Xem mẫu

  1. NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lý do chọn đề tài          Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cái mầm có xanh thì cây   mới vững, cái búp có xanh thì lá mới tươi quả mới tốt, con trẻ có được nuôi   dưỡng giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới tự  cường tự  lập”. Trẻ  em là hạnh   phúc của gia đình là tương lai của đất nước. Như  chúng ta đã biết giáo dục  mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ  thống giáo dục quốc dân có vai trò   đặc biệt quan trọng  trong việc đặt nền móng hình thành nhân cách con người,  là bộ  phận quan trọng trong sự  nghiệp đào tạo thế  hệ  trẻ  thành những con   người có ích, thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách   giáo dục của nước ta là.              Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm  tạo ra cơ  sở  quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm   chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân cách.               Giáo  dục mẫu giáo đã góp phần thực hiện mục tiêu trên. Ngày nay   chúng ta không chỉ đào tạo những con người có tri, thức có khoa học, có tình  yêu thiên nhiên, yêu tổ  quốc, yêu lao động mà còn tạo nên những con người   biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu mơ ước và sáng tạo. Những phẩm chất  ấy con người phải được hình thành từ  lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn   bao điều tốt đẹp trong tương lai .    Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới,   chương trình giáo dục trẻ mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức   các hoạt động phù hợp sự  phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ  hoạt động một cách chủ  động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo  điều kiện cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ  chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt.             Thực hiện phương châm “Học mà chơi ­ Chơi mà học” Đáp ứng mục  tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về  mọi mặt .Trẻ  lứa tuổi 24 – 36  tháng tuổi hoạt động với đồ  vật là hoạt động chủ  đạo nó chứa đựng cơ  hội  phát triển về mọi mặt nếu bỏ qua khi trẻ bước sang tuổi m ẫu giáo sẽ  không   còn cơ hội phát triển nhanh, mạnh nữa. Chính vì vậy hoạt động với đồ vật là  nền móng để  bước đầu phát triển hình thành nhân cách cho trẻ. Đối với trẻ  nhà trẻ hoạt động với đồ vật trẻ được chơi với đồ chơi là nhu cầu không thể  thiếu trong cuộc sống của trẻ. 1
  2.            Thông qua hoạt động với đồ vật trẻ được tìm tòi, khám phá qua đó giúp  trẻ phát triển một cách toàn diện.Trẻ tìm hiểu , khám phá thế giới xung quanh  giúp trẻ biết được cách sử  dụng của đồ  vật qua đó phát triển nhận thức cho   trẻ.            Bên cạnh đó khi trẻ được cầm, sờ, nắm tiếp xúc với đồ  vật giúp trẻ  phát triển thể  chất , trí tuệ,phát triển các giác quan. Khi trẻ  được tìm hiểu   khám phá các đồ  vật đồ  chơi giúp trẻ  hiểu biết về  tên gọi , đặc điểm, công  dụng về thế giới xung quanh giúp trẻ biết được cách sử dụng của đồ vật qua   đó giúp trẻ phát triển nhận thức.Để  phát triển nên người trẻ  phải hoạt động  và trải nghiệm lĩnh hội kiến thức. Hoạt động không chỉ là nơi tâm lý của con  người được bộc lộ mà nó còn hình thành nên nhân cách đứa trẻ sau này. Hoạt  động với đồ vật chính là bước đầu hình thành nhân cách cho trẻ.  Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn, nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp cho   trẻ nhà trẻ tuổi làm quen với hoạt động với đồ  vật” để giải quyết những  vấn đề nêu trên. 2. Nội dung 2.1.Cơ sở lý luận         Trong trường mầm non hoạt động với đồ  vật giúp trẻ  tiếp xúc với các  đồ chơi, các hình dạng cơ bản khác nhau như, hình vuông, hình tròn, hình chữ  nhật….và giúp trẻ  nhận biết được các màu sắc như, màu vàng, màu xanh,  màu đỏ...giúp trẻ nhận biết, phân biệt những đồ vật.Thông qua hoạt động với   đồ  vật còn giúp trẻ rèn sự khéo léo của đôi bàn tay.Trẻ sử dụng đôi tay khéo  léo của mình để xâu, xếp chồng, xếp cạnh, tháo lắp đồ  dùng đồ chơi theo trí  tưởng tượng của trẻ tạo cho trẻ sự  kiên nhẫn, kiên trì trong quá trình làm ra  sản phẩm.        Hoạt động với đồ vật là một hoạt động chủ đạo của trẻ nhà trẻ. Đối với   trẻ nhà trẻ hoạt động với đồ vật không chỉ đơn thuần là chơi với đồ  chơi mà  các đồ vật này chứa đựng những kinh nghiệm xã hội trong đó.Thông qua hoạt   động với đồ vật trẻ nắm bắt được những hành vi đơn giản trong xã hội.       Là một giáo viên phụ trách lớp 24 – 36 tháng tuổi ở  lứa tuổi này trẻ  còn  rất bé nhưng đặc điểm phát triển sinh lý của trẻ  phát triển rất mạnh.Vì vậy   giáo dục trẻ đòi hỏi chúng ta phải chú ý đến việc giáo dục toàn diện cho trẻ  ngay từ khi tới trường. Hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của trẻ.          Hoạt động với đồ  vật giúp trẻ  phát triển các giác quan cử  động, vận  động, đặc biệt là khả  năng điều khiển bàn tay và các ngón tay để  thực hiện  các động tác giúp trẻ khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh. 2.2.Cơ sở thực tiễn.  2
  3.       Năm 2018 – 2019 tôi được ban giám hiệu phân công phụ  trách lớp 2 tuổi  A . Bản thân có trình độ đại học, trẻ nhà trẻ  còn nhỏ nên vẫn còn quấy khóc  trẻ  chưa biết tự  vệ  sinh cá nhân nên công tác chăm sóc giáo dục gặp nhiều   khó khăn.Với đặc điểm tình hình như vậy, khi được nhà trường phân công tôi  rất băn khoăn lo lắng trong quá trình thực hiện cho trẻ  làm quen với hoạt   động với đồ vật tôi gặp những thuận lợi và  khó khăn sau: a.Thuận lợi, khó khăn. *Thuận lợi ­ Phòng học rộng rãi thoáng mát, lớp học sạch đẹp mang tính sư  phạm  nên trẻ rất thích đi học và thuận lợi cho việc giáo dục trẻ. ­ Hai giáo viên trẻ, nhiệt tình, có trình độ chuẩn, có ý thức học hỏi đồng  nghiệp và qua các phương tiện thông tin đại chúng. ­ Phụ huynh của lớp rất nhiệt tình, luôn giúp đỡ  và phối kết hợp với cô   giáo trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. *Khó khăn ­ Nhận thức của trẻ chưa đồng đều nên việc truyền thụ  kiến thức đến  trẻ còn gặp rất nhiều khó khăn. ­ Trẻ còn chưa mạnh dạn và tự tin tham gia các hoạt động của lớp. ­ Một số  phụ  huynh còn ít quan tâm tới trẻ, thời gian đầu trẻ  đến lớp   chưa có nề nếp nhiều vì cháu lần đầu tiên ra lớp chưa qua lớp nhà trẻ 18 ­24   tháng . Trong giờ học có cháu tự do đi lại, trả lời câu hỏi còn trống không… Khảo sát thực trạng đầu năm học       Năm học 2018­2019, tôi tiến hành khảo sát trên 24 trẻ nhà trẻ 24­36 tháng  như sau. Phân  Trung  Tốt Khá Yếu loại  kĩ  bình năng  hoạt  động với  SL % SL % SL % SL % đồ   vật  của trẻ Trẻ   hứng   thú   tham   gia   hoạt  7 29 9  37 4  17 4  17 động cùng cô Trẻ  có thể  tập trung làm theo6   25 10  42 5  21 4 17 đúng   các   thao   tác   cô   hướng  3
  4. dẫn. Trẻ   có   khả   năng   ghi   nhớ   và  lặp lại các thao tác cô hướng5   21 10  42 6  25 3  12 dẫn. Trẻ  ghi nhớ  và tái hiện được  5  21 9  37 6  25 3  12 các kĩ năng cô hướng dẫn.     Căn cứ vào kết quả trên đây tôi nhận thấy khả năng hoạt động với đồ  vật của trẻ  còn hạn chế. Tỉ  lệ  tốt đạt kết quả  thấp, tỉ  lệ  trung bình và yếu  vẫn còn  cao. Tôi đã mạnh dạn đưa ra một số  biện pháp cho trẻ  24­36 tháng  tuổi làm quen với hoạt động với đồ vật trong trường mầm non như sau:   3. Các biện pháp đã thực hiện.   3.1. Biện pháp 1:  Xây dựng môi trường hoạt động đảm bảo khoa học,   thuận tiện tạo điều kiện  thuận lợi cho trẻ khi tham gia hoạt động. a. Xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động.      