Xem mẫu
I. Phần mở đầu :
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm :
1.1. Tính lịch sử của vấn đề nghiên cứu :
Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập Tiếng Việt, chữ viết
với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa
học. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn khác khi có kiến thức Tiếng
Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao
đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Hơn nữa, con người muốn tư duy phải có ngôn
ngữ. Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng “bụng bảo dạ”
cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà
chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra
ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tuởng của chúng ta thành
những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện
thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy và nếu
trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt.
Môn Tiếng Việt trong trường tiểu học không thể là bản sao từ chương trình khoa
học Tiếng Việt vì trường có nhiệm vụ riêng của mình. Nhưng với tư cách là một
môn học độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ
thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng
biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của ngôn ngữ). Đồng thời, kiến thức
môn Tiếng Việt hình thành cho HS kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra,
Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà
các môn học khác không có được, đó là: trang bị cho HS một số công cụ để tiếp
nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường, là công cụ để học các
môn học khác; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu
1
của quá trình học tập. Bên cạnh chức năng giao tiếp, tư duy ngôn ngữ còn có chức
năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ, ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên cái đẹp,
hình tượng nghệ thuật. Trong văn học, HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ.
Vì thế ở trường tiểu học, Tiếng Việt và văn học được tích hợp với nhau, văn học
giúp HS có thẩm mĩ lành mạnh, nhận thức đúng đắn, có tình cảm thái độ hành vi
của con người Việt Nam hiện đại, có khả năng hòa nhập và phát triển cộng đồng
nên hiểu được các văn bản văn học hoặc hiểu được ngôn ngữ trong giao tiếp thì
HS cần phải hiểu được nghĩa của từ và các lớp nghĩa của từ.
1.2. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu :
Từ có vai trò rất quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Con người muốn tư
duy phải có ngôn ngữ. Không có vốn từ đầy đủ, con người không thể sử dụng
ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Việc dạy từ ngữ ở tiểu học sẽ tạo cho
học sinh có năng lực từ ngữ, giúp cho học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, có phương
tiện giao tiếp để phát triển toàn diện. Vốn từ của học sinh càng giàu bao nhiêu thì
khả năng sử dụng từ càng lớn, càng chính xác, hoạt động giao tiếp sẽ thể hiện rõ
ràng và nhạy bén hơn.
Với mục tiêu được quy định thì môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan
trọng, giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng lực sử dụng
tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh được
chú trọng dạy từ, trong đó dạy giải nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ
nghĩa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
2. Mục đích nghiên cứu :
Sáng kiến kinh nghiệm này nhằm mục đích tìm ra biện pháp tốt nhất để
triển khai có hiệu quả các tiết dạy phân môn Tiếng việt cho học sinh lớp 5 theo
chương trình hiện hành.
Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
2
+ Nội dung:
Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho
học sinh lớp 5.
+ Phạm vi:
Môn Tiếng Việt lớp 5 (về nội dung chương trình, phương pháp dạy học và
tâm lí của học sinh tiểu học).
3. Thời gian và địa điểm :
Từ tháng 8/2013 đến tháng 3/2014.
Học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Quyết Thắng.
4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn :
Trong các tiết học, giáo viên muốn phát huy được tính tích cực của học sinh,
cho các em phát hiện từ khó nhưng chưa cho học sinh hiểu nghĩa từ bằng cách diễn
đạt dễ hiểu, gây ấn tượng để các em nhớ lâu, Khi tìm hiểu nghĩa của từ có giá trị
nghệ thuật trong văn bản tập đọc không có định hướng rõ ràng, cụ thể học sinh lan
man, không có trọng tâm. Hoặc một số giáo viên khi dạy khái niệm các lớp từ có
quan hệ ngữ nghĩa giáo viên hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều
nghĩa, từ đồng âm chưa rõ ràng, cụ thể khiến nhiều em còn lúng túng khi được hỏi
đến....Tất cả những thực tế trên đều làm giảm hiệu quả của tiết dạy Tiếng việt ở
lớp 5 hiện nay.
3
II. Phần nội dung :
1. Chương 1. Tổng quan.
1.1. Cơ sở ly luận :
Ngôn ngữ văn học còn là biểu hiện bậc cao của nghệ thuật ngôn từ nên khi
dạy văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ tối ưu cho người học. Dạy Tiếng
Việt là đưa các em hoà nhập vào một môi trường sống của thời kì hội nhập. Còn
hiểu sâu sắc về Tiếng Việt là tác động đến kĩ năng cảm thụ thơ văn của HS. Kết
hợp giữa dạy văn và dạy tiếng sẽ tạo được hiệu quả cao giữa hai môn văn Tiếng
Việt để HS lớn lên trở thành những con người hiện đại, được giáo dục toàn diện.
Về bản chất giáo dục là sự chuyển giao các giá trị văn hoá đông tây, kim cổ, một
sự giao tiếp mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha mẹ, thầy cô là sách báo các
loại. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói (trước hết là tiếng mẹ đẻ) có ý
nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói
viết không chính xác, không thể hiện được ý mình cho suôn sẻ, thì không thể nào
khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người thầy, từ sách vở được. Bởi vậy,
trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo về mặt
4
ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thành công trong thực
hiện sứ mệnh trong đại của mình.
Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình
ảnh và hiện tượng cụ thể. Trong khi đó kiến thức về nghĩa của từ và các lớp từ có
quan hệ về ngữ nghĩa có tính trừu tượng và khái quát cao. Do vậy, các em thường
không thích học, ngại suy nghĩ dẫn đến tiết học kém hiệu quả, học sinh nắm kiến
thức hời hợt. Mặt khác, học sinh lớp 5 được tiếp xúc với những từ mới có những
bước nhảy vọt về kiến thức nên các em thường có hiện tượng lười học, sợ giải
nghĩa từ, sợ học các bài về các lớp từ. Chính vì lẽ đó, người giáo viên là người dạy
phải biết khơi dậy niềm say mê học, óc tư duy, sáng tạo của mỗi học sinh. Làm
thế nào để đạt được điều đó?
Do đặc điểm của môn học và đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 5 mau nhớ
nhưng lại nhanh quên, không thích những hoạt động kéo dài, thích những hình ảnh
trực quan sinh động..., người giáo viên cần lựa chọn phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp để học sinh nào cũng
nắm chắc kiến thức về từ, củng cố tri thức mới, rèn luyện các kỹ năng cơ sở, phát
triển tư duy, ngôn ngữ... giúp học sinh tự tin hơn khi giao tiếp.
1. 2. Cơ sở thực tiễn :
Chương trình các môn học ở trường tiểu học hiện nay đã được sắp xếp
một cách khoa học hệ thống song đối với học sinh tiểu học là bậc học nền tảng,
đến trường là một bước ngoặt lớn của các em trong đó hoạt động học là hoạt động
chủ đạo, kiến thức các môn học về tự nhiên và xã hội chưa được bao nhiêu, vốn
từ sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư tưởng, tình cảm của mình
còn quá ít. Mặc dù vấn đề nghĩa của từ, các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa và việc
dạy vấn đề này ở trường tiểu học không gây nhiều tranh cãi như việc dạy nội
dung cấu tạo từ nhưng đây lại là công việc không mấy dễ dàng bởi vì nghĩa của từ
là một vấn đề phức tạp, trừu tượng, khó nắm bắt trong khi đó tư duy của học sinh 5
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn