Xem mẫu

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập­ Tự do­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KỶ THUẬT Đề tài: “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4­5  tuổi tại trường mầm non”
  2. Quảng Bình, tháng 05 năm 2020
  3. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập­ Tự do­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KỶ THUẬT Đề tài: “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4­5  tuổi tại trường mầm non”                       Họ và tên:  Đỗ Thị Phương Nhi                       Chức vụ:  Giáo viên                       Đơn vị:   Trường Mầm Non Phú Thủy                                   
  4. Quảng Bình, tháng 05 năm 2020
  5.   PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến, giải pháp: Trẻ  em Mầm non là tương lai của đất nước, là niềm hạnh phúc của mỗi gia  đình.Việc chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự  nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này.   Trong những năm gần đây, giáo dục luôn không ngừng đổi mới về  hình thức, nội  dung và phương pháp tổ chức dạy học cho trẻ. Đặc biệt giáo dục kỹ năng sống cho  trẻ mầm non là một nội dung và nhiệm vụ quan trọng của cấp học mầm non, bởi vì   lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách, nhân cách. Trẻ có kiến   thức về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp với ông bà, bố mẹ như thế  nào, biết cách bảo vệ  mình trước người lạ  ra sao, biết cách phối hợp với các bạn  chơi như  thế  nào cho đúng. Ngay  ở  lứa tuổi mầm non trẻ  đã bắt đầu nhận thức  được thế nào là đúng, thế nào là sai, điều gì cần làm và điều gì không được làm…
  6. Giáo dục kỹ  năng sống cho trẻ  là giúp trẻ  biết cách chăm sóc và bảo vệ  bản thân   mình, tạo sự  tự  tin cho trẻ  giúp trẻ  thích nghi được với môi trường xung quanh,   không những thế  còn giúp cho trẻ  biết cách giao tiếp và  ứng xử  trong cuộc sống  hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm. Để giúp trẻ có kỹ năng sống không có nghĩa là phải dạy trẻ những gì cao siêu  vượt quá tầm hiểu biết của trẻ, mà chúng ta giúp trẻ trải nghiệm những hoạt động  hàng ngày của một xã hội thu nhỏ  như: Làm việc, sinh hoạt, vận động, giao tiếp  trong cuộc sống, xoay quanh bản thân, gia đình và môi trường xã hội, những người   lạ không quen biết. Để giúp trẻ sống hài hòa, thích nghi và thoải mái trong đời sống   xã hội, biết cách đối phó với những tình huống bất thường phát sinh hay không bị  mất bình tĩnh trước những nguy cơ  đột ngột.. trẻ  cần được học và rèn luyện ngay  từ  nhỏ, từ  những bản năng tự  nhiên như  việc học ăn, học nói, học đi, đứng, ngủ  nghỉ… đến việc học để có kiến thức và nhận thức về bản chất của cuộc sống, tôn  trọng môi trường sống, môi trường thiên nhiên xung quanh ta, và giao tiếp, ứng xử  trung thực, khôn ngoan, lịch sự với mọi người. Giáo dục kỹ  năng sống trên thực tế  lớp của tôi trẻ  chưa được mạnh dạn tự  tin, khả năng tự  phục vụ kém, trong khi tham gia các hoạt động trẻ  chưa đoàn kết,   hợp tác trong khi học và chơi. Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4­   5 tuổi có hiệu quả và giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất về mọi mặt, đó là   câu hỏi luôn đặt ra cho tôi. Từ những trăn trở suy nghĩ trên tôi đã mạnh dạn chọn đề  tài: “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4­5 tuổi tại trường mầm   non” để nghiên cứu. 1.2. Điểm mới của đề tài: Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống  đối với trẻ, tôi  thấy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa.  Nhưng biết làm thể nào để  trẻ  có được các kỹ  năng sống một cách tốt nhất, tôi đã  nghiên cứu và tìm ra những điểm mới riêng biệt khi áp dụng đề tài giáo dục kỹ năng  sống cho trẻ như sau:
  7. ­ Trẻ tiếp cận từ kỹ năng đơn giản, dễ thực hiện nhất về bản thân mình sau đó mới  đến kỹ năng khó dần như: bước đầu tôi sẽ  dạy trẻ  học kỹ  năng lễ  giáo, biết thưa   tên, tuổi của bản thân, biết đứng ngồi lịch sự, biết yêu quý người thân, biết đi thưa  về trình, không nói trống không, không nói leo, biết xưng hô thân mật.  ­ Trẻ  biết được những việc nên làm và những việc không nên làm, biết chủ  động xử  lý các tình huống hay gặp giúp trẻ  chủ  động, mạnh dạn, tự  tin hơn, giúp  trẻ có kinh nghiệm sống, khơi dậy khả năng tư duy sáng tạo của tre. 1. 3. Phạm vi áp dụng của đề tài:  Việc rèn luyện kỹ  năng sống cho trẻ  thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và  ở  lĩnh vực nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tôi là một giáo viên  đang dạy lớp 4­5 tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế  mạnh của trẻ  trong độ  tuổi. Vì thế phạm vi đề tài của tôi áp dụng cho trẻ 4­5 tuổi ở trường mầm non. 2. NỘI DUNG. 2.1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu.  Năm học 2019­ 2020 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mẫu giáo   nhỡ. Trong quá trình thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi nhận thấy có một   số thuận lợi và khó khăn sau. * Thuận lợi: Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên tổ  chức các buổi bồi dưỡng chuyên  môn cho giáo viên về giáo dục kỹ năng sống  để giáo viên trao đổi kinh nghiệm với  nhau. Tạo điều kiện cho đội ngủ  giáo viên được giao lưu sinh hoạt chuyên môn  cụm để  học hỏi và trao đổi kinh nghiệm. Phát tài liệu, tập sách để  giáo viên tham  khảo. Bản thân tôi có trình độ  trên chuẩn, tác phong nhanh nhẹn, có tinh thần trách  nhiệm nhiệt tình trong mọi phong trào, đã nhiều năm phụ  trách lớp mẫu giáo nhỡ  nên có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động dạy trẻ. Trẻ đi học đều, tích cực tham gia các hoạt động.