Để  thực hiện tốt hoạt động với đồ  vật cho trẻ  nhà trẻ  đạt hiệu quả.Tôi  xây dựng nội dung chơi ở các góc chơi theo từng chủ điểm đặc biệt ở góc trẻ  hoạt động nhiều.       Tạo môi trường cho trẻ hoạt động đa dạng, hấp dẫn và an toàn với trẻ.   Lấy những nguyên vật liệu dễ tìm, dễ hoạt động phù hợp với độ tuổi của trẻ  để  trẻ  khám phá, sáng tạo.   Sắp xếp các góc chơi có lối đi rộng rãi, không  gian của các góc đủ rộng cho trẻ hoạt động. b. Môi trường trong lớp      Sắp xếp đồ dùng đồ chơi theo từng tuần, từng chủ đề gọn gàng, khoa học,   ngang tầm với của trẻ để kích thích trẻ hứng thú tham gia hoạt động cùng cô.  Đồ  dùng đồ  chơi phong phú với nhiều màu sắc. Khu vực hoạt động với đồ  vật chuẩn bị  những đồ  chơi mở  cho trẻ  hoạt động như, hột hạt, nắp chai,   khối gỗ, đồ chơi cho trẻ xếp hình, bộ  lồng hộp, bộ xâu vòng….Bên cạnh đó   trang trí tranh ảnh vừa tầm mắt của trẻ.        Môi trường trong lớp đầy đủ, thẩm mỹ được sắp xếp dưới dạng mở kích   thích trẻ tìm tòi, khám phá.  Đồ dùng đồ chơi được thay đổi thường xuyên để  trẻ hứng thú hoạt động. c.Tạo môi trường ngoài lớp      Nhà trường và các cô giáo đã tạo nên một sân chơi thoáng mát, sạch sẽ gọn  gàng có vườn rau, vườn hoa, cây xanh , vườn cổ tích,nhà bóng, cầu trượt, góc  thiên nhiên , góc vận động để trẻ  tìm hiểu khám phá, trải nghiệm các sự  vật   4
  5. hiện tượng. Xây dựng môi trường xanh – sạch – đẹp và đảm bảo an toàn cho  trẻ.           Như vậy khi tạo môi trường cho trẻ hoạt động tôi nhận thấy trẻ hoạt   động với đồ vật một cách say mê, hứng thú và đạt kết quả cao hơn.  3.2. Biện pháp 2:  Tăng cường làm đồ  dùng đồ  chơi sáng tạo  bằng các   nguyên vật liệu đa dạng để thu hút trẻ hoạt động với đồ vật.         Ngoài những đồ dùng đồ chơi được nhà trường cấp tôi luôn tìm tòi, sưu  tầm các nguyên vật liệu tái chế  dễ  tìm, rẻ  tiền để  tận dụng làm ra đồ  chơi  cho trẻ  hoạt động giúp trẻ  hứng thú hơn. Khi đến chủ  đề  nào tôi sẽ  làm đồ  dùng đồ chơi để bổ sung cho chủ đề đó. Bản thân tăng cường làm và sưu tầm  những đồ chơi đẹp, hấp dẫn để lôi kéo trẻ vào hoạt động.        Vì trẻ  ở  lứa tuổi nhà trẻ  hoạt động dưới nhiều hình thức học mà chơi,   chơi mà học.Thông qua việc hoạt động với đồ chơi trẻ có kĩ năng chơi với đồ  chơi phát huy khả năng sáng tạo của trẻ giúp trẻ phát triển mọi mặt.Ngay từ  đầu năm học tôi đã lên kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi, phối hợp với giáo viên   trong lớp để cùng làm.Vận động tuyên truyền phụ huynh cùng tham gia đóng   góp , ủng hộ những nguyên vật liệu tái chế như, vỏ kẹo, vải vụn, vỏ chai, vỏ  lon sữa, vỏ can nước giặt…để cô và trẻ sử dụng làm đồ chơi. Tạo ra mối quan hệ  mật thiết giữa gia đình và nhà trường trong công  tác chăm sóc giáo dục trẻ.Tận dụng được những nguyên vật dễ kiếm, rẻ tiền   giúp tiết kiệm kinh phí và để phụ huynh nâng cao nhận thức về việc học tập   của các con.     Giúp trẻ  có thêm đồ  dùng đồ  chơi để  hoạt động và còn giúp   bản thân tôi khai thác được óc sáng tạo. Tôi và trẻ cùng tạo ra một số đồ chơi   mới giúp trẻ  hào hứng tham gia vào hoạt động.Tuy những sản phẩm do trẻ  làm chưa được đẹp nhưng trẻ  đều rất thích thú vì được cùng cô làm ra đồ  chơi.     Ví dụ: Dùng vải vụn để tạo thành các loại rau, củ.. ­  Làm quả dâu tây:      Nguyên liệu:bút chì, kéo, xốp, dây xâu, băng dính ­  Cách làm:      Dùng bút chì vẽ hình quả dâu tây lên xốp dùng kéo cắt theo hình đã vẽ ­>   cắt xốp màu xanh để làm núm ­> gắn vào quả dâu tây ­> đục lỗ giữa thân quả  dâu tây.    ­  Cách chơi :      Trẻ xâu các quả dâu tây qua lỗ nhỏ để có khoảng cách giữa 2 quả dâu tây   trẻ xâu 1 hạt vòng vào giữa.Khi trẻ xâu được nhiều cô buộc 2 đầu dây lại với   nhau tạo thành một chiếc vòng dâu tây.      Ví dụ: Làm quả cà tím ­  Nguyên liệu:      Xốp , giấy vụn , kéo. ­ Cách làm: 5
