- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo nhân viên cấp dưỡng nâng cao chất lượng món ăn cho trẻ mầm non
Xem mẫu
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
HỒ SƠ XÉT CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Một số biện pháp chỉ đạo nhân viên cấp dưỡng nâng
cao chất lượng món ăn cho trẻ mầm non
Tác giả: Nguyễn Thị Thúy Nga
Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Thiện Kế
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm (chuyên ngành mầm non)
Thiện Kế, năm 2019
1
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên
a) Tác giả sáng: Nguyễn Thị Thúy Nga
Ngày tháng năm sinh: 18/9/1977; Nam, nữ: Nữ.
Đơn vị công tác (hoặc hộ khẩu thường trú): Trường Mầm Non Thiện
Kế
Chức danh: Phó hiệu trưởng (phụ trách chăm sóc nuôi dưỡng).
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm (chuyên ngành Mầm Non).
Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến (ghi rõ đối với từng
đồng tác giả, nếu có): 100%.
b) Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Thúy Nga.
c) Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả bản chất của sáng kiến; các
thông tin cần được bảo mật (nếu có):
Tên sáng kiến: Một số biện pháp chỉ đạo nhân viên cấp dưỡng nâng
cao chất lượng món ăn cho trẻ mầm non;
Lĩnh vực áp dụng: Lĩnh vực quản lý;
Mô tả sáng kiến:
+ Về nội dung của sáng kiến:
Ở các trường mầm non, không chỉ có đội ngũ giáo viên mới quyết định
chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mà đội ngũ nhân viên cấp dưỡng cũng
giữ vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng bữa ăn đảm bảo sức
khỏe cho trẻ.
Thực tế ở các trường mầm non, từ khi tổ chức cho trẻ ăn bán trú tại
trường cho đến nay, hầu hết các trường mầm non trong huyện nói chung và ở
trường mầm non Thiện Kế nói riêng đều chưa được biên chế đội ngũ nhân
viên cấp dưỡng, mà 100% đội ngũ nhân viên cấp dưỡng của các trường đều
là những hợp đồng ngắn hạn, tiền công chi trả cho nhân viên cấp dưỡng hoàn
toàn do phụ huynh đóng góp, kinh phí rất hạn hẹp, không có chế độ ưu đãi, vì
vậy khi thuê hợp đồng cấp dưỡng khó có thể thuê đủ số lượng nhân viên theo
quy định và cũng không thuê được những người có bằng cấp chuyên môn, mà
số lượng rất hạn chế và chỉ thuê được những người đã đứng tuổi, làm nghề
tự do hoặc làm ruộng, không được đào tạo bài bản về nghiệp vụ cấp dưỡng,
nên khi hợp đồng vào trường để nấu ăn cho trẻ họ còn rất bỡ ngỡ, các bà
2
- quen với cách nấu ăn truyền thống phục vụ gia đình, chưa quen với cách chế
biến các món ăn cho trẻ mầm non …
Thực tế, năm học 2018 2019 trường Mầm Non Thiện Kế đã thuê 3
hợp đồng cấp dưỡng (1 người hợp đồng từ năm học 2016 2017, còn 2 người
là hợp đồng mới năm học 2018 2019). Trước khi vào hợp đồng nấu ăn cho
trẻ họ đều là những người làm nghề tự do và làm ruộng, khi mới vào làm hợp
đồng họ còn rất bỡ ngỡ chưa quen với công việc, chế biến các món ăn cho
trẻ còn rất lúng túng, chất lượng các món ăn chưa cao, trẻ chưa hứng thú với
các món ăn ...
Xuất phát từ những khó khăn trên, tôi đã suy nghĩ và tìm các giải pháp
giúp cho nhân viên cấp dưỡng có một số kiến thức và kỹ năng cơ bản cần
thiết để nấu ăn phục vụ trẻ, biết cách chế biến các món ăn phù hợp với trẻ
mầm non, nhằm nâng cao chất lượng món ăn, để các cháu được ăn ngon
miệng, ăn hết xuất góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ
trong nhà trường.