  8. Phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, trao đổi với giáo viên cách để  dạy trẻ  tốt   hơn. Trương hoc n ̀ ̣ ơi tôi công tac la ngôi tr ́ ̀ ương đ ̀ ược xây khang trang sạch sẽ nên   ̣ ợi trong viêc th thuân l ̣ ực hiên nôi dung xây d ̣ ̣ ựng môi trương giao duc sach đep, an ̀ ́ ̣ ̣ ̣   ̉ toan cho tre.  ̀ *  Khó khăn: Việc lựa chọn các kỹ năng đưa vào từng chủ đề dạy trẻ còn chưa khoa học. Một số trẻ được bố mẹ nuông chiều, thường làm hộ trẻ mọi việc nên rất khó  khăn trong việc giáo dục kỷ năng sống cho trẻ. Một số  trẻ  hiếu động, chưa biết đoàn kết khi chơi với bạn, chưa chú ý và  chưa nghe theo lời hướng dẫn của cô giáo. Một số phụ huynh chưa hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng   sống cho trẻ, còn sợ khó khăn cho trẻ nên không muốn để trẻ tự phục vụ. 2.1.2. Nguyên nhân của thực trạng trên: Giao viên ch ́ ưa hiêu nhiêu vê n ̉ ̀ ̀ ội dung phai day tre l ̉ ̣ ̉ ưa tuôi mâm non nh ́ ̉ ̀ ững kỹ  ́ ơ ban nao, ch năng sông c ̉ ̀ ưa biêt vân dung t ́ ̣ ̣ ừ nhưng kê hoach đinh h ̃ ́ ̣ ̣ ướng chung để  rèn luyện kỹ năng sống cho tre mâm non. ̉ ̀   Trẻ chưa thật sự chủ động thực hiện các kỹ năng. Trẻ  được bố  mẹ  cưng chiều và làm giúp trẻ  tất cả  mọi việc nên trẻ  không có kỹ  năng thực hiện bất kỳ kỹ năng tự phục vụ nào. Phụ huynh sợ con mình làm sẽ vụng về, đỗ vợ, hoặc không sạch như: rửa mặt, rửa   tay…. Một số phụ huynh nghỉ trẻ còn nhỏ, không thể làm những việc đó được. 2.1.3. Điều tra thực tiễn: Kết quả khảo sát thực tế : Khi chưa thực hiện đề tài kết quả như sau:  STT Các   mặt  Tổng số trẻ: 34 Số trẻ đạt Số trẻ chưa đạt
  9. Số trẻ Tỉ lệ % Số trẻ Tỉ lệ % phát triển 1 Kỹ năng tự phục vụ 12 35.2% 22 64.7% 2 Kỹ năng tự bảo vệ 13 29.4% 21 61,7% 3 Kỹ năng hợp tác 14 41.1% 20 58,8% 4 Kỹ năng giao tiếp­ ứng xử 10 29.5% 24 70,5% 5 Kỹ năng tự tin 15 44.1% 19 55,8%  2.2. CÁC GIẢI PHÁP.  2.2.1 Xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng và đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống  phù hợp để day tre ̣ ̉.               Là một giáo viên được nhà trường phân công giảng dạy lớp 4­5 tuổi, nhằm thực  hiện tốt nhiệm vụ được giao, tôi không ngừng tự học tự bồi dưỡng bản thân để nâng cao   trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, tôi đi   sâu vào nghiên cứu những kỹ  năng sống cơ  bản dạy trẻ   4­5 tuổi  ở  trường mầm non,   nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 4­5 tuổi bằng nhiều hình thức như  tự  học qua   sách báo, tập san, tạp chí, học hỏi bạn bè đồng nghiệp, khai thác qua Internet…Thực tế  cho thấy, việc xác định các kỹ  năng cơ  bản phù hợp với lứa tuổi sẽ  giúp giáo viên lựa  chọn đúng nội dung trọng tâm để dạy trẻ. Để có thể thực hiện tốt các mục tiêu giáo dục   đã đề ra thì trước tiên mỗi giáo viên phải trang bị cho mình hệ thống kiến thức phong phú   chính xác, và trải nghiệm các kỹ năng giáo dục thực tế.  Thông qua việc tự học tự bồi dưỡng tôi hiểu rằng: Để dạy trẻ các kỹ năng thì phải   luôn luôn lắng nghe và thấu hiểu trẻ, giáo viên cần:    Tạo cơ hội cho trẻ chia sẻ đồ chơi hay món ăn mà trẻ ưa thích với bạn bè.  Lắng nghe  trẻ, giúp chúng bày tỏ thái độ. Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề.   Trong thực tế  có rất nhiều kỹ  năng sống khác nhau, khó có thể  liệt kê một  cách đầy đủ  những kỹ  năng con người cần có trong cuộc sống. Chính vì vậy vào  đầu năm học tôi cùng các đồng chí giáo viên trong lớp lên kế hoạch lựa chọn các kỹ  năng sống  phù hợp với lứa tuổi mẫu giáo nhỡ  4­5 tuổi để  đưa vào dạy trẻ  nhằm   đạt hiệu quả cao.