  6. Vẽ  hình quả  cà tím lên xốp rồi cắt theo hình đã vẽ­> dùng kéo nến gắn 2  hình lại với nhau ­> để hở phía trên đầu ­> với đôi tay nhỏ bé khéo léo của   trẻ cùng với cô nhét mẩu giấy vụn làm ruột quả cà ­> cắt miếng xốp màu  xanh làm núm rồi dán lại.   ­  Cách chơi:      Chuẩn bị một số cây chưa dán quả cô cùng trẻ treo quả lên cây.      Ví dụ: Làm con cá từ lá cây.   ­   Nguyên liệu:      lá cây, hạt đậu đen, keo.  ­ Cách làm:     Với những chiếc lá khô có hình tròn , dài có thể  làm thân con cá hoặc làm  đuôi cá. Dùng hạt đậu đen dán bằng băng dính 2 mặt dưới sự giúp đỡ  của cô   dán vào tạo thành mắt con cá.      Ví dụ: Làm cái quạt   ­   Nguyên liệu:    Giấy, keo.   ­ Cách làm:         Gấp theo chiều dài tờ giấy ước lượng khoảng 1cm sau đó lật lại để gấp,   cứ như vậy hướng dẫn trẻ gấp cho đến hết chiều dài tờ giấy.  Gấp đôi chiều  dài tờ giấy để tạo thành cái quạt. Lấy hồ dán 2 mép giấy ở giữa quạt lại với  nhau.        Để  hoạt động với đồ  vật đa dạng, gần gũi với trẻ  tôi sưu tầm một số  nguyên vật liệu đơn giản gần gũi để  trẻ  dùng đôi bàn tay khéo léo của mình   tạo nên những sản phẩm mang tính sáng tạo và lựa chọn những nội dung phù  hợp với trình độ  nhận thức của trẻ. Khi được tham gia làm đồ  dùng đồ  chơi   cùng cô cùng các bạn giúp trẻ  phát huy được sức sáng tạo của mình.Thông  qua đó trẻ biết yêu quý, giữ gìn sản phẩm do mình làm ra. Mặc dù sản phẩm  của trẻ làm ra có thể chưa đẹp mắt nhưng trong quá trình cho trẻ làm tôi nhận  thấy trẻ rất hứng thú, say mê. 3.3. Biện pháp 3. Tích cực học tập nâng cao trình độ  chuyên môn nghiệp   vụ.       Nhận thức rõ vai trò của việc nắm vững các kiến thức, nội dung, phương  pháp trong việc tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với hoạt động với đồ vật  cho trẻ  24­ 36 tháng tuổi.  Bản thân còn nhiều hạn chế  trong kinh nghiệm thực tiễn  chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là trẻ nhà trẻ nên tôi luôn học hỏi để nâng cao   trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tham gia đầy đủ các buổi bồi dưỡng chuyên  môn do trường, tổ chuyên môn tổ chức để học hỏi trao đổi kinh nghiệm.Tham  gia các hội thi, các buổi tập huấn, các chuyên đề của trường bạn trau đồi kinh  nghiệm cho bản thân.Thông qua đó nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ  và dần dần khắc phục những hạn chế của bản thân. 6
  7.        Nhận thức được vấn đề chuyên môn để không ngừng tự học, bồi dưỡng   là vấn đề cơ  bản của mỗi giáo viên, đây là yêu cầu trong giai đoạn đổi mới   giáo dục hiện nay và tương lai. Bản thân tôi đã lên kế hoạch học tập để nâng  cao trình độ chuyên môn, áp dụng vào thực tiễn dạy học đạt hiệu quả cao.          Tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ chuyên môn tổ chức hội   giảng, hội thi, báo cáo chuyên đề, hội thảo tập huấn công tác chuyên môn, dự  giờ thăm lớp rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học, kiểm tra việc thực hiên   quy chế  chuyên môn….để  học hỏi kinh nghiệm.Trong các buổi sinh hoạt   chuyên môn của tổ  cùng với các đồng nghiệp tôi tích cực tham gia chia sẻ  những vấn đề trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ từ đó cùng nhau bàn bạc  chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra giải pháp.       Với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay tôi học hỏi được  những kiến thức mới được cập nhật, các phương pháp giáo dục tiên tiến qua  sách, báo, mạng internet, trang báo giáo dục điện tử.Từ  đó học hỏi tiếp thu   chọn lọc những kiến thức để áp dụng phù hợp với đặc điểm của trường, lớp,  địa phương. 3.4. Biện pháp 4. Tạo hứng thú cho trẻ  tích cực tham gia vào hoạt động   với đồ vật. a.Trò chuyện , đàm thoại.          Dùng lời nói nhẹ  nhàng trò chuyện với trẻ  về  chủ  đề, ôn nội dung đã   học .Hệ thống câu hỏi đàm thoại sắp xếp và lựa chọn hợp lý.Đàm thoại giúp  trẻ nhớ lại những kiến thức trẻ tập trung chú ý , hứng thú tham gia hoạt động  cùng cô. Khi đã thu hút được sự quan tâm , chú ý kích thích nhu cầu muốn tìm  hiểu ở trẻ. Đồng thời động viên, khuyến khích trẻ cho trẻ chơi trong các góc   khi hoạt động với đồ vật tôi sử dụng các nguyên vật liệu, đồ dùng đồ chơi đa   dạng phong phú kích thích trẻ khám phá.      Ví dụ:Hoạt động với đồ vật “Xâu vòng tặng mẹ”  Trò chuyện gây hứng thú ­ Chúng mình lại đây với cô xắp đến ngày 8/3 con đã chuẩn bị được quà gì ?  Để có quà chúng mình sẽ đi đâu? ­ Cô và chúng mình cùng đi siêu thị ­ Cô và trẻ đọc đồng dao đi cầu đi quán… + Cô bán hàng bán những gì? Mỗi bạn chọn một món quà? + Cô có gì đây? ­ Cô cho trẻ xem và nhận xét vòng. Làm thế nào để có chiếc vòng ? ­ Lớp mình ai đã biết xâu vòng ( Cô hỏi trẻ) ­ Có bạn đã biết xâu vòng có bạn còn chưa biết cô muốn cả lớp mình ai cũng  xâu được … b.Gây hứng thú cho trẻ thông qua tổ chức hội thi. 7
  8.      Đối với trẻ độ  tuổi 24 – 36 tháng tuổi tổ chức hoạt động với đồ  vật cho   trẻ trong hoạt động chơi tập có chủ định là yêu cầu quan trọng đòi hỏi cao về  kiến thức, kĩ năng sư  phạm. Để  thu hút, lôi cuốn trẻ  tham gia một cách tích   cực phải lựa chọn phương pháp hấp dẫn phù hợp như tổ chức hội thi. Bé tài  năng, cùng thi tài…Trong quá trình tổ chức bài dạy cần lồng ghép xuyên suốt  từ  vào bài đến phần kết thúc các nội dung cần có sự  chuyển tiếp lôi cuốn,   hấp dẫn trẻ để trẻ hứng thú bài học đạt hiệu quả. c.Gây hứng thú bằng bài hát , trò chơi , câu đố, đồng dao, thơ. Trong  giờ cho trẻ hoạt động với đồ vật việc gây hứng thú cho trẻ vào   giờ học một cách nhẹ nhàng, hấp dẫn là một việc vô cùng cần thiết. Ví dụ: Dạy trẻ xếp hình ô tô Gây hứng thú cho trẻ bằng bài hát “ Em tập lái ô tô ”cùng với đồ  dùng  là chiếc ô tô được làm từ vỏ hộp sữa để giới thiệu và thu hút trẻ tham gia vào  hoạt động. Ví dụ: Dạy trẻ in hình con cá Gây hứng thú cho trẻ  đi tham quan bể  cá vừa đi vừa hát bài “Cá vàng   bơi” Sử dụng thủ thuật gây hứng thú cho trẻ tham gia vào hoạt động là điều   vô cùng cần thiết.Ngay từ đầu tiết dạy cô giáo đã thu hút được sự  chú ý của  trẻ tạo không khí tươi vui kích thích trẻ tham gia hoạt động cùng cô. Để  kích thích tính tò mò , thích khám phá của trẻ  tôi còn sử  dụng trò  chơi , hệ thống câu đố thu hút trẻ tham gia hoạt động. Ví dụ: Dâu đố về con gà Con gì mào đỏ Gáy ò ó o Sáng sớm tinh mơ Gọi người thức giấc Ví dụ: Câu đố về con vịt Con gì chân ngắn Mà lại có màng Mỏ bẹt màu vàng Hay kêu cạp cạp? Khi cho trẻ tham gia vào hoạt động với đồ vật còn sử dụng bài đồng  dao , ca dao để thu hút sự hứng thú của trẻ. 8
  9. Ví dụ: Bài đồng dao “Bà còng đi chợ” Bà còng đi chợ trời mưa Cái tôm cái tép đi đưa bà còng Đưa bà qua quãng đường cong Đưa bà đến tận ngỏ trong nhà bà Lồng ghép, tích hợp các cách gây hứng thú vào bài, hình thức thay đổi  linh hoạt để  trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động.Trẻ  học mà chơi, chơi mà  học nên không thể  bắt ép trẻ  theo khuôn mẫu nhất định mà phải linh hoạt   vận dụng những phương pháp khác nhau phù hợp với nhu cầu hứng thú của  trẻ.Muốn trẻ  tích cực  hứng thú tham gia hoạt động với đồ  vật thì tạo hứng   thú môi trường hấp dẫn để giúp trẻ hoạt động phát triển bản thân.          