Xem mẫu
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Ninh
Bình
Nhóm tác giả sáng kiến
Ngày tháng Trình độ Tỉ lệ %
T Họ và tên năm sinh chuyên môn đóng góp
Nơi công tác Chức vụ
vào việc tạo
ra sáng kiến
Trường THPT
Đỗ Thị Liệu 16/01/1974 Hoa Lư A Tổ trưởng Thạc sĩ 30%
Trường THPT
Đoàn Thị Thu Hạnh 24/5/1976 Hoa Lư A Giáo viên Đại học 25%
Trường THPT
Đỗ Thị Bích Thủy 17/9/1975 Hoa Lư A Giáo viên Đại học 25%
Trường THPT
Đinh Thị Mai Xuyên 11/10/1978 Hoa Lư A Giáo viên Đại học 10%
Trường THPT
Bùi Thị Phương 20/01/1979 Hoa Lư A Giáo viên Đại học 10%
Là đồng tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến:
1. TÊN SÁNG KIẾN VÀ LĨNH VỰC ÁP DỤNG
1
- Tên sáng kiến:
DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN HỌC THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
(Qua bài: ĐÂY THÔN VĨ DẠ Hàn Mặc Tử)
Lĩnh vực áp dụng: lĩnh vực giáo dục
Thời gian áp dụng: năm học: 2018 2019, 2019 2020, 20202021
2. MÔ TẢ SÁNG KIẾN
2.1. Về nội dung
Mục đích của viêc giang day môn Ng
̣ ̉ ̣ ữ văn trong nha tr
̀ ương phô
̀ ̉
thông không chỉ cung câp cho h
́ ọc sinh về kiến thức khoa học, giup cac em
́ ́
́ ược nhưng bai văn hay mà còn hình thành cho các em kĩ năng giao
viêt đ ̃ ̀
tiếp, kĩ năng sống, bồi đắp cho các em nhưng tinh cam cao đep, giá tr
̃ ̀ ̉ ̣ ị
thẩm mĩ, giúp các em tiêp cận tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại…
a.Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp mới
Giải pháp cũ Giải pháp mới
Dạy học từng tác Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
Nội dung phẩm riêng lẻ. Học Từ đó học sinh sẽ biết cách khai thác, tiếp
sinh học tác phẩm cận các tác phẩm khác cùng thể loại
nào chỉ nắm được
nội dung và nghệ
thuật cơ bản của tác
phẩm đó.
Chuyển tải kiến Hướng dẫ học sinh tìm hiểu các tác phẩm
Mục đích thức về tác phẩm; vắn học theo đặc trưng thể loại, giáo dục
giáo dục phẩm chất, phẩm chất, hình thành năng lực cho học sinh
hình thành năng lực
Giúp học sinh tích cực, chủ động trong
cho học sinh
việc tiếp cận tác phẩm văn học – kể cả
những tac phẩm ngoài chương trình
Phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng,
năng lực tạo lập văn bản…cho học sinh.
2
- Kiến thức trình bày Học sinh học tập tích cực, giáo viên chuyển
Ưu điểm logic, có hệ thống giao nhiệm vụ học tập cho học sinh. Dạy
học sinh cách tự thu thập kiến thức và tự rút
ra bài học. Hình thức học tập phong phú, đa
dạng: học sinh học thầy, học bạn, học trên
lớp, từ thông tin đại chúng, từ tài liệu tra
cứu trên Internet, học qua trải nghiệm thực
tế
Học sinh thụ động, Với những học sinh học yếu, thụ động các
Nhược điểm kiến thức thiên về lý em sẽ khó tiếp cận với những tác phẩm
thuyết, không khích ngoài chương trình.
lệ sự sáng tạo, kỹ
năng thực hành kém,
áp dụng vào đời sống
thực tế hạn chế. Tiết
học nhàm chán, đơn
điệu; học sinh thiếu
hứng thú học tập.
Về mục tiêu:
+ Cung cấp kiến thức sâu rộng về đặc trưng thể loại tác phẩm văn
học cho học sinh.
+ Hình thành cho học sinh kỹ năng, năng lực mới: giao tiếp, bày tỏ
quan điểm suy nghĩ của bản thân, quản lý thời gian, xử lý thông tin phù
hợp với nội dung, sử dụng công nghệ thông tin… Từ đó giúp các em có
được khả năng tìm hiểu những tác phẩm văn học khác cùng thể loại
Về hình thức: Thông qua hoạt động dạy học trên lớp học sinh
được phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực, chủ động tự giác và sáng tạo
của bản thân. Các em được bày tỏ quan điểm, ý tưởng; được đánh gia và
lựa chọn ý tưởng hoạt động; được thể hiện và tự khẳng định bản thân.
Về phương pháp: Nhóm ngữ văn đã lựa chọn những phương pháp
phù hợp khi tổ chức hoạt động dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể
loại như: phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp thuyết trình, trả lời
câu hỏi, dạy học dự án…Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
3
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác: Ở
chuyên đề này, chúng tôi đã tạo điều kiện cho các em được hợp tác, phối
hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm,tránh hiện
tượng ỷ lại. Từ đó, tính cách, năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ,
uốn nắn; phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. ..
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò: t rước đây giáo
viên giữ độc quyền đánh giá học sinh.Trong phương pháp tích cực, giáo
viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn
nhau. Ở chuyên đề này, chúng tôi đã tạo điều kiện cho các em được giám
sát, phản biện, nhận xét hoạt động của nhóm bạn. Việc kiểm tra, đánh giá
không chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã
học mà các em
b. Hiệu quả xã hội đạt được
*Với học sinh.