  10.   Các kỹ năng tôi lựa chọn để đưa vào dạy trẻ trong giờ học và lồng ghép vào  các giờ học khác như sau:  Dạy trẻ kỷ năng: Tự rửa tay trước và sau khi ăn. Tự lấy cất đồ dùng đồ chơi sau khi chơi. Đánh răng vào buổi sáng và buổi tối sau khi ăn. Tự lựa chọn quần áo và cách gấp quần áo. Nói với người lớn khi bị mệt, bị đau ốm. Ăn quả xong biết bỏ vỏ vào thùng rác. Lựa chọn trang phục khi đi chơi tết. Cách đội mũ bảo hiểm đảm bảo an toàn.. Đội mũ, mặc trang phục phù hợp khi đi nắng. Các kỷ năng này tôi đã đưa vào từng chủ đề cụ thể trong chương trình để giáo dục   kỷ năng sống cho trẻ.  2.2.2. Lồng ghép các kỹ năng sống vào trong các hoạt động hằng ngày của trẻ. * Kỹ năng sống tự tin:         Sự  tự  tin sẽ  giúp trẻ  dám nỗ  lực, không ngại thử  thách, trẻ  tự  tin se co kha ̃ ́ ̉  ̣ ̣ ̣ ̃ ̣ ́ ̀ ̃ ̀ năng sông đôc lâp, hoa nhâp xa hôi tôt va dê thanh công h ́ ̀ ơn trong cuôc sông.  ̣ ́ Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống tự tin cho trẻ  mẫu giáo nhỡ 4 – 5  tuổi? Đó quả là một vấn đề không phải đơn giản, vì trên thực  trẻ lớp tôi phụ trách  đa phần là con em có cha mẹ làm nghề tự do nhiều nên sự hiểu biết về cách dạy kỹ  năng sống tự  tin cho con còn nhiều phụ  huynh chưa hiểu rõ hết. Những ngày đầu   đến lớp nhiều trẻ  còn hay khóc, rất ít nói, trong giờ  học khi được cô giáo gọi lên  trả lời câu hỏi trẻ không đứng lên trả  lời mà trẻ  còn khóc. Nắm bắt được điều đó  nên vào đầu năm học khi phân tổ  tôi thường phân những trẻ  nhút nhát ngồi gần   những trẻ  mạnh dạn để  giúp trẻ  có thể  giao lưu, trò chuyện giúp trẻ  mạnh dạn   hơn. Đối với những trẻ nhút nhát trong giờ học tôi thường quan tâm, gọi trẻ trả lời  nhiều hơn, khen, động viên khích lệ trẻ kịp thời để giúp trẻ tự tin với bản thân hơn. 
  11. Ví dụ: Trong lớp tôi có bạn Đ. Khoa, N. Nam… mỗi sáng bố  mẹ đưa đến lớp, trẻ  không chịu vào lớp với cô mà cứ đòi về. Đối với những trẻ đó tôi và giáo viên trong  lớp vào các buổi chiều trước khi trẻ trả, chúng tôi thường trò chuyện gần gũi, động  viên khuyến khích trẻ bằng các hình thức như: Hôm nay cô thấy con học bài rất giỏi, trong lớp con ngồi học rất ngoan nhưng   cô muốn ngày mai con đi học con sẽ không khóc nhè nữa nhé. Như vậy thì cô và các   bạn sẽ yêu con hơn đấy! Bằng những câu động viên, gần gũi của cô giáo dần dần  sẽ giúp trẻ tự tin hơn, thích đến lớp hơn.          Ngoài ra vào các thời điểm trong ngày khi tổ  chức cho trẻ  tham gia vào hoạt   động lao động vào chiều thứ 6 hàng tuần, tôi phân công cho từng nhóm, mỗi nhóm  sẽ  phụ trách lau dọn một góc. Trước khi vào phân công tôi giao nhiệm vụ  cho trẻ,  hôm nay cô và các con sẽ cùng lau dọn giá đồ chơi của lớp mình cho thật sạch sau   đó các con sẽ giúp cô sắp xếp đồ dùng đồ chơi lên giá cho thật gọn gàng, các nhóm   sẽ cùng thi đua xem nhóm nào làm nhanh, sạch và sắp xếp gọn gàng nhất nhé. Với   trẻ nhút nhát, tôi nhắc nhở bằng cách: Hôm nay bạn Đ.Khoa bạn Nhật Nam sẽ cùng  các bạn  ở nhóm mình giúp cô lau dọn đồ  dùng đồ  chơi nhé, cô thấy hôm trước các  bạn này làm rất tốt, hôm