Để tránh cho trẻ cảm thấy nhàm chán khi làm quen với hoạt động với  đồ vật tôi luôn tổ chức đan xen những trò chơi vận động nhằm thay đổi trạng  thái giữa động và tĩnh cho trẻ.Từ  nội dung của hoạt động chuyển sang trò  chơi một cách nhẹ nhàng để trẻ học mà chơi, chơi mà học.           Ví dụ: Hoạt động chọn quả màu đỏ Trẻ  được làm quen với tên gọi , màu sắc của quả.Khi trẻ  nhận biết   được để củng cố kiến thức cho trẻ không bị nhàm chán tôi cho trẻ đi siêu thị  trong đường hẹp chọn mua những quả có màu đỏ.Trẻ rất thích thú và tích cực   tham gia. Sử  dụng đồ  dùng trực quan thu hút sự  chú ý của trẻ  giúp trẻ  ghi nhớ  khắc sâu biểu tượng.Sử dụng đồ dùng trực quan trẻ phát triển các giác quan ,  phát triển vận động khéo léo của đôi bàn tay: cầm , sờ , nắm. Ví dụ: Từ những khối gỗ trẻ có thể xếp nhà , xếp ô tô, xếp đường   đi, xếp tàu hỏa… Như vậy muốn trẻ tham gia hoạt động một cách tích cực thì phải tạo ra  môi trường tích cực cho trẻ  hoạt động phát huy sức sáng tạo, ham tìm hiểu   của trẻ. d.Thông qua hoạt động tham quan , trải nghiệm.   Trẻ rất hào hứng khi được cô giáo cho ra ngoài sân trường, khi ra ngoài   sân trường các con được tiếp xúc với không gian rộng rãi, cảm nhận được  thời tiết trong ngày, được chơi với đồ chơi ngoài sân trường, được nhìn, được  sờ vào rất nhiều cây, hoa và các loại rau, các loại quả có trong vườn trường.  Hoạt  động ngoài trời là thời điểm quan trọng để  kích thích sự  sáng tạo của   trẻ.Tôi luôn khuyến khích trẻ tự tư duy, tìm hiểu về hình dáng, màu sắc…của  sự vật hiện tượng.Trẻ được trải nghiệm , khám phá hoạt động với đồ vật từ  đó nắm được chức năng , tính chất, cách sử dụng đồ vật. Ví dụ: Trong chủ đề “Cây và những bông hoa đẹp” thay vì cho trẻ quan   sát tranh tôi đã tận dụng vườn hoa của trường để  tổ  chức cho trẻ  đi tham   9
  10. quan vườn hoa.Trong khi tham quan cho trẻ quan sát, sờ, ngửi để tìm hiểu về  hoa. Trong  giờ cho trẻ hoạt động với đồ vật việc gây hứng thú cho trẻ vào   giờ học một cách nhẹ nhàng , hấp dẫn là một việc vô cùng cần thiết. e.Đồ dùng trực quan. Thiết kế góc chơi hợp lý, đồ dùng đồ chơi đa dạng, phong phú đẹp mắt  và an toàn với trẻ  để  lôi cuốn trẻ  tham gia.Trang trí góc theo hướng mở  lấy  trẻ làm trung tâm. Ví dụ : Góc hoạt động với đồ vật  Trẻ  có thể  lựa chọn các trò chơi trong hệ  thống các trò chơi sáng tạo,  có thể cho trẻ xâu vòng theo màu, gắp quả bông… Ví dụ: Góc thao tác vai Cho trẻ chơi trò chơi nấu ăn, bế em , cho em ăn…trẻ được chơi với búp  bê, chăm sóc cho búp bê, cách trẻ  chăm sóc búp bê sẽ  là điều kiện để  phát  triển những kĩ năng thao tác hoạt động với đồ vật.  (Hình ảnh: Trẻ chơi góc thao tác vai)          Ví dụ: Góc nghệ Thuật: Trẻ  tô màu 1 số  đồ  dùng, quần áo, món ăn,  hoa quả  mùa hè, một số  phương tiện giao thông. Các sản phẩm của góc tạo  hình của trẻ  có thể  được treo ngoài hành lang trưng bày để  những ngày sau   trẻ vẫn có thể nhìn thấy sẽ khiến trẻ thích thú và khoe với các bạn khác.          Ví dụ: Góc vận động: Trẻ khám phá cảm giác của đôi bàn chân khi trẻ  được đi trên các loại hạt, quả bông…          Ví dụ: Góc sách truyện: Trẻ tập giở sách xem tranh theo ý thích, xem  tranh ảnh về mùa hè, trời mưa, trời nắng, cảnh biển, bể bơi, khu vui chơi…         Các hoạt động góc tại nhà trẻ đem lại kiến thức phục vụ cho hoạt động   học, phục vụ cho sự phát triển tư duy của trẻ, vì vậy đồ chơi càng phong phú  bao nhiêu thì càng kích thích sự hứng thú và tạo sự ham muốn được khám phá  mở mang kiến thức về thế giới xung quanh ở trẻ bấy nhiêu.   Đặc điểm tâm lý của trẻ  rất thích khen ngợi nên tôi luôn động viên,  khuyến khích, khích lệ trẻ để trẻ hứng thú tham gia hoạt động. Khen ngợi kịp   thời giúp trẻ hứng thú mạnh dạn hơn khi hoạt động. Quá trình giáo dục trẻ không chỉ  ở hoạt động chơi tập có chủ  định mà  còn ở mọi lúc mọi nơi để dạy trẻ nhằm khắc sâu kiến thức cho trẻ. Trẻ làm quen với hoạt động với đồ vật mọi lúc mọi nơi góp phần kích  thích   trẻ   phát   triển   toàn   diện   để   thỏa   mẵn   hoạt   động   với   đồ   vật   của   10