Giải pháp 1. Lựa chọn đối tượng hợp đồng.
Yếu tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến chất
lượng hiệu quả công việc, vì vậy để lựa chọn được đối tượng hợp đồng phù
hợp, đáp ứng được yêu cầu công việc thì tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng và
phối hợp với hội cha mẹ học sinh để lựa chọn những người có sức khỏe tốt,
nhanh nhẹn hoạt bát, sạch sẽ, cẩn thận, thật thà …
Chúng tôi yêu cầu thời gian thử việc là 1 tháng, nếu sau 1 tháng mà làm
đáp ứng được yêu cầu của công việc thì chúng tôi mới chính thức ký hợp
đồng.
Giải pháp 2. Phân công, bố trí công việc.
Vì các nhân viên cấp dưỡng có kinh nghiệm làm việc không đồng đều
nên khi phân công công việc tôi đã phải tìm hiểu khả năng của từng người để
phân công công việc cụ thể phù hợp với từng người. Tôi xây dựng bảng phân
công công việc cụ thể đặt tại nhà bếp để nhân tất cả mọi người tiện theo dõi
và nhân viên làm căn cứ thực hiện.
Đối với nhân viên hợp đồng cũ, là người đã có kinh nghiệm nấu ăn tốt
hơn thì tôi phân công phụ trách chính, là người kiểm tra tiếp nhận thực phẩm
đầu vào, chuyên chế biến và nấu các món ăn mặn, bao quát chỉ đạo công việc
chung của bếp.
Đối với hợp đồng mới, do chưa thạo việc, tôi phân công nhiệm vụ
chính là sơ chế thực phẩm, thu dọn vệ sinh các thiết bị máy móc sau khi sơ
chế, chia bát thìa và chuẩn bị các dụng cụ chia ăn, phụ việc cho bếp chính để
có thời gian học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau …
3
- Giải pháp 3. Bồi dưỡngcho nhân viên kiến thức và kỹ năng để nâng
cao chất lượng món ăn.
Vì hầu hết là nhân viên mới hợp đồng, kinh nghiệm chế biến các món
ăn cho trẻ mầm non còn hạn chế, đôi khi làm việc chưa bài bản, nên khi hợp
đồng vào trường chúng tôi đã tổ chức bồi dưỡng một số kiến thức và kỹ năng
cơ bản và cần thiết để nâng cao chất lượng món ăn cho trẻ:
Bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng có thói quen giữ vệ sinh trong công
việc: Giữ vệ sinh cá nhân khi làm nhiệm vụ đối với nhân viên cấp dưỡng là
một yêu cầu tất yếu của một cô nuôi ở trường mầm non. Vì nếu các cô nuôi
không có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân cho mình thì chính các cô lại là nguồn
gây bệnh cho trẻ, dẫn đến không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ,
chất lượng món ăn sẽ không đảm bảo. Chính vì vậy tôi đã bồi dương cho
nhân viên cấp dưỡng một số kiến thức và kỹ năng giữ vệ sinh trong khi làm
việc, thường xuyên nhắc nhở nhân viên tạo cho mình có thói quen vệ sinh cá
nhân và vệ sinh môi trường tốt:
Luôn giữ vệ sinh thân thể và trang phục: Móng tay luôn cắt ngắn, sạch
sẽ, đầu tóc luôn cặp gọn gàng. Rửa tay bằng xà phòng rước khi làm, khi tay
bẩn và có khăn lau tay riêng. Đến trường thay luôn quần áo đồng phục lao
động. Đeo khẩu trang, găng tay, tạp dề và đội mũ khi tham gia tiếp nhận, sơ
chế, chế biến thực phẩm.
Không hút thuốc, nhai trầu trong khi làm việc.
Khi ho, hắt hơi phải tránh, không để dây, bắn vào thực phẩm.
Không tự ý làm việc của người khác nếu không được phân công.
Quyét dọn giữ vễ sinh sạch sẽ nơi làm việc, cống ránh thông thoát, rác
thải tập trung để vận chuyển đến nơi xử lý.
Các thói quen trên tuy rất đơn giản nhưng không phải ai cũng duy trì
thường xuyên để tạo thành thói quen được vì vậy chúng ta phải luôn ý thức tự
giác giữ vệ sinh mọi lúc, mọi nơi và trong mọi công việc.
Tôi trực tiếp tham gia làm cùng và hướng dẫn nhân viên từ việc tiếp nhận
thực phẩm, sơ chế, tẩm ướp cho đến khâu nấu nướng chia ăn để đảm bảo
đúng quy trình và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm … Đối với đầu vào khi
tiếp phẩm phải kiểm tra kỹ lưỡng cả về số lượng và chất lượng thực phẩm,
tuyệt đối không nhận với những mặt hàng không đúng, đủ và không đáp ứng
yêu cầu về ATVSTP ...
Bồi dưỡng cho nhân viên một số kiến thức về vệ sinh an toàn thực
phẩm, cách chế biến các món ăn cho trẻ bằng hình thức trao đổi trực tiếp bên
cạnh đó tôi còn cung cấp tài liệu cho họ tham khảo.
4
- Bồi dưỡng về kỹ năng: Tôi đã trực tiếp tham gia chế biến món ăn cùng
nhân viên và kết hợp hướng dẫn cho nhân viên cách nấu một số món ăn khi
thấy nhân viên làm chưa phù hợp hoặc những món ăn mới như:
Món “Thịt bò hầm của quả” nếu nấu chung thịt bò với củ quả thì thịt
bò sẽ bị dai trẻ không ăn được và của quả có thể sẽ bị cháy bén. Vì vậy khi
nấu món này chúng ta cần nấu riêng từng loại bằng cách thái nhỏ củ quả cho
vào hầm chín nêm mắm muối cho vừa, thịt bò sau khi đã xay nhỏ thì ướp với
dầu ăn cho mềm và xào nêm mắm muối vừa, khi cả 2 loại đã chín thì mới
chộn đều với nhau và đun nhỏ lửa đến khi sủi đều là được, không nấu quá kỹ
sẽ làm cho củ quả chín nhũn mất màu, mùi vị không ngon và không còn đẹp
mắt …
Món “Trứng xào thịt” nếu nấu không đúng cách thì trứng sẽ có mùi tanh
không thơm ngon, vì vậy khi nấu món này chúng ta cần phi hành xào chín
trứng riêng (xào trứng phải chia thành nhiều mẻ nhỏ, đảo đều tay thì trứng
mới tơi và có màu vàng đẹp, nếu nấu nhiều trứng cùng một mẻ sẽ làm cho
trứng vón thành cục không đẹp mắt); xào thịt riêng khi thịt đã chín và nêm vừa
mắm muối thì cho trứng đã chín vào đảo đều và nấu nhỏ lửa khoảng 5 phút
cho hành thơm nấu chín thì bắc ra, lúc đó món ăn sẽ có mùi vị thơm ngon hấp
dẫn, trẻ dễ ăn …
Hướng dẫn nhân viên các món ăn sau khi nấu chín cần chia ngay cho
các lớp để khi trẻ ăn vẫn còn nóng thì mới thơm ngon …
Giải pháp 4. Đầu tư trang thiết bị nhà bếp:
Trang thiết bị, đồ dùng nhà bếp cũng ảnh hưởng đến chất lượng món
ăn của trẻ, nếu sử dụng các thiết bị có chất lượng không tốt sẽ ảnh hưởng
đến chất lượng món ăn và sức khỏe của trẻ … vì vậy trong các năm học
chúng tôi đã dần inoc hóa thiết bị nhà bếp để đảm bảo an toàn vệ sinh trong
ăn uống cho trẻ.
Đến nay thiết bị nhà bếp của trường tôi đã được trang bị tương đối đầy
đủ, như máy xay thịt, máy sấy bát thìa, bồn rửa thực phẩm, bàn sơ chế thực
phẩm, bàn chia ăn, xoong nồi, thìa bát đã đảm bảo 100% bằng chất liệu inox
đảm bảo vệ sinh …
Giải pháp 5. Kiểm tra, đánh giá kết quả, điều chỉnh kịp thời.
Hàng ngày tổ kiểm thực chất lượng của nhà trường thường xuyên
kiểm tra, giám sát nhân viên nhà bếp làm việc, nhận xét, đánh giá việc làm
của từng người, nhắc nhở kịp thời khi thấy nhân viên làm việc chưa đạt yêu
cầu.
Để cô nuôi thực hiện tốt các khâu từ sơ chế thức ăn cho đến chế biến,
tẩm ướp, nấu và chia ăn. Là cán bộ phụ trách nuôi dưỡng tôi đã thực hiện
việc kiểm tra, giám sát bếp ăn thường xuyên, hàng ngày để cô nuôi thực hiện
đúng nguyên tắc bếp ăn một chiều, đảm bảo món ăn đủ lượng, đủ chất và
5
- đảm bảo VSATTP. Mặt khác, tôi còn thử nghiệm cân các loại thực phẩm
trước khi sơ chế, sau khi sơ chế và nấu thành món ăn (có sự chứng kiến của
nhà bếp, giáo viên, phụ huynh và ban giám hiệu) để đảm bảo sự khách quan
trong khẩu phần ăn của trẻ.
Lấy ý kiến nhận xét từ giáo viên về chất lượng chế biến món ăn,
phong cách, tác phong làm việc của nhân viên cấp dưỡng từ đó tôi sẽ góp ý
trực tiếp và đánh giá xếp loại từng người.
Dự giờ ăn của trẻ để quan sát và đánh giá chất lượng các món ăn có
phù hợp với trẻ không, trẻ ăn có ngon miệng ăn hết xuất không để điều chỉnh
cho phù hợp ...
Kiểm tra chất lượng trên trẻ thông qua kết quả cân đo theo dõi trên
biểu đồ tăng trưởng hàng tháng, hàng quý.
+ Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến đã đưa ra được một số giải pháp phù hợp với tình hình thực
tế của địa phương và nhà trường. Giải quyết được một số vấn đề khó khăn
trong quá trình quản lý, chỉ đạo nhân viên thực hiện công tác chế biến món ăn
cho trẻ cho trẻ tại nhà trường. Vì vậy đã gây được ấn tượng và niềm tin của
các bậc phụ huynh đối với chất lượng bữa ăn, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Đội
ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên trong nhà trường đặc biệt là đội ngũ làm công
tác cấp dưỡng đã có những kiến thức về dinh dưỡng cho trẻ mầm non từ đó
đã nâng cao kỹ năng chế biến món ăn đảm bảo chất lượng và phù hợp với
trẻ. Chất lượng bữa ăn của trẻ cơ bản đã đủ lượng, đủ chất đảm bảo thơm
ngon, hấp dẫn trẻ, giúp trẻ ăn ngon miệng ăn hết xuất.
Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
+ So sánh lợi ích kinh tế, xã hội thu được khi áp dụng giải pháp trong
đơn so với trường hợp không áp dụng giải pháp đó, hoặc so với những giải
pháp tương tự đã biết ở cơ sở (cần nêu rõ giải pháp đem lại hiệu quả kinh tế, lợi
ích xã hội cao hơn như thế nào hoặc khắc phục được đến mức độ nào những
nhược điểm của giải pháp đã biết trước đó nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã
biết trước đó);
TT Nội dung Trước khi áp dụng đề Sau khi áp dụng đề tài
tài
1 Về nhân viên 2/3 nhân viên chưa có 3/3 nhân viên đã nắm
kiến thức và kỹ năng về được kiến thức về vệ
chế biến món ăn cho sinh an toàn thực phẩm, có
trẻ, làm việc theo kinh kỹ năng chế biến các món
nghiệm là chính và còn ăn phù hợp với trẻ, duy trì
lúng túng, chưa khoa tốt thói quen giữ vệ sinh
6
- cá nhân, vệ sinh môi
trường, đảm bảo các
nguyên tắc chung trong
khi làm việc tại bếp từ
học.
khi giao nhận, sơ chế, chế
biến thực phẩm đến chia
ăn. Bếp ăn luôn đảm bảo
vệ sinh sạch sẽ.