Chuyên đề giúp học sinh tiếp cận tác phẩm một cách chủ động,
chỉ cần các em nắm được đặc trưng thể loại các em sẽ tìm hiểu được
những tác phẩm khác. Sau 03 năm áp dụng (2018 2019, 2019 2020, 2020
2021) chất lượng giáo dục nâng cao rõ rệt: HSG cấp tỉnh tăng thêm 02
giải nhì, xếp loại học lực tăng 0,56% , thi THQG tăng 0,6% so với những
năm học trước.
Dạy học kiến thức: Cùng một hoạt động học,học sinh tích hợp
được kiến thức li luận về đặc trưng thể loại tác phẩm văn học. Đây được
coi là chìa khóa tìm hiểu tác phẩm.
Giáo dục kĩ năng: buộc học sinh phải tìm hiểu tư liệu và tự tiếp
cận những tác phẩm văn học khác cùng thể loại. Học sinh học không phải
để đối phó với thi cử mà học để thực hành, để trải nghiệm, ứng dụng. Vì
vậy thông qua hoạt động,chúng tôi nhận thấy khá nhiều học sinh bộc lộ
rõ năng lực, sở trường của mình. Giáo viên chỉ gợi ý, định hướng, Qua
đây, học sinh thực sự được phát huy tính tích cực chủ động của các em.
=>Như vậy, qua hoạt động học chúng tôi đã đạt được hai mục đích:
dạy học kiến thức khoa học và giáo dục kĩ năng cho học sinh.
4
- * Với giáo viên:
Tổ chức dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại,giáo
viên vừa đảm bảo kiến thức chuyên môn vừa rút ngắn thời gian dạy học
vừa khơi hứng thú học tập, dễ phát hiện năng lực của HS, nâng cao chất
lượng dạy học và giáo dục.
Nâng cao hiệu quả trong phối kết hợp làm việc giữa các giáo viên.
Dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại, giáo viên
không phải là người cung cấp lí thuyết cho học sinh mà là người hướng
dẫn học sinh gắn lí thuyết với thực tiễn. Từ đó tạo cho học sinh sự hứng
thú, niềm đam mê và yêu thích môn học hơn. Giáo viên không phải là
người giao giảng đạo đức mà để học sinh tự trải nghiệm, tự nhận thức,
từ đó học sinh mới có những bài học sâu sắc thấm thía.
Chuyên đề cũng là cơ hội để cho các đồng chí giáo viên được
nghiên cứu, thảo luận, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm trong việc thiết kế
bài giảng sao cho phù hợp với đối tượng và mục đích dạy học, giáo dục.
> Từ đó góp phần thực hiện tốt đổi mới phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh trong giai đoạn hiện nay.
* Với phụ huynh học sinh:thấy rõ hiệu quả học tập của con em qua
phong thái tự tin, thái độ say mê, chất lượng học tập từ đó đặt niềm tin
vào thầy cô và nhà trường.
2.2. Điều kiện và khả năng áp dụng
a, Điều kiện áp dụng:
+ Về phía học sinh: Các em cần phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của mình, tránh học chay, học vẹt, thụ động...
+ Về phía giáo viên: Giáo viên phải thực sự khơi dậy được hứng
thú, say mê trong học tập và chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh.
giáo viên xây dựng kế hoạch giảng dạy phù hợp với đối tượng và mục
tiêu giáo dục.
+ Về phía tổ nhóm chuyên môn: Tích cực đổi mới hình thức sinh
hoạt tổ nhóm chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài dạy, mạnh dạn giao
việc cho giáo viên, chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học.
5
- b, Khả năng áp dụng:
Đề tài sáng kiến của chúng tôi có thể áp dụng rộng rãi với mọi
giáo viên và nhiều cấp học
+Về mặt nội dung: Sáng kiến của chúng tôi rất khả thi với tiết
dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại môn ngữ văn ở cấp
Trung học.
+ Về mặt phương pháp: vận dụng phương pháp tự học, tự nghiên
cứu ở các môn học khác nhau trong các cấp học.
Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực,
đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ CƠ SỞ
Hoa Lư, ngày 08 tháng 05 năm 2020
Người nộp đơn
Đỗ Thị Liệu
Đoàn Thị Thu Hạnh
Đỗ Thị Bích Thủy
Đinh Thị Mai Xuyên
Bùi Thị Phương
6
-
3.NỘI DUNG SÁNG KIẾN
3.1. Một số vấn đề về loại thể văn học
3.1.1. Quan niệm về loại thể và việc phân chia loại thể
Hình thức tổ chức tác phẩm văn học được xác định trong loại(loại hình,
chủng loại) và thể(thể tài, thể loại). Loại là phương thức tồn tại chung; thể là
sự hiện thực hóa của loại. Phần lớn các nhà nghiên cứ đều tán thành phân các
tác phẩm văn học làm ba loại lớn: trữ tình (lấy cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng con
người làm đối tượng thể hiện chủ yếu), tự sự (dùng lời kể, miêu tả để xây
dựng cốt truyện, khắc họa tính cách nhân vật, dựng lên những bức tranh về đời
sống) và kịch (thông qua lời thoại và hành động của nhân vật mà tái hiện những
xung đột xã hội). Loại trữ tình có các thể: thơ ca, khúc ngâm…Loại tự sự có các thể:
truyện, kí…Loại kịch có các thể: chính kịch, bi kịch, hài kịch…
Loại thể văn học thuộc về ý thức, về cách thể hiện cuộc sống trong văn
học cũng như cách cấu tạo và biểu hiện nội dung trong tác phẩm văn học cụ
thể. Tác phẩm văn học tồn tại trong những hình thức của các loại thể văn học.