  11. trẻ.Trong sinh hoạt hàng ngày tôi nhắc trẻ xếp dép trên giá dép cạnh nhau cho  gọn gàng, giúp cô xếp chồng gối lên nhau khi ngủ  dậy, tự  xúc ăn, tự  uống  nước. Hàng ngày cho trẻ nhận biết phân biệt các đồ vật , hoa , quả….Những   việc làm thói quen hàng ngày  giúp trẻ có kĩ năng tự phục vụ trẻ thực hiện rất   vui vẻ phấn khởi. 3.5. Biện pháp 5. Phối kết hợp với phụ huynh. Nếu như  gia đình là trường hợp đầu tiên của trẻ  thì môi trường giáo  dục là tiền đề của sự phát triển nhân cách của trẻ. Chính vì vậy công tác phối  kết hợp giữa gia đình nhà trường là vô cùng quan trọng trong quá trình cho trẻ  hoạt động với đồ  vật.Tuyên truyền phụ  huynh cho con đi học đúng độ  tuổi,   đúng thời gian trường quy định trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ ở  lớp những gì trẻ làm được và chưa làm được để tìm hiểu nguyên nhân và cách  dạy trẻ tốt nhất. Vận động phụ huynh sưu tầm nguyên vật liệu có sẵn ở gia đình.Thông  qua giờ đón trả trẻ  vận động phụ  huynh gia đình có vỏ  hộp sữa, chai nước ,   vỏ  can nước giặt, vỏ lon bia…gia đình giữ  lại mang đến cho cô giáo làm đồ  dùng đồ  chơi phục vụ  cho hoạt động của trẻ   ở  lớp.Tuyên truyền vận động   phụ  huynh làm đồ  dùng đồ  chơi cho trẻ  hoạt động. Qua đó phụ  huynh hiểu  được việc làm của cô giáo và quan tâm đến con hơn. Ví dụ: Vỏ chai nước để làm bộ ấm chén, làm lọ hoa, Vỏ sữa chua làm   nồi, thìa sữa chua làm thìa… Để phụ huynh hiểu được ý nghĩa của việc sử dụng đồ dùng đồ chơi tôi  tuyên truyền cho phụ huynh hiểu khi có nhiều đồ chơi mới, lạ  mắt trẻ hứng   thú thao tác hoạt động với đồ  vật đó vì hoạt động với đồ  vật là hoạt động   chủ đạo của trẻ ở tuổi nhà trẻ. Phụ huynh về nhà cần quan tâm đến trẻ hơn,  giáo dục trẻ  bằng cách chơi với trẻ  cho trẻ  hoạt động với đồ  vật để  kích  thích hứng thú ở trẻ.  Sau khi chơi xong dạy trẻ cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi   quy định. Dạy trẻ biết chia sẻ đồ chơi với bạn, giúp đỡ nhau trong khi chơi. Bên cạnh đó tôi chia sẻ  với phụ  huynh những nội dung kiến thức mà  trẻ  cần tiếp thu và còn cung cấp cho phụ  huynh cách làm đồ  dùng đồ  chơi   sáng tạo đơn giản từ những nguyên vật liệu gần gũi xung quanh. Bảng tuyên  truyền tôi dán những thông tin, cách chơi trò chơi, cách làm đồ chơi cho trẻ để  phụ  huynh nắm được.Thông qua việc tuyên truyền  ở  mọi lúc mọi nơi dần  dần trẻ đã mạnh dạn tự tin có kĩ năng chơi hoạt động với đồ vật. Phối kết hợp với phụ  huynh đã nâng cao chất lượng hiệu quả  hoạt   động với đồ  vật.Khuyến khích cha mẹ  tham gia giáo dục trẻ  nhằm tạo sự  liên kết thống nhất giữa gia đình và nhà trường. Tạo điều kiên thuận lợi cho   trẻ phát triển mọi mặt.Bằng những lời tuyên truyền có tính thuyết phục phụ  huynh đã tin tưởng và giúp đỡ tôi rất nhiều trong công tác chăm sóc giáo dục   trẻ. 3.Khả năng áp dụng sáng kiến 11