nay các con sẽ cố gắng hơn nữa nhé. Với những hình thức giáo dục cho trẻ  như  vậy tôi thấy trẻ  lớp tôi đã có sự  tiến bộ rõ rệt, hầu hết trẻ đã mạnh dạn, tự tin, và tích cực tham gia phát biểu trong   giờ học, tích cực tham gia các hoạt động của lớp, những trẻ nhút nhát đã tự tin hơn   khi đứng trước lớp biểu diễn văn nghệ hoặc mạnh dạn hơn trong việc đưa ra các ý   kiến cá nhân của mình. Có thể nói việc rèn kỹ năng sống tự tin giúp trẻ luôn vui vẻ,   linh hoạt, tạo nền tảng cho cuộc sống vững vàng cho trẻ sau này. * Kỹ năng hợp tác:   Ở độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm, trẻ sẵn sàng chia sẻ  với bạn những suy nghĩ của mình, biết hợp tác với nhau để xây dựng một công trình  (Khi chơi ở góc xây dựng), biết hợp tác với nhau để tạo ra một bức tranh ( Khi chơi   góc tạo hình…). Nói tóm lại hợp tác là khi mọi người biết làm việc chung với nhau  và cùng hướng về  một mục tiêu chung. Tuy nhiên trẻ vẫn làm việc theo nhóm với  
  12. cách hiểu đơn giản là gộp bạn lại chứ chưa có sự gắn kết. Vì vậy cô giáo phải cần  tổ  chức thường xuyên và đa dạng hóa các hoạt động theo nhóm để  trẻ  biết tạo ra  tinh thần đồng đội, tạo niềm vui với kết quả đạt được. Để  làm được điều này, tôi thường tổ  chức cho trẻ  chơi các trò chơi theo   nhóm, trò chơi dân gian, trò chơi vận động: kéo co, rồng rắn lên mây, chèo thuyền  bắt cua…các trò chơi có luật tiếp sức để trẻ thể hiện rõ tinh thần đồng đội  giúp đỡ  nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra trong giờ hoạt động góc, nhất là góc phân vai,  góc xây dựng và góc  tạo hình trẻ  cũng thể  hiện rõ và tinh thần hợp tác với bạn để  xây dựng một công  trình, tạo ra một sản phẩm Biết phân công vai chơi, biết cùng nhau làm việc để tạo  nên một công trình, một sản phẩm. Ví dụ: Khi chơi góc xây dựng “Vườn hoa mùa xuân” , trẻ  biết phân công  bạn nào  làm kỹ sư trưởng, bạn nào xây hàng rào, bạn nào xây bồn hoa và ai là người trồng  hoa… Xây dựng xong hàng rào trẻ biết ra giúp đỡ  các bạn khác để  cùng nhau hoàn  thành tốt công trình xây dựng của nhóm mình. Ví dụ: Góc chơi gia đình: Trẻ biết phân công bạn nào đóng vai bố, bạn nào đóng vai  mẹ, ai đóng vai các con…. Để giúp trẻ có kỹ năng hợp tác được tốt thì giáo viên cần phải tổ chức những   hoạt động này một cách thường xuyên, giáo dục trẻ  biết giúp đỡ  nhau trong công   việc, hình thành cho trẻ một đức tính tốt về tinh thần đồng đội, tạo cho trẻ một lý   tưởng sống cao đẹp trong tương lai. * Kỹ năng tự phục vụ: + Kỹ năng tự xúc ăn: Trẻ  ở độ  tuổi này có khả  năng tự  xúc ăn, tuy nhiên có nhiều  trẻ khi ăn xúc cơm còn rơi vãi, có những trẻ không tự xúc mà chỉ đợi cô xúc cho thì   mới ăn. Chính vì vậy trước khi vào giờ  ăn tôi thường kể  cho trẻ  nghe một số  câu  chuyện do tôi sưu tầm có nội dung liên quan đến việc tự xúc cơm ăn, sau đó gợi hỏi  trẻ: Bạn nhỏ  trong câu chuyện có ngoan không? Vì sao lại chưa ngoan? Sau đó cô  giáo dục trẻ: các con lớn rồi phải tự  xúc ăn thì mới ngoan, nếu bạn nào không tự  xúc cơm ăn thì các em lớp bé sẽ cười chúng mình đấy!
  13. + Kỹ năng tự mặc áo, cởi áo, gấp quần áo: Hàng ngày, nhất là vào mùa đông, trẻ thường mặc nhiều áo đi lớp, trước khi   đi ngủ trẻ phải cởi bớt áo ra, trẻ thường để quần áo lộn xộn dẫn đến việc giáo viên  mất rất nhiều thời gian để  gấp quần áo cho trẻ. Chính vì vậy vào giờ  hoạt động   góc, hoạt động chiều tôi đã dạy cho trẻ kỹ năng gấp quần, áo, cách cởi áo, mặc áo.  Để việc dạy trẻ có hiệu quả, ở góc kỹ năng tôi làm một số bộ sách về kỹ năng cho   trẻ được tập luyện: Tập cài cúc áo, cởi cúc áo, mặc áo, gấp áo, kéo khóa…để từ đó   trẻ có thể ứng dụng vào thực tế đạt hiệu quả cao. *Kỹ năng tự bảo vệ:         Trên thực tê, trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ 4­5 tuổi hầu hết trẻ chưa phân biệt  được những gì là nguy hiểm hay không nguy hiểm đối với  mình. Chính vì vậy nên  việc giúp trẻ  phân biệt những mối nguy hiểm luôn được tôi quan tâm, lồng ghép   vào để  giáo dục trẻ  qua những câu chuyện, qua hoạt  động học, qua tranh  ảnh,   video…Để việc giáo dục trẻ kỹ năng tự bảo vệ được tốt, tôi đã lựa chọn ra những   mối nguy hiểm thường xaỷ ra trong cuốc sống hàng ngày đối với trẻ để  lồng ghép   vào các thời điểm trong ngày cho thích hợp. Cụ thể: Các mối nguy hiểm trong gia đình, trường học:  Ổ  điện, quạt điện, bếp ga,   phích nước nóng, bàn là…tôi sẽ lồng vào hoạt động khám phá để  dạy trẻ. Tôi cho   trẻ kể  tên về những đồ  dùng trong gia đình nhà mình, sau đó cho trẻ  xem tranh về  những đồ dùng đó, hỏi trẻ xem những đồ dùng này các con có được sử dụng không?  Vì sao? Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: bắt cóc, lạc đường, những nơi nguy hiểm   gần ao hồ, cột điện, nơi công trường đang thi công…với những mối nguy hiểm này  tôi sẽ  truyền đạt cho trẻ  bằng các câu hỏi tình huống, cho trẻ  xem những đoạn  video…cô và trẻ cùng nhau thảo luận đẻ trẻ hiểu được đó là những mối nguy hiểm  mà cần phái tránh xa. Ví dụ: Tôi sẽ  đưa ra tình huống như: Nếu có người lạ  cho con ăn kẹo thì con làm  như thế nào? Cho trẻ suy nghĩ, cho trẻ đưa ra ý kiến của mình, gợi mở cho trẻ bằng  các câu hỏi.
  14. Ở  tình huống này, với lứa tuổi của trẻ  mẫu giáo trẻ  rất thích khi được cho  quà và sẽ không biết tại sao không được nhận. Khi trẻ thảo luận, tôi đưa ra những giả thiết, những tình huống xấu “Nếu đó   là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho bé”. Tôi phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ  có phương án giải quyết đó là:          +  Không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể bị người xấu bắt cóc. Tôi sẽ  dạy trẻ  nói “ Cháu cám  ơn, nhưng bố  mẹ  cháu không cho nhận quà  của người lạ”. * Kỹ năng giao tiếp ứng xử. Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội mà hàng ngày trẻ được tiếp   xúc, là nơi đa văn hóa, đa tính cách và cũng là nơi đa sở thích. Chính vì vậy cô có thể  dạy trẻ  tìm hiểu, khám phá những sở  thích của chính bản thân, quan tâm đến bạn   bè. Trê trong lớp tôi mỗi trẻ lại có tính cách khác nhau, có những trẻ hoạt bát nhanh  nhẹn, hiếu động, có trẻ  chậm chạp, thụ  động hoặc nóng nảy. Chính vì vậy tôi đã  tìm hiểu tính cách của từng trẻ trong lớp để thuận tiện cho việc dạy và rèn kỹ năng  giao tiếp cho trẻ. Việc rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ thường thể hiện rõ nhất ở giờ  hoạt động góc và nhất là góc chơi phân vai, vì  ở  góc chơi phân vai trẻ  được chơi   đóng vai các nhận vật như: vai bố, mẹ, con người bán hàng, cô cấp dưỡng…mà  những vai đó cần thể  hiện bằng lời nói.  Ví dụ: Khi cho trẻ  chơi trò chơi “ Bán  hàng” người bán hàng khi thấy có khách đến mua thì phải niềm nở, dùng ngôn ngữ  của mình để  trả  lời khách, dùng ngôn ngữ  của mình để  mời chào khách, còn trẻ  đóng vai người mua hàng sẽ phải về giá cả các mặt hàng như thế nào? Hoặc khi chơi trò chơi “ Phòng khám đa khoa”, trẻ  đóng vai bác sĩ khi khám cho   bệnh nhân biết hỏi xem bệnh nhân bị làm sao? Bị đau ở đâu?, sau đó biết dùng ngôn  ngữ  của mình để  căn dặn bệnh nhân phải uống thuốc, phải ăn uống và nghỉ  ngơi  như thế nào?...Tùy vào từng chủ đề mà tôi lựa chọn các trò chơi   khác nhau để giúp  phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ giao lưu với bạ được tốt hơn. ­ Kỹ năng giao tiếp với người lớn và mọi người xung quanh trẻ:
  15. Đối với người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép , dạy trẻ nói đủ câu,  không nói trống không. Để  trẻ  có thói quen nói đủ  câu, không nói trống không thì  giáo viên phải quan sát, uốn nắn trẻ  thường xuyên, khi thấy trẻ  nói   chưa đủ  câu  cần sửa cho trẻ ngay. Vào các thời điểm đón trẻ, qua giờ học, giờ chơi tôi trao đổi  với giáo viên trong lớp cùng kết hợp sửa cho trẻ. . Với những hình thức như vậy dần dần trẻ lớp tôi đã biết thưa gửi, nói năng  lễ phép với cô giáo, với người lớn và mọi người xung quanh. 2.2.3. Đưa giáo dục kỹ  năng sống thông qua giờ  học cụ  thể  và lồng ghép vào   các môn học khác: Trước đây giáo dục kỷ năng sống cho trẻ  không đưa vào giờ  học cụ  thể  mà  chỉ  lồng ghép vào các hoạt động trong ngày để  dạy trẻ, nhưng đến nay việc giáo   dục kỷ năng sống tôi đã đưa vào giờ học cụ thể để dạy cho trẻ các kỷ năng như kỷ  năng giao tiếp, kỷ năng tự tin, kỷ năng tự bảo vệ, kỷ năng tự phục vụ…. Với giờ học giáo dục kỷ năng sống khi xây dựng giáo viên phải xác định được mục  tiêu bài học dạy kỷ năng gì? Trẻ đạt được kỷ năng gì? Ví dụ: Dạy kỹ năng gấp quần áo cho trẻ. Trước khi vào bài học tôi chuẩn bị những đồ dùng phục vụ cho giờ học. ­ Quay video bạn nhỏ đang gấp quần áo. Quần áo đủ cho tất cả trẻ thực hành Khi vào học phải gây được sự hứng thú cho trẻ. * Ổn định, gây hứng thú. ­ Cô mở video bạn nhỏ đang gấp quần áo cho trẻ xem. ­ Bạn nhỏ vừa rồi đang làm gì đấy các con? Các con thấy bạn nhỏ vừa rồi gấp quần  áo như thế nào? Có đẹp không? ­ Bây giờ các con hãy chú ý nhìn xem cô hướng dẫn cách gấp quần áo nhé! + Cô hướng dẫn trẻ gấp áo: ­ Cô đưa áo ra hỏi trẻ: Đây là cái gì? ­ Có mấy tay áo? ­ Đây là phần gì của áo? Thân áo có thân trước và thân sau.
  16. ­ Để  gấp được những bộ  quần áo gọn gàng và không bị  nhăn, bây giờ  các con hãy   chú ý nghe cô hướng dẫn nhé! ­ Đầu tiên phải rủ quần áo cho phẳng, tiếp theo trải áo ra, lấy tay vuốt áo cho thật   phẳng, rồi nhẹ nhàng gấp tay áo bên phải vào trong thân áo, sau đó gấp tiếp tay áo  bên trái vào trong thân áo. Cầm 2 bên gấu áo gấp lên trên làm sao cho gấu áo bằng  với tay áo, cuối cùng gấp đôi thêm một lần nữa. + Cô hướng dẫn cách gấp quần: ­ Cô giới thiệu các bộ phận của quần (Cạp quần, ống quần, gấu quần, đụng quần). Cũng hướng dẩn cách gấp như gấp áo. * Trẻ thực hành. ­ Cô cho 2 bạn lên gấp giúp cô (Một bạn gấp áo, 1 bạn gấp quần) ­ Gợi ý, khen ngợi, động viên trẻ. ­ Bây giờ các con có muốn được gấp quần áo như các bạn không? ­ Hôm nay cô đã chuẩn bị rất nhiều quần áo cho các con rồi đấy, cô mời các con lên   chọn cho mình món đồ  mà mình thích nhất nào! (Cho trẻ  tự  lấy món đồ  mà mình  thích nhất) ­ Trong quá trình trẻ gấp, cô gợi ý, động viên trẻ thực hiện.  ­ Các con thấy gấp quần áo có dễ không? Cô thấy là lớp mình đã gấp rất là đẹp và  gọn gàng rồi đấy.  Sau khi gấp quần áo thì các con thấy như thế nào? ­ Các con có thấy mình đã lớn hơn không? * Giáo dục:   Qua giờ  học hôm nay về  nhà các con nhớ  giúp bố  mẹ  gấp quần áo  như thế này cho gọn gàng nhé!  Với giờ  học như  thế  sẽ  giúp trẻ  biết được kỷ  năng tự  phục vụ  để  phục vụ  bản  thân và biết giúp đỡ bố mẹ sắp xếp những đồ dùng trong gia đình gọn gàng. Ngoài giáo dục kỷ năng sống đã đưa vào giờ học cụ thể, không những thế tôi  còn đưa vào lồng ghép với các hoạt động học khác như: * Hoạt động học làm quen với văn học: 