Không có tác phẩm nào tồn tại ngoài hình thức quen thuộc của loại thể. Phân
tích một tác phẩm về nội dung cũng như nghệ thuật không thể xem nhẹ đặc
trưng loại thể.
7
- Theo Trần Thanh Đạm, loại thể bao gồm loại (loại hình) và thể (thể tài).
Theo Nguyễn Thị Dư Khánh, loại thể gồm loại (loại hình) và thể (thể thơ, thể
văn). Từ đây, chúng ta có thể hiểu một cách thống nhất về loại thể. Chúng gồm
các nhóm lớn nhất là loại, mỗi loại có những nhóm nhỏ hơn là thể (hoặc thể
loại, thể tài).
Sáng tác văn học hết sức đa dạng, phong phú, vì thế để thưởng thức, nghiên
cứu, phê bình, nắm bắt các qui luật của văn học, người ta có nhu cầu phân loại
các thể loại của các tác phẩm văn học. Đó là một công việc vì hai nguyên nhân.
Một là bản thân thể loại rất phức tạp và hai là có nhiều cách phân loại khác
nhau.
Các thể loại văn học đã nhiều lại luôn ở trong sự vận động, thay đổi, pha trộn
vào nhau. Trong tiến trình đời sống, một số thể loại do không thích hợp đã bị loại bỏ,
một số thể loại mới nảy sinh và thay thế. Các hiện tượng đó làm khó cho công việc
phân loại. Tiêu chí phân loại cũng rất nhiều. Phân loại về ngôn ngữ, về phương thức
cấu tạo hình tượng, về dung lượng dài ngắn. Các tiêu chí làm cho việc phân loại
không khỏi chồng chéo, và nhìn chung sự phân loại chỉ có thể mang tính chất tương
đối.
Cho đến nay phổ biến vẫn tồn tại cách chia ba và cách chia bốn. Cách chia
ba có từ thời cổ đại, từ thời Aristote, văn học được chia làm ba loại theo phương
thức, phương tiện biểu đạt của chúng: tự sự, trữ tình, kịch. Cách chia bốn xuất
hiện muộn hơn, chia văn học làm bốn loại: thơ ca, tiểu thuyết, kịch, kí (tản
văn). Vào thế kỉ XIX, nhà lí luận văn học Nga là Belinski cũng chia tác phẩm
văn học thành ba loại: tự sự, trữ tình, kịch. Ông cho rằng, “chia thơ ca (văn học)
làm ba loại: tự sự, trữ tình, kịch là xuất phát từ ý nghĩa của việc nhận thức chân
lí, cũng tức là trên tinh thần nhận thức xuất phát từ mối quan hệ qua lại giữa
chủ thể với đối tượng khách thể nhận thức. Thơ trữ tình biểu hiện phương
diện chủ quan của một con người, đem con người bên trong phơi bày ra trước
mắt chúng ta, do đó toàn bộ là cảm xúc, tình cảm, âm nhạc. Thơ tự sự là miêu tả
khách quan một sự kiện đã hoàn thành, là nhà nghệ sĩ đã chọn cho chúng ta một
điểm thích hợp nhất để bày tỏ tất cả mọi phương diên, làm thành một bức tranh
cho chúng ta xem. Thơ kịch là sự điều hòa hai phương diện trên, chủ quan, trữ
tình và khách quan, tự sự. Trình bày ra trước mắt chúng ta, không phải là sự kiện
đã hoàn thành, mà là đang thực hiện; không phải nhà thơ đang thông báo sự việc
cho ta, mà là từng nhân vật xuất hiện nói với chúng ta”.
Từ truyền thống trên, trong lí luận văn học phương Tây thịnh hành cách
chia văn học làm ba loại. Theo truyền thống đó, loại tự sự bao gồm các thể loại
sử thi (anh hùng ca), thơ tự sự (truyện thơ), tiểu thuyết…; loại trữ tình bao gồm
8
- các thể loại như thơ trữ tình, văn xuôi trữ tình; loại kịch bao gồm bi kịch, hài
kịch, chính kịch…
Dựa theo tiêu chí loại hình nội dung thể loại, nhà nghiên cứu Nga G.
Pospelov lại chia ra các loại thần thoại sử thi, thế sự và đời tư. Dựa theo tiêu chí
miêu tả cuộc sống đã hoàn thành và chưa hoàn thành, nhà nghiên cứu M. Bakhtin
đưa ra các thể loại văn học sử thi và các thể loại tiểu thuyết.
Ở Trung Quốc và Việt Nam từ xưa, do quan niêm văn sử bất phân, người
ta chia văn học ra làm hai loại chính theo hình thức ngôn từ là thơ và văn. Các
tuyển tập văn học lớn trong lịch sử văn học cũng chia ra như thế, ví dụ
như Hoàng Việt thi tuyển, Hoàng Việt văn tuyển do Bùi Huy Bích (17441818)
soạn. Cho đến những năm 60 thế kỉ XX xuất hiện bộ Hợp tuyển thơ văn Việt
Nam do nhiều học giả chủ trì, sau đó xuất hiện bộ Thơ văn Lí Trần do Viện
Văn học chủ trì. Các tên sách đều cho thấy quan niệm chia hai mảng văn thơ rất
thịnh hành.
3.1.2. Những mâu thuẫn và tồn tại
Các cách phân loại đã trình bày ở trên đều có những ưu điểm và nhược
điểm, nói chung đều có tính chất tương đối. Đó là vì, một là mọi khái quát về
loại thể văn học xưa nay nói chung không bao giờ đầy đủ. Thứ hai không một
tiêu chí phân loại văn học nào có thể loại trừ được các tiêu chí khác. Thứ ba, các
thể và các loại văn học không ngừng xâm nhập vào nhau, tạo thành các loại
trung gian. Chọn cách nào đều nhằm một mục đích tiện lợi nào đó trong việc
giảng dạy.
Theo chúng tôi thì việc chia ba loại: tự sự, trữ tình, kịch là tương đối ổn
định. Ở mỗi loại có các thể nhỏ:
Loại tự sự
+ Tự sự dân gian: gồm các thể thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện
cười.
+ Tự sự cổ trung đại và hiện đại: gồm các thể truyền kì, tiểu thuyết,
truyện vừa, kí.
Loại trữ tình
+ Trữ tình dân gian: gồm các thể tục ngữ, ca dao, dân ca, vè, câu đố.
+ Trữ tình trung đại và hiện đại: gồm các thể thơ cổ thể truyền thống và thơ tự
do.
Loại kịch
9
- + Sân khấu dân gian: gồm các thể chèo, tuồng, múa rối.
+ Kịch hiện đại: gồm các thể bi kịch, hài kịch, chính kịch.
Cách phân loại trên là cần thiết khi bước đầu tiếp cận các tác phẩm văn
học trong nhà trường. Tuy nhiên, trong thực tế, một số tác phẩm thuộc thể loại
này nhưng lại mang tính chất của loại khác. Tức là tồn tại vấn đề “chất của
loại” trong thể. Chẳng hạn như một truyện ngắn giàu chất trữ tình, một bài thơ
giàu chất tự sự, hay một truyện ngắn giàu chất kịch… Chúng ta cần thận trọng
với ba loại tính chất (tính chất trữ tình, tính chất tự sự, tính chất kịch) ở từng tác
phẩm. Nói cách khác, chúng ta cần chú ý đến “chất của loại” trong thể khi phân
tích tác phẩm văn học. Vì chính “tính chất loại thể” làm ra diện mạo tinh thần
của tác phẩm. Nó giúp ta tiếp nhận “đúng”, “trúng” với tác phẩm cụ thể. Làm
thành “loại” và thể hiện “loại” phải nhờ các “thể”. Nhưng không ít “thể” của
tác phẩm thuộc loại này nội dung lại mang tính chất ở loại kia. Ví dụ
như truyện Chữ người tử tù, Chí Phèo vừa giàu chất trữ tình, vừa giàu kịch tính.
Nếu chỉ chú ý vào thể mà quên đi tính chất loại trong thể trong tác phẩm, chúng
ta rất dễ phân tích tác phẩm một cách rập khuôn, sai lệch. Như vậy, chúng ta
cần quan tâm và tìm ra các phương pháp, biện pháp thích hợp để giải quyết
những tồn tại và mâu thuẫn này trong quá trình dạy học tác
phẩm văn chương.
3. 2. Vấn đề dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể
3.2.1. Người dạy bị chi phối bởi “thể” nhiều hơn “tính chất của
loại trong thể”
Qua thực tế dự giờ của một số đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy rằng,
cho đến nay, giáo viên dạy học tác phẩm văn chương phần lớn chỉ quan tâm đến
thể loại, không quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng mức “tính chất của loại
trong thể”. Ngay cả sách tham khảo, những tài liệu hướng dẫn cũng chưa chú ý
đến loại thể trong quá trình phân tích tác phẩm văn học, đặc biệt là vấn đề
“chất của loại” trong thể.
Ví dụ, dạy bài Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), giáo viên khai thác “chuyện
tình” giữa Hàn Mặc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc, biến bài thơ thành bài minh họa
cho một “chuyện tình”. Chúng ta biết, đó là một bài thơ trữ tình. Do đó, điều
quan trọng là phải chú ý phân tích cảm xúc, tâm trạng, cảm hứng của nhân vật
trữ tình, chú ý khai thác hình ảnh, vần, nhịp điệu… trong tác phẩm. “Chuyện
tình” giữa tác giả và Hoàng Thị Kim Cúc chỉ là một yếu tố để ta hiểu thêm về
tác phẩm chứ không phải là căn cứ để phân tích tác phẩm.
10
- Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do giáo viên chưa xác định loại
thể của tác phẩm hoặc chưa chú ý đến đặc điểm của loại thể của tác phẩm.
Việc không xác định loại thể của tác phẩm cũng như chưa chú ý đến đặc điểm
của loại thể của tác phẩm khi phân tích tác phẩm văn chương cũng giống như
việc không xác định giới tính hoặc chưa chú ý đến đặc điểm giới tính khi phân
tích, nhận xét, đánh giá một con người. Tình trạng này khiến cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá mang tính rập khuôn, võ đoán.
3.2.2. Việc xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong dạy học tác phẩm
văn chương
Không xác định rõ “chất của loại” trong thể dễ dẫn đến tình trạng khi
thấy thơ, ta dạy thơ trữ tình, khi gặp truyện, ta dạy học theo tinh thần văn xuôi
tự sự. Xa rời bản chất loại thể của tác phẩm chính là xa rời tác phẩm cả về linh
hồn và thể xác. Vì thế, có thể nói, xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong
việc dạy học tác phẩm văn chương.
Trước khi tìm hiểu một tác phẩm, chúng ta cần xác định loại thể, xác
định “chất của loại” trong thể trong tác phẩm. Để nhận biết “chất của loại”
trong thể trong một tác phẩm, chúng ta cần chú ý đến đặc điểm của loại. Sau
đây là một số đặc điểm của loại tự sự, trữ tình và kịch.
Loại tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan (tương đối) của nó
qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó.
Tác phẩm tự sự hầu như không bị hạn chế bởi không gian và thời gian. Nó có
thể kể về những khoảnh khắc hay những sự kiện xảy ra hàng trăm năm. Tầm
bao quát cuộc sống trong tác phẩm rộng lớn. Nhịp điệu trong tác phẩm nhìn
chung là khoan thai.
Nhân vật tự sự được khắc họa đầy đặn nhiều mặt: bên trong, bên ngoài, cả
điều nói ra và không nói ra, cả ý nghĩ và cả cái nhìn, cả cảm xúc, tình cảm, ý
thức và vô thức, cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Hệ thống chi tiết nghệ thuật của tác phẩm tự sự phong phú, đa dạng, bề bộn
hơn hai loại trữ tình và kịch.
Tác phẩm tự sự nào cũng có hình tượng người trần thuật của nó. Hình
tượng người trần thuật, kể chuyện rất đa dạng: khách quan, ngôi thứ nhất,
thông suốt, thông suốt có chọn lựa… và cũng có khi người kể chuyện như một
11
- nhân vật… khi nhập thân, khi gián cách, khi đứng ngoài, khi hòa nhập… ít nhiều
ta vẫn nhận ra thái độ của họ.
Lời văn của loại tự sự có thể là văn vần hay văn xuôi nhưng luôn hướng
người đọc ra thế giới đối tượng, khác hẳn lời trữ tình hướng sự chú ý tới cảm
xúc, ý định chủ quan của người nói, khác hẳn lời thoại trong kịch.
Lời nói của nhân vật tự sự là một thành phần, một yếu tố của văn tự sự.
Nó xuất hiện gắn liền với sự miêu tả. Trong tự sự, không có chỗ cho những lời
thổ lộ trữ tình độc lập, hay tự biểu hiện một cách trực tiếp, cái đó chủ yếu dành
cho nhân vật. Chính vì vậy mà trong tự sự vẫn chấp nhận ngôn ngữ đa thanh, đa
nghĩa, nửa trực tiếp, nủa gián tiếp.
Văn tự sự có chức năng tái hiện, phân tích sự vật qua miêu tả và thuyết minh.
Việc khẳng định loại tự sự phải căn cứ trên cả nội dung và nghệ thuật. Nó cũng
mang những chủ đề: lịch sử dân tộc, thế sự đạo đức và đời tư.
Loại trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người.
Trong tác phẩm trữ tình, tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ... được trình
bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Tác giả có thể biểu
hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến
cố, sự kiện nào.
Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó
cũng được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi
vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc
về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì...Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn được
thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả
các sự vật, hiện tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật,
sinh động. Những chi tiết chân thật, sinh động trong đời sống dễ khêu gợi
những tình cảm sâu sắc, mới mẻ. Có điều những chi tiết trong tác phẩm trữ tình
bao giờ cũng hết sức cô đọng, súc tích.
Tác phẩm trữ tình bao giờ cũng mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Ðó là
những nỗi niềm chủ quan thầm kín nhưng khi sáng tác nhà thơ luôn luôn nâng
mình lên thành người mang tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ cho một loại người,
một thế hệ và cả những chân lí phổ biến...Người ta thường nói đến từ chân trời
của cái "tôi" đến chân trời của cái "ta", "từ chân trời của một người đến chân
trời của tất cả" cũng trên ý nghĩa này.
Trong tác phẩm trữ tình có nhân vật trữ tình và nhân vật trong tác phẩm
trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tâm
sự, cảm xúc, suy nghĩ ...của mình, là nguyên nhân trực tiếp khêu gợi nguồn cảm
hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối tượng để nhà thơ miêu tả
12
- mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về lẽ sống và
con người được thể hiện trong tác phẩm. Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện
với tư cách là những tình cảm, tâm trạng, suy tư... của chính bản thân nhà thơ.
Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của
tác giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể
tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo qui luật
điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân vật trữ
tình nhập vai.
Lời văn trong tác phẩm trữ tình đòi hỏi bộc lộ những tình cảm mạnh
mẽ, những ý tập trung, hàm súc do đó nó phải tìm cho mình những lời văn phù
hợp với yêu cầu gây ấn tượng mạnh, không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà
còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ nữa. Không phải ngẫu nhiên mà
nhiều người khẳng định đặc điểm quan trọng nhất của lời văn trong tác phẩm
trữ tình là giàu nhạc tính. Nhạc tính này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân
tộc, được
biểu hiện khác nhau.
Loại kịch có hai loại: kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu kịch.
Nghệ thuật sân khấu kịch mang tính chất tổng hợp bao gồm nhiều hoạt động
của diễn viên, đạo diễn, hóa trang, ánh sáng, âm thanh… Kịch bản văn học chỉ
là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và quan trọng
nhất của kịch.
Kịch bản văn học được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu trước
một tập thể khán giả trong một thời gian nhất định nên nhà văn không thể xây
dựng kịch bản với một thời gian quá dài với nhiều nhân vật qua những không
gian rộng lớn như trong tiểu thuyết. Ngoài ra, nhân vật còn phải “sân khấu hóa”
tất cả những gì được miêu tả. Những sự kiện, diễn biến của cốt truyện phải
được xây dựng thế nào cho phù hợp với việc thể hiện một cách trực tiếp trên
sân khấu thông qua hành động, ngôn ngữ của diễn viên. Như vậy, có thể nói,
kịch bản là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ
với nghệ thuật sân khấu. Chính nghệ thuật này đã qui định những đặc điểm của kịch
bản văn học.