  12. Sáng kiến được áp dụng với trẻ ở lớp 2TA trường mầm non Thanh Vân.  Và thu được nhiều kết quả trên trẻ đã tốt hơn so với khi chưa áp dụng sáng  kiến, bản thân có thêm nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy trẻ. Sáng kiến này còn có thể áp dụng lồng ghép cho tất cả các môn học khác  để giúp trẻ có kỹ năng hoạt động với đồ vật. Thể dục, cho trẻ làm quen với   toán, cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, hoạt động tạo hình, hay áp dụng  vào mọi lúc mọi nơi, mọi thời điểm trong ngày. 4. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Cơ  sở  trang thiết bị  tương đối đầy đủ,đáp  ứng yêu cầu tổ  chức các  hoạt động cho trẻ mầm non trong giai đoạn hiện nay. Đội ngũ cán bộ  đã đạt chuẩn và trên chuẩn nhận thức được tầm quan   trọng   của   bậc   học   mầm   non,   biết   áp   dụng   thực   tế   của   trường,   lớp   địa  phương để xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động cho trẻ. Sưu tầm, tìm tòi sáng tạo làm đồ dùng đồ chơi. Giáo viên phải làm tốt công tác tuyên truyền và phối   hợp với phụ  huynh  ủng hộ  nguyên vật liệu và làm đồ  dùng đồ  chơi phục vụ  cho hoạt   động với đồ vật. Hội phụ huynh của trường quan tâm chăm lo đến việc học tập của các  cháu, tích cực tham gia vào các hoạt động của trường. Trước khi áp dụng các biện pháp cho trẻ 24 – 36 tháng tuôi làm quen với   hoạt động với đồ  vật, tôi đã tiến hành khảo sát thực tế  trên 24 trẻ  của lớp   2TA Trường mầm non Thanh vân Bảng 1: Kết quả khảo sát mức độ đạt được của trẻ khi chưa áp dụng đề  tài. Phân  Trung  Tốt Khá Yếu loại  kĩ  bình năng  hoạt  động với  SL % SL % SL % SL % đồ   vật  của trẻ Trẻ   hứng   thú   tham   gia   hoạt  7 29 9  37 4  17 4  17 động cùng cô 12
  13. Trẻ  có thể  tập trung làm theo  đúng   các   thao   tác   cô   hướng6   25 10  42 5  21 4 17 dẫn. Trẻ   có   khả   năng   ghi   nhớ   và  lặp lại các thao tác cô hướng5   21 10  42 6  25 3  12 dẫn. Trẻ  ghi nhớ  và tái hiện được  5  21 9  37 6  25 3  12 các kĩ năng cô hướng dẫn.     Căn cứ vào kết quả trên đây tôi nhận thấy khả năng hoạt động với đồ  vật của trẻ  còn hạn chế. Tỉ  lệ  tốt đạt kết quả  thấp, tỉ  lệ  trung bình và yếu  cao.  Sau khi áp dụng sáng kiến: “Một số  biện pháp cho trẻ  nhà trẻ tuổi làm  quen với hoạt động với đồ vật” tôi thu  được kết quả như sau: Bảng 2: Kết quả khảo sát mức độ đạt được của trẻ khi áp dụng đề tài. Phân  Trung  Tốt Khá Yếu loại  kĩ  bình năng  hoạt  động với  SL % SL % SL % SL % đồ   vật  của trẻ Trẻ   hứng   thú   tham   gia   hoạt  15 62 5  21 4  17 0  0 động cùng cô Trẻ  có thể  tập trung làm theo  đúng   các   thao   tác   cô   hướng13    54 8  33 3  12 0 0 dẫn. Trẻ   có   khả   năng   ghi   nhớ   và  lặp lại các thao tác cô hướng11    46 9  37 3  12 1  0,4 dẫn. Trẻ  ghi nhớ  và tái hiện được  10  42 9  37 4 17 1  0,4 các kĩ năng cô hướng dẫn.  Nhìn vào bảng trên tôi nhận thấy trẻ  đã tiến bộ, trẻ  có khả  năng tập  trung, ghi nhớ và có kĩ năng hoạt động với đồ vật tốt hơn so với đầu năm. 13
  14. * Đối với giáo viên Bản thân  rút được nhiều kinh nghiệm qua cách làm đồ  dùng đồ  chơi  cho trẻ.Bản thân không ngừng học tập nâng cao trình độ  chuyên môn nghiệp  vụ. Từ  đó tôi cũng như  các giáo viên cùng lớp có những biện pháp giáo dục  phù hợp với cá nhân trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện cho trẻ. Tạo được lòng tin cho phụ  huynh, rút ngắn khoảng cách giữa gia đình  và nhà trường trong mọi hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. * Đối với trẻ Trẻ mạnh dạn, tự tin trong khi hoạt động với đồ vật. Trẻ hứng thú, thích tìm tòi khám phá sự vật hiện tượng. Trẻ có kĩ năng xếp chồng, xếp cạnh, xâu vòng… * Đối với phụ huynh Phụ  huynh đã có sự  hợp tác với những phương pháp, những kế  hoạch  hoạt động với đồ vật mà cô đưa ra cho trẻ ở lớp và ở tại gia đình trẻ. Đã có sự  phản hồi thường xuyên, liên tục về  mức độ  phát triển  hoạt  động với đồ vật  của con em mình ở nhà để giáo viên có những biện pháp tác  động kịp thời đến trẻ.          14
  15. 15
nguon tai.lieu . vn