóc về  tứ, không liền mạch về  thời  đó   trình   chiếu   Sơ   đồ   3  gian, không gian nhưng vẫn có sự nhất quán về cảm xúc,  khổ thơ cảnh từ  thực ngày càng trở  nên  ảo, cảm xúc của tác giả  ?,   Nhìn   trình   chiếu:   em  từ  say đắm đến phấp phỏng, rồi cuối cùng dừng lại  ở  hãy sắp xếp thứ tự xuất  hoài  nghi.  Đằng sau tình yêu, niềm tha thiết với cuộc   hiện các hình  ảnh trong  sống là những biểu hiện kín đáo mà đau thương, tuyệt   các khổ thơ vọng  2. Nhân vật trữ tình: a. Cảm xúc của nhân vật trữ tình qua khổ 1 .        *.Câu thơ mở đầu : Khơi nguồn cho nỗi nhớ  ­ Hình thức câu hỏi tu từ đa sắc thái ­ nhiều thanh bằng  gợi âm hưởng nhẹ nhàng, bâng khuâng, da diết. ­ Ý nghĩa: + Lời của cô gái thôn Vĩ: Lời trách móc nhẹ  nhàng cũng   là lời mời mọc chân thành tha thiết của người con gái  thôn Vĩ  + Lời tự vấn của Hàn Mặc Tử : Lời tự vấn, tự hỏi mình  là ước ao thầm kín của nhà thơ . + Anh: sự phân thân của cái tôi Hàn Mặc Tử ?,  Ấn tượng của các em   Đặc trưng Thơ   Điên (   CX  đặc  thù:  đau  thương;  khi đọc khổ thơ này NVTT:   phân   thân;Thế   giới   hình   ảnh:   hư   thực,  (   Nội   dung   của   4   câu  mộng  ảo, kì dị, ma quái; Mạch cx liên tưởng: đứt  thơ?   bức   tranh   thôn   Vĩ  nối, nhảy cóc, bất định; lớp ngôn từ  nổi bật: cực   được miêu tả qua những  tả) nét vẽ, từ ngữ, hình ảnh,    Hỏi mà thực chất là dòng độc thoại, bộc bạch tâm  biện pháp tu từ nào? tình    ­Hoạt động nhóm: Thảo  + Thôn Vĩ: địa chỉ tâm hồn, biểu tượng cho cuộc đời, cái  17
  18. luận nhóm: ( 3 nhóm) đẹp, tình yêu... ­ Nhóm 1: Nhận xét về    khát khao về  thôn Vĩ cũng là khát khao về  với cuộc   hình   thức   và   từ   ngữ,  đời giọng thơ  trong câu thơ  + “Không về”­ hàm ý vĩnh viễn không thực hiện được ­>  đầu?Theo em câu thơ  là  Niềm xót xa day dứt, nuối tiếc, cũng là tiếng nói đầy  lời   của   ai,   mang   hàm  mặc cảm bởi căn bệnh hiểm nghèo. nghĩa gì? => Câu thơ  đa thanh nhưng chiều sâu là  tiếng lòng  của  (? Để  hiểu đúng hơn về  Hàn Mặc Tử  , là  ước ao thầm kín, là  niềm khát khao  sắc thái ý nghiã của câu  được trở về thôn Vĩ, được thăm lại cảnh cũ, người xưa. thơ, các em hãy nêu cảm  nhận   về   2   cụm   từ  “Thôn Vĩ và không về” ? Cả câu thơ bộc lộ cảm  xúc   gì   của   Hàn   Mặc  Tử?) *. 3 câu tiếp theo: Cảnh thôn Vĩ trong hoài niệm. ­Nhóm   2:   Tìm   và   phân    tích những chi tiết miêu  tả vườn thôn Vĩ? ­ Nhóm 3: Tìm và phân    + Nắng hàng cau :  sự hài hòa trong cách phối màu của   tích chi tiết miêu tả hình  ánh nắng vàng rực rỡ trên nền cau xanh tươi ­> ánh nắng  ảnh con người? trong trẻo, mát lành. ­   Các   nhóm   thảo   luận  ~“Nắng   mới   lên”   :   ánh   nắng   ban   mai   tinh   khôi,   thanh  trong 3 phút ghi vào giấy  khiết, trong trẻo, nguyên lành. A0,   đại   diện   lên   trình  ­ Điệp từ “nắng” ­> làm bừng sáng không gian Vĩ Dạ bày. Các nhóm nhận xét,  Từ ngữ gợi hình gợi vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi. Cảnh   góp   ý.   Giáo   viên   kết  đẹp, rất riêng nơi thôn Vĩ. luận. Bình:   Mảnh   vườn   thôn  Vĩ trong hoài niệm hiện  len dưới nắng mai, cảnh  nghiêng về cõi thực. Tất  cả   đều   tươi   sáng   bình  dị,   tinh   khôi.   Ấn   tượng  đầu   tiên   về   thôn   Vĩ   là  ánh   nắng   ban   mai   trên  những   hàng   cau.   NVTT  về  thôn Vĩ trước tiên là  để   nhìn   “   nắng   hàng  18
  19. cau” hình  ảnh này đã in  đậm   trong   kí   ức   của  người   đi   xa.   Nói   đến  “Nắng   hàng   cau”   nhà  thơ chỉ gợi chứ không tả  nhưng   vẫn   có   sức   ám  ảnh   lớn   tới   người   đọc  ­Tính từ  “mướt” : màu xanh, mượt mà, óng ả, mỡ màng bởi nó gián tiếp gợi lên  + “Mướt quá” : cực tả vẻ  non tơ tươi tốt, đầy sức sống   vẻ   tinh   khôi,   thanh  của khu vườn, vừa như  một tiếng reo ngỡ  ngàng ngạc  khiết,   thanh   thoát   của  nhiên say đắm Nắng. + Hình  ảnh so sánh “xanh như  ngọc”: màu xanh vừa có   ­Cau là thứ cây cao nhất  màu vừa có ánh, đó là sắc xanh lung linh ngời sáng  trong vườn, cây đầu tiên  + Đại từ  “ai” phiếm chỉ  ­> gợi cảm giác mơ  hồ  không  được   nhận   những   tia  xác định. nắng   ban   mai   nên   rất  + “Vườn ai” ­ Vườn thôn Vĩ nửa gần, nửa xa ­> gợi nhớ  tinh   khôi.   Nắng   trên   lá  nhung, ngậm ngùi, xa vắng cau   là   nắng   ướt,   nắng  tươi, nắng long lanh nên  rất tinh khiết. Thân cau  lại chia thành những đốt  đều   đặn   khác   nào   như  một cây thước mà thiên  nhiên   dựng   sẵn   trong  vườn để đo độ nắng….. ­Điệp từ  nắng: tạo cảm  giác   ánh   nắng   cứ   đầy  dần lên để cả  khu vườn  thôn Vĩ ngập đầy trong  ánh nắng ­   Câu   3:   xh   dưới   hình  thức   câu   hỏi  Vườn   Ai  theo mạch cx người đọc  ­ Hình ảnh con người : “Lá trúc…” dễ dàng xác định được “       + Mặt chữ  điền : đầy đặn, phúc hậu, ngay thẳng và  Vườn   ai”   là   thuộc   về  cương trực. thôn   Vĩ.   Viết   về   vườn       + Lá trúc che ngang: Vẻ  đẹp kín đáo dịu dàng, duyên  Vĩ   Dạ   trong   hoài   niệm  dáng mà người đọc hình dùng  HMT   đang   đưa   người  19
  20. đọc   trở   về   khu   vườn  thôn Vĩ trong hiện tại => Cảnh trong sáng, người thuần hậu. Thiên nhiên và con  +Ai: gợi nỗi niềm bâng  người hài hòa trong vẻ  đẹp dịu dàng , thắm đượm tình  khuâng,   gợi   tình   cảm  quê, hồn quê. thiết   tha   với   cảnh   và  => Tình yêu và nỗi nhớ của Hàn Mặc Tử đối với cảnh và  người thôn Vĩ người xứ  Huế.. Tâm trạng nhà thơ: khao khát, đắm say  +Vĩ   Dạ   còn   mang   vẻ  trở về nhưng cũng đầy mặc cảm tuyệt vọng  đẹp riêng với: Khu vườn  tươi   tốt,   HMT   như   1  đứa   trẻ   lạc   vào   khu  vườn   rời   rợi   sắc   xanh,  vừa   đi   vừa   trầm   trồ  khen ngợi +Cành cây  ngọn lá như  được gột rửa không còn  ­ Vĩ Dạ: một chút bụi bặm. Khu         + Địa danh cụ  thể­ gắn với những kỷ niệm của thi   vườn thôn Vĩ không chỉ  nhân có màu xanh mà còn có         cả sắc xanh. +   so   sánh:   xanh   như  ngọc:   xanh   trong,   màu  xanh đi liền với ánh sáng        + Vĩ Dạ còn tượng trưng cho thế giới bên ngoài tươi   nhưng không chói chang  đẹp. HMT thèm về thăm Vĩ Dạ là thèm  khát về với cuộc  mà   lại   rất   dịu,   người  đời, với hạnh phúc, tình yêu. đọc có thể hình dung vẻ  đẹp của viên ngọc đính  giữa bầu trời xứ Huế ­Câu 4: Khuôn  mặt chữ  điền:  câu   thơ   có   nhiều  tranh   cãi:   khuôn   mặt  người   đàn   ông,   khuôn  mặt   người   con   gái,  b. Cảm xúc nhân vật trữ tình qua khổ 2: khuôn   mặt   người   thôn  Gợi ý HS chuẩn bị ở nhà: Cảnh vật khổ 2 có mối liên hệ  Vĩ, khuôn mặt người trở  gì với cảnh vật khổ  1 không? NVTT trong khổ  2 được  về thôn Vĩ. Dù hiểu theo  thể hiện như thế nào? ý nào thì khuôn mặt đều  ­ Cảnh vật hoàn toàn thay đổi:  gợi   lên   sự   hiền   lành,               + vườn thôn Vĩ  cảnh mây trời sông nước phúc   hậu   hơn   thế   nữa  + Cảnh  ấm áp, tươi sáng    chia lìa, buồn   20
nguon tai.lieu . vn