Kịch bắt đầu từ xung đột. Đó là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của
hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí
cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Có thể có rất nhiều loại
13
- xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén, giằng co, chống đối
giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự đấu tranh nội tâm của
một nhân vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để thuyết phục đối
phương giữa hai lực lượng…
Xung đột kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ
sở của tác phẩm kịch. Hành động là những hoạt động bao gồm cả ngôn ngữ, cử
chỉ, thái độ, quan hệ…của con người trong cuộc sống xung quanh. Trong kịch,
hành động được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật, qua hành vi, động tác, ngôn
ngữ của họ.
Ðiểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm kịch với tác phẩm tự sự là kịch
không có nhân vật người kể chuyện.
Tác phẩm kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế
bởi không gian và thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như
trong các tác phẩm tự sự và cũng không được khắc họa tỉ mỉ, nhiều măt. Do đó,
tính cách nhân vật trong kịch tập trung, nổi bật vàxác định nhằm gây ấn tượng
mãnh liệt và sâu sắc cho khán giả.
Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do
đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con
người bắt buộc phải hành động và vì vậy, con người không thể không đắn đo,
suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt…Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể
hiện trong các loại văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ
biến nhất trong kịch.
Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ.
Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người
kể chuyện. Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể
nói đến ba dạng ngôn ngữ nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng
thoại. Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Các lời
đối thoại trong kịch sắc sảo, sinh động và có tác dụng hỗ tương với nhau nhằm
thể hiện kịch tính. Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó bộc lộ
những dằn vặt nội tâm và những ý nghĩa thầm kín. Bàng thoại là nói với khán
giả. Có khi đang đối đáp với một nhân vật khác, bỗng dưng nhân vật tiến gần
đến và hướng về khán giả nói vài câu để phân trần, giải thích một cảnh ngộ,
một tâm trạng cần được chia sẻ
14
- một điều bí mật.
Bên cạnh việc nắm vững các đặc điểm của mỗi loại, chúng ta có thể
dựa vào thi pháp, tư tưởng, phong cách, cái “tạng” riêng của từng nhà văn để
khám phá ra “chất của loại” trong tác phẩm cụ thể. Chẳng hạn, Nam Cao là một
nhà văn hiện thực, ngòi bút của ông thường thể hiện những nỗi đau sâu kín
trong tâm hồn con người. Tác phẩm của Nam Cao thường thể hiện nỗi đau tinh
thần giằng xé trong tâm hồn con người, con người trong tình huống bị hạ nhục;
cái nhục bị đẩy đến tận cùng là lúc nhân tính phát sáng. Tác phẩm của Nam Cao
thường có nhiều tầng bi kịch.
Nếu không xác định được thi pháp tư tưởng của nhà văn, ta chỉ mới dạy
học được cái tầng nghĩa cụ thể nào đó. Các tác phẩm của Ngô Tất Tố thường
vang lên tiếng kêu cứu của những người bần cố nông, nhất là phụ nữ và trẻ em.
Còn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là những tấn bi hài kịch của kiếp
người. Thạch Lam cũng vậy. Cái riêng của ông là thể hiện vẻ đẹp tình người
kín đáo, đằm thắm, sâu xa, lắng đọng. Chất “thơ văn xuôi”, “chất trữ tình hiện
thực” tràn đầy trong các tác phẩm của ông. Chúng ta phải dạy học tác phẩm của
Thạch Lam theo hướng với tác phẩm trữ tình cho dù nó là truyện.
3.2.3. Định hướng phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử theo đặc
trưng thể loại.
Tiết 87
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Hàn Mặc Tử
A MỤC TIÊU BÀI HỌC: Giúp HS:
1. Về kiến thức: + Cảm nhận được vẻ đẹp thơ mộng, đượm buồn của thôn
Vĩ và nỗi buồn, cô đơn trong cảnh ngộ bất hạnh của một con người tha thiết
yêu thiên nhiên, yêu sự sống.
+ Thấy được phong cách Hàn Mặc Tử qua bài thơ: Một hồn thơ đau đớn hướng
về cuộc đời trần thế, trí tưởng tượng phong phú, hình ảnh thơ có sự hòa quyện
giữa thực và ảo.
2.Về kĩ năng: Rèn kĩ năng đọc hiểu một bài thơ trữ tình theo đặc trưng thể
loại, kĩ năng cảm thụ, phân tích tác phẩm thơ.
3. Về thái độ: Có được tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí và nghị lực
ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn.
15
- 4. Tích hợp với kiến thức thực tế đời sống, kết nối kiến thức địa lí, văn hóa và
giáo dục thái độ sống.
5. Hình thành các năng lực: năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản;
năng lực giải quyết những tình huống liên quan đến văn bản; năng lực đọc hiểu
thơ hiện đại Việt Nam theo đặc trưng thể loại; năng lực trình bày suy nghĩ, cảm
nhận của bản thân, năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận…
B CHUẨN BỊ
GV: SGK, SGV, thiết kế bài giảng, tư liệu, máy chiếu…
HS: Đọc tác phẩm, thu thập tài liệu, chuẩn bị bài theo câu hỏi SGK …
C TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
1. Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ (kết hợp trong hoạt động trải nghiệm)
3. Bài mới:
Hoạt động của GV và
HS Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Khởi I. TÌM HIỂU CHUNG:
động: 1/ Tác giả:
Cho 5 câu hỏi trắc 2/ Tác phẩm
nghiệm để kiểm tra 3. Thời đại
kiến thức tiết trước
Hoạt động 2: Hướng
dẫn học sinh đọc hiểu
văn bản.
? Theo các em tứ thơ là II. ĐỌC HIỂU:
gì 1/Tìm hiểu tứ thơ:
? Vậy khi tìm hiểu thơ Tứ thơ là gì? Theo cuốn từ điển thuật ngữ văn học thì
thì chúng ta luôn chú ý tứ thơ là cảm xúc thơ hoặc ý nghĩa hình ảnh thơ
đến đặc trưng nào của
thơ?