  17. Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là rất thích nghe kể  chuyện,  nội dung các câu chuyện thường để lại ấn tượng cho trẻ khó phai mờ. Tùy từng nội   dung câu chuyện mà tôi đưa nội dung kỹ năng sống vào để dạy trẻ sao cho, phù hợp  với trẻ lớp mình. Ví dụ: Qua câu chuyện “ Cáo, thỏ và gà trống”, tôi dạy trẻ học tập bạn gà Trống   tính mạnh dạn, tự tin. Tuy nhỏ bé nhưng gà Trống đã biết dùng trí thông minh của  mình để đuổi cáo ra khỏi nhà. * Hoạt động học khám phá:           Với hoạt động học này thông qua các đề tài mà tôi giáo dục cho trẻ những kỹ  năng sống cơ bản như:           Thông qua hoạt động khám phá đề tài “ Bé cần gì để lớn lên và khỏe mạnh”  bé cần ăn đủ  4 nhóm chất dinh dưỡng, cần tham gia các hoạt động chơi đùa chạy   nhảy, thể dục thể thao và điều quan trọng nữa bé cần được sống trong môi trường   không khí trong lành qua đó giáo dục trẻ  biết cách chăm sóc bảo vệ  sức khỏe cho  bản thân bằng cách giữ  gìn đồ  dùng, vệ  sinh cá nhân sạch sẽ. Khi chơi xong phải   biết rửa tay.      Khám phá với đề  tài “ Ngôi nhà của bé”, trẻ  biết được ngôi nhà là nơi gia đình  cùng chung sống giáo dục trẻ biết làm gì để chỗ ở của mình sạch sẽ, gọn gàng. Còn  đề tài khám phá “Đồ dùng trong gia đình” giáo dục trẻ biết sắp xếp khi lấy, cất đồ  dùng ngăn nắp, biết giữ gìn đồ dùng sạch sẽ, gọn gàng, biết sử dụng đồ dùng đúng  cách... Đề tài khám phá một số nghề như nghề giáo viên, nghề bác sỹ, nghề nông… trẻ biết mỗi nghề đều có công việc vất vả riêng, trẻ biết yêu quý các nghề, và bảo   vệ các sản phẩm của mỗi nghề. Đề tài khám phá về “ Một số vật nuôi trong gia đình”  giáo dục trẻ biết chăm  sóc bảo vệ các con vật nuôi ( Cho ăn, không đánh đuổi các con vật).  Đề tài “ Bé đi đường an toàn” giáo dục trẻ khi đi bộ trên đường làng đi sát lề  đường bên tay phải, khi đi bộ  trên đường phố  đi trên vỉa hè. Khi ngồi sau xe máy  
  18. phải đội mũ bảo hiểm, ngồi ngay ngắn không đùa nghịch. Khi ngồi trên ô tô không  được thò đầu ra ngoài, không được chạy nhảy trên xe, khi xe dừng lại mới được  xuống, biết nhường chỗ cho các cụ già… Đề tài khám phá “ Gia đình bé chuẩn bị đón tết” giáo dục trẻ biết giúp đỡ bố  mẹ dọn dẹp, trang trí nhà cửa để đón tết. Biết vứt rác đúng nơi quy định không vứt   vỏ  kẹo, vỏ bim bim... ra đường, không khạc nhổ, không đi vệ  sinh bừa bãi. Đề  tài   “Tìm hiểu về  mùa xuân”, giúp trẻ  biết mùa xuân có tết cổ  truyền, dạy trẻ  nói   những câu chúc tết đơn giản, dạy trẻ  biết lựa chọn quần áo phù hợp hợp khi đi  chơi Tết.           Cho trẻ khám phá về nước, trẻ biết có nhiều loại nước khác nhau như nước  máy, nước lọc, nước suối, nước mưa, nước ao hồ, nước biển. Trẻ biết tình trạng  hiện nay nguồn nước đang bị ô nhiễm dần và cạn kiệt vì do con người đã sử  dụng   lãng phí từ đó giáo dục trẻ phải biết tiết kiệm nước. Rửa tay trước khi ăn và sau khi  đi vệ sinh các con nhớ vặn vòi nước vừa đủ để rửa, tránh lãng phí. * Hoạt động học tạo hình:           Qua tạo hình giáo dục trẻ biết giữ gìn sách vở sạch đẹp không làm quăn mép   vở không vẽ tẩy xóa vở, không vẽ bậy ra ghế ra bàn, giáo dục trẻ biết yêu quý, trân  trọng sản phẩm của mình, của bạn, mong muốn tạo ra những sản phẩm đẹp để  tặng cô, tặng ông, bà, bố, mẹ… * Hoạt động học âm nhạc: Tổ chức hoạt động giáo dục âm nhạc ở trường mầm non không chỉ mang lại   cho trẻ  những cảm xúc âm nhạc mà thông qua đó còn giúp trẻ phát triển rất nhiều   kỹ năng sống tốt đẹp như: kỹ năng tạo niềm vui, kỹ năng mạnh dạn tự tin… Ví dụ: Khi dạy trẻ hát, múa, biểu diễn tổng kết chủ đề, trẻ được hợp tác với bạn   luyện tập các tiết mục văn nghệ, được thể hiện vai người dẫn chương trình... giúp  trẻ biết quan tâm, chia sẻ và hợp tác với bạn để luyện tập được tốt. * Hoạt động phát triển thể chất:
  19. Thông qua hoạt động thể chất cô nhắc trẻ thường xuyên tập thể dục để  cho  cơ thể lớn lên và khỏe mạnh. Khi chơi các trò chơi vận động không nên tranh nhau,  phải biết nhường nhịn nhau, khi chơi phải biết phối hợp với bạn  để  tạo ra tính  đoàn kết. 2.2.4. Dạy kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi: * Hoạt động đón trẻ: Vào buổi sáng, giáo viên đến lớp trước 15 phút, công việc đầu tiên là mở cửa   thông thoáng phòng học, sau đó chuẩn bị đón trẻ. Khi trẻ đến lớp trẻ  biết chào cô,   chào bố mẹ, cất dép, cất ba lô đúng nơi quy định. *  Hoạt động ngoài trời. Qua hoạt động ngoài trời khi cho trẻ quan sát một số  loại cây cảnh, cây hoa,   cây ăn quả  tôi cho trẻ  biết ích lợi của cây xanh đối với con người. Hoạt động tìm  hiểu về một số loại rau tôi cho trẻ đi thăm vườn rau của lớp. Để gieo được những  luống rau xanh như thế này thì các cô phải làm gì? Trước tiên phải làm đất tơi xốp,  sau đó đến gieo hạt và tưới rau. Nếu không nhặt cỏ  bắt sâu cho cây thì điều gì sẽ  xảy ra? Từ đó trẻ có thể đưa ra ý kiến của mình một cách độc lập, giúp trẻ  mạnh   dạn hơn trong giao tiếp. Khi cho trẻ chơi ngoài trời tôi luôn nhắc trẻ  khi chơi trên   sân trường không được chạy đùa, xô đẩy bạn vào đồ chơi sẽ bị ngã chảy máu. Biết   giữ gìn đồ chơi ngoài trời khi chơi. * Hoạt động góc:            Trẻ mầm non học bằng chơi – chơi mà học, đối với trẻ mầm non, hoạt động   vui chơi chiếm vai trò chủ  đạo trong hoạt động của trẻ   ở  trường. Thông qua giờ  chơi, trẻ  được đóng các vai khác nhau trong xã hội, khi đóng vai được tái hiện lại  những gì trẻ nhìn thấy trong cuộc sống.  Ví dụ   ở  góc phân vai: Giáo dục trẻ  biết chơi đoàn kết với bạn khi bán hàng, mua  hàng. Dạy trẻ  cách mua hàng. Bác  ơi bán cho tôi 5 con cá này! Bao nhiều tiền hả  bác?...
  20. Ví dụ: Góc bác sỹ  tôi cho trẻ  khám sức khỏe cho bạn, biết cách đặt tai nghe,  ống  nghe. Biết thể  hiện một số  thao tác đơn giản khi khám bệnh, biết sử  dụng ngôn  ngữ để giao tiếp với bệnh nhận:  Cháu bị làm sao? Cháu bị đau cổ họng ạ? Hãy há  miệng ra cho bác kiểm tra? Góc xây dựng: Rèn cho trẻ kỹ năng làm việc theo nhóm,   biết phối hợp phân công công việc khi chơi, biết hợp tác cùng nhau để  xây dựng   được những công trình xây dựng. * Hoạt động lao động, vệ sinh: Trẻ  biết nhặt lá cây rụng trong sân trường, trong bồn cây, biết giữ  gìn lớp   học, sân trường luôn sạch sẽ. Không vứt rác vào bồn cây. * Hoạt động giờ ăn           Trong giờ  ăn, tôi nhắc trẻ  khi ăn không được nói chuyện, không xúc miếng  quá to, không nhai nhồm nhoàm, khi ho biết lấy tay che miệng, nhặt cơm rơi vào  khay. Sau khi ăn xong biết lau mồm, xúc miệng. Nhắc trẻ khi ăn phải giữ trật tự không nói chuyện riêng, khi ăn bị hắc xì hơi  thì phải biết che miệng, cơm rơi, cơm vãi thì nhặt vào khay và lau tay vào khăn. 2.2.5: Phối kết hợp với phụ huynh:        Bên cạnh việc dạy trẻ các kỹ năng ở lớp, tôi thường xuyên chú trọng đến việc  phối kết hợp với phụ huynh cùng dạy kỹ năng sống cho trẻ. Tuyên truyền cho phụ  huynh hiểu không nên làm hộ  con, phải dạy trẻ  tính tự  lập từ  bé. Trẻ  càng được  hướng dẫn sớm về cách tự  vệ, nhận biết những mối nguy hiếm từ xung quanh và   cách xử lý thì sẽ  vững vàng vượt qua những thử thách trong mọi tình huống. Điều  đó được chứng minh rõ ràng từ  thực tế. Việc giáo viên tích cực giao lưu với phụ  huynh vào giờ  đón, trả  trẻ  giúp giáo viên dễ  dàng nắm bắt tình hình của trẻ, hiểu  được tính cách, hoàn cảnh sống của trẻ từ đó đề ra các biện pháp phù hợp cũng như  cách tác động, phối hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện trẻ đúng phương pháp.         Trong gia đình, việc dạy trẻ  những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần  thiết. Để  trẻ  có được những kỹ  năng, thói quen sử  dụng đồ  dùng một cách chính  xác, thuần thục và khéo léo, không chỉ  đòi hỏi trẻ chỉ  thường xuyên luyện tập, mà  
nguon tai.lieu . vn