Đặc trưng của thơ:
Cảm xúc của nhân vật Ở bài thơ này, tứ thơ được gợi cảm hứng từ bức ảnh
trữ tình phong cảnh do Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử:
Cấu tứ thơ Trong cảnh ấy, có thôn Vĩ hiện lên trong nắng với hàng
Xây dựng hình ảnh cau vào buổi sớm, có vườn tược, có mấy khóm tre, có
thơ: chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có cả ánh trăng chiếu
16
- + Hình ảnh xuống mặt nước và đằng sau tấm ảnh có lời hỏi thăm
+ Ngôn ngữ sức khỏe Tử nhưng người viết không kí tên. Bức bưu ảnh
+ Biện pháp nghệ thuật mà trí tưởng tượng của Hàn Mặc tử gán cho là bến Vĩ
? Nêu cảm nhận ban Dạ và dòng chữ của HTKC đã gợi cảm hứng để Hàn
đầu của em về tứ thơ Mặc Tử viết Đây thôn Vĩ Dạ
trong bài thơ Đây thôn ( Trình chiếu sơ đồ Cấu tứ bài thơ qua 3 khổ)
Vĩ Dạ?
HS: trả lời, thảo luận >ĐTVD là bài thơ bề ngoài trong trẻo nhưng trong sâu
nhận xét thẳm vẫn mang những đặc điểm đặc trưng của “Thơ
GV: chốt và trình chiếu điên”: với cảm xúc đặc thù là đau thương, mạch liên kết
bằng hình ảnh thôn Vĩ là dòng tâm tư bất định. Lớp ngôn từ nổi bật là cực tả ,
Dạ trong nắng mai, sau bài thơ có sự nhảy cóc về tứ, không liền mạch về thời
đó trình chiếu Sơ đồ 3 gian, không gian nhưng vẫn có sự nhất quán về cảm xúc,
khổ thơ cảnh từ thực ngày càng trở nên ảo, cảm xúc của tác giả
?, Nhìn trình chiếu: em từ say đắm đến phấp phỏng, rồi cuối cùng dừng lại ở
hãy sắp xếp thứ tự xuất hoài nghi. Đằng sau tình yêu, niềm tha thiết với cuộc
hiện các hình ảnh trong sống là những biểu hiện kín đáo mà đau thương, tuyệt
các khổ thơ vọng
2. Nhân vật trữ tình:
a. Cảm xúc của nhân vật trữ tình qua khổ 1 .
*.Câu thơ mở đầu : Khơi nguồn cho nỗi nhớ
Hình thức câu hỏi tu từ đa sắc thái nhiều thanh bằng
gợi âm hưởng nhẹ nhàng, bâng khuâng, da diết.
Ý nghĩa:
+ Lời của cô gái thôn Vĩ: Lời trách móc nhẹ nhàng cũng
là lời mời mọc chân thành tha thiết của người con gái
thôn Vĩ
+ Lời tự vấn của Hàn Mặc Tử : Lời tự vấn, tự hỏi mình
là ước ao thầm kín của nhà thơ .
+ Anh: sự phân thân của cái tôi Hàn Mặc Tử
?, Ấn tượng của các em Đặc trưng Thơ Điên ( CX đặc thù: đau thương;
khi đọc khổ thơ này NVTT: phân thân;Thế giới hình ảnh: hư thực,
( Nội dung của 4 câu mộng ảo, kì dị, ma quái; Mạch cx liên tưởng: đứt
thơ? bức tranh thôn Vĩ nối, nhảy cóc, bất định; lớp ngôn từ nổi bật: cực
được miêu tả qua những tả)
nét vẽ, từ ngữ, hình ảnh, Hỏi mà thực chất là dòng độc thoại, bộc bạch tâm
biện pháp tu từ nào? tình
Hoạt động nhóm: Thảo + Thôn Vĩ: địa chỉ tâm hồn, biểu tượng cho cuộc đời, cái
17
- luận nhóm: ( 3 nhóm) đẹp, tình yêu...
Nhóm 1: Nhận xét về khát khao về thôn Vĩ cũng là khát khao về với cuộc
hình thức và từ ngữ, đời
giọng thơ trong câu thơ + “Không về” hàm ý vĩnh viễn không thực hiện được >
đầu?Theo em câu thơ là Niềm xót xa day dứt, nuối tiếc, cũng là tiếng nói đầy
lời của ai, mang hàm mặc cảm bởi căn bệnh hiểm nghèo.
nghĩa gì? => Câu thơ đa thanh nhưng chiều sâu là tiếng lòng của
(? Để hiểu đúng hơn về Hàn Mặc Tử , là ước ao thầm kín, là niềm khát khao
sắc thái ý nghiã của câu được trở về thôn Vĩ, được thăm lại cảnh cũ, người xưa.
thơ, các em hãy nêu cảm
nhận về 2 cụm từ
“Thôn Vĩ và không về”
? Cả câu thơ bộc lộ cảm
xúc gì của Hàn Mặc
Tử?) *. 3 câu tiếp theo: Cảnh thôn Vĩ trong hoài niệm.
Nhóm 2: Tìm và phân
tích những chi tiết miêu
tả vườn thôn Vĩ?
Nhóm 3: Tìm và phân + Nắng hàng cau : sự hài hòa trong cách phối màu của
tích chi tiết miêu tả hình ánh nắng vàng rực rỡ trên nền cau xanh tươi > ánh nắng
ảnh con người? trong trẻo, mát lành.
Các nhóm thảo luận ~“Nắng mới lên” : ánh nắng ban mai tinh khôi, thanh
trong 3 phút ghi vào giấy khiết, trong trẻo, nguyên lành.
A0, đại diện lên trình Điệp từ “nắng” > làm bừng sáng không gian Vĩ Dạ
bày. Các nhóm nhận xét, Từ ngữ gợi hình gợi vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi. Cảnh
góp ý. Giáo viên kết đẹp, rất riêng nơi thôn Vĩ.
luận.
Bình: Mảnh vườn thôn
Vĩ trong hoài niệm hiện
len dưới nắng mai, cảnh
nghiêng về cõi thực. Tất
cả đều tươi sáng bình
dị, tinh khôi. Ấn tượng
đầu tiên về thôn Vĩ là
ánh nắng ban mai trên
những hàng cau. NVTT
về thôn Vĩ trước tiên là
để nhìn “ nắng hàng
18
- cau” hình ảnh này đã in
đậm trong kí ức của
người đi xa. Nói đến
“Nắng hàng cau” nhà
thơ chỉ gợi chứ không tả
nhưng vẫn có sức ám
ảnh lớn tới người đọc Tính từ “mướt” : màu xanh, mượt mà, óng ả, mỡ màng
bởi nó gián tiếp gợi lên + “Mướt quá” : cực tả vẻ non tơ tươi tốt, đầy sức sống
vẻ tinh khôi, thanh của khu vườn, vừa như một tiếng reo ngỡ ngàng ngạc
khiết, thanh thoát của nhiên say đắm
Nắng. + Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc”: màu xanh vừa có
Cau là thứ cây cao nhất màu vừa có ánh, đó là sắc xanh lung linh ngời sáng
trong vườn, cây đầu tiên + Đại từ “ai” phiếm chỉ > gợi cảm giác mơ hồ không
được nhận những tia xác định.
nắng ban mai nên rất + “Vườn ai” Vườn thôn Vĩ nửa gần, nửa xa > gợi nhớ
tinh khôi. Nắng trên lá nhung, ngậm ngùi, xa vắng
cau là nắng ướt, nắng
tươi, nắng long lanh nên
rất tinh khiết. Thân cau
lại chia thành những đốt
đều đặn khác nào như
một cây thước mà thiên
nhiên dựng sẵn trong
vườn để đo độ nắng…..
Điệp từ nắng: tạo cảm
giác ánh nắng cứ đầy
dần lên để cả khu vườn
thôn Vĩ ngập đầy trong
ánh nắng
Câu 3: xh dưới hình
thức câu hỏi Vườn Ai
theo mạch cx người đọc Hình ảnh con người : “Lá trúc…”
dễ dàng xác định được “ + Mặt chữ điền : đầy đặn, phúc hậu, ngay thẳng và
Vườn ai” là thuộc về cương trực.
thôn Vĩ. Viết về vườn + Lá trúc che ngang: Vẻ đẹp kín đáo dịu dàng, duyên
Vĩ Dạ trong hoài niệm dáng
mà người đọc hình dùng
HMT đang đưa người
19
- đọc trở về khu vườn
thôn Vĩ trong hiện tại => Cảnh trong sáng, người thuần hậu. Thiên nhiên và con
+Ai: gợi nỗi niềm bâng người hài hòa trong vẻ đẹp dịu dàng , thắm đượm tình
khuâng, gợi tình cảm quê, hồn quê.
thiết tha với cảnh và => Tình yêu và nỗi nhớ của Hàn Mặc Tử đối với cảnh và
người thôn Vĩ người xứ Huế.. Tâm trạng nhà thơ: khao khát, đắm say
+Vĩ Dạ còn mang vẻ trở về nhưng cũng đầy mặc cảm tuyệt vọng
đẹp riêng với: Khu vườn
tươi tốt, HMT như 1
đứa trẻ lạc vào khu
vườn rời rợi sắc xanh,
vừa đi vừa trầm trồ
khen ngợi
+Cành cây ngọn lá như
được gột rửa không còn Vĩ Dạ:
một chút bụi bặm. Khu + Địa danh cụ thể gắn với những kỷ niệm của thi
vườn thôn Vĩ không chỉ nhân
có màu xanh mà còn có
cả sắc xanh.
+ so sánh: xanh như
ngọc: xanh trong, màu
xanh đi liền với ánh sáng + Vĩ Dạ còn tượng trưng cho thế giới bên ngoài tươi
nhưng không chói chang đẹp. HMT thèm về thăm Vĩ Dạ là thèm khát về với cuộc
mà lại rất dịu, người đời, với hạnh phúc, tình yêu.
đọc có thể hình dung vẻ
đẹp của viên ngọc đính
giữa bầu trời xứ Huế
Câu 4: Khuôn mặt chữ
điền: câu thơ có nhiều
tranh cãi: khuôn mặt
người đàn ông, khuôn
mặt người con gái, b. Cảm xúc nhân vật trữ tình qua khổ 2:
khuôn mặt người thôn Gợi ý HS chuẩn bị ở nhà: Cảnh vật khổ 2 có mối liên hệ
Vĩ, khuôn mặt người trở gì với cảnh vật khổ 1 không? NVTT trong khổ 2 được
về thôn Vĩ. Dù hiểu theo thể hiện như thế nào?
ý nào thì khuôn mặt đều Cảnh vật hoàn toàn thay đổi:
gợi lên sự hiền lành, + vườn thôn Vĩ cảnh mây trời sông nước
phúc hậu hơn thế nữa + Cảnh ấm áp, tươi sáng chia lìa, buồn
20
nguon tai.lieu . vn