100% trẻ đã hứng thú với
các món ăn ở trường. Trẻ
Chưa hứng thú với các
tăng cân đạt 96%, tỷ lệ
2 Về trẻ món ăn, ăn còn mang
trẻ suy dinh dưỡng đã
tính ép buộc.
giảm 0,5% so với đầu
năm học
40% đồ dùng bằng Inox
Trang thiết bị, 100% thiết bị nhà bếp
3 60% đồ dùng bằng
đồ dùng bán trú bằng inox
nhôm, nhựa.
Các món ăn đảm bảo
thơm ngon, đẹp mắt, giúp
Các món ăn chưa đẹp trẻ ăn ngon miệng, ăn hết
Chất lượng
4 mắt, chưa ngon miệng, xuất.
món ăn
chưa thu hút được trẻ. Trẻ về nhà còn so sánh bố
mẹ nấu không ngon bằng
ở trường
Từ những kết quả nêu trên cho thấy rằng đội ngũ nhân viên cấp dưỡng
của nhà trường đã có được những kiến thức và kỹ năng cơ bản về dinh
dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, biết chế biến các món ăn thơm ngon, đẹp
mắt, phù hợp với trẻ mầm non, giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn hết suất, trẻ thích
được ăn các món ăn ở trường nấu. Tỷ lệ trẻ tăng cân cao, tỷ lệ trẻ suy dinh
dưỡng, thấp còi giảm đáng kể so với đầu năm học. Bên cạnh đó trang thiết bị
nhà bếp đã được đầu tư và chuẩn hóa.
+ Mang lại hiệu quả kinh tế:
Đội ngũ nhân viên cấp dưỡng của nhà trường ngày càng có nhiều kinh
nghiệm trong chế biến món ăn cho trẻ.
Trẻ thích được ăn bán trú ở trường, tỷ lệ trẻ tăng cân cao, tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng giảm đáng kể, tạo được niềm tin với phụ huynh học sinh khi cho
con ăn bán trú tại trường.
7
- Trang thiết bị nhà nhà bếp được chuẩn hóa, đảm bảo an toàn cho công
tác bán trú, tạo được uy tín của với phụ huynh học sinh, từ đó phụ huynh học
sinh tin tưởng và gửi con bán trú ngày một đông.
+ Mang lại lợi ích xã hội:
Qua một thời gian rất ngắn, tuy mới hợp đồng nhưng cả 3 nhân viên
cấp dưỡng của chúng tôi đã làm việc rất hiệu quả, cụ thể:
Cả 3 nhân viên đều nắm được kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm,
có kỹ năng chế biến các món ăn phù hợp với trẻ, đảm bảo thơm ngon, đẹp
mắt, giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn hết xuất.
Tỷ lệ trẻ tăng cân đạt 96%, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đã giảm 0,5% so
với đầu năm học.
Qua đợt kiểm tra của trung tâm y tế huyện Bình Xuyên bếp ăn của nhà
trường được đánh giá đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định.
Nhân viên cấp dưỡng luôn duy trì tốt thói quen giữ vệ sinh cá nhân, vệ
sinh môi trường, đảm bảo các nguyên tắc chung trong khi làm việc tại bếp từ
khi giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm đến chia ăn. Bếp ăn luôn đảm bảo
vệ sinh sạch sẽ.
100% các cô nuôi được khám sức khoẻ định kỳ, được tập huấn các
kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cả 3 nhân viên cấp dưỡng đã làm việc rất nhịp nhàng, ăn ý. Ai được
phân công phụ trách mảng nào thì đã làm rất tốt công việc của mảng đó, biết
hỗ trợ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Các thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không;
Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Về cơ sở vật chất trang thiết bị: Có đủ cơ sở vật chất trang thiết bị
phục vụ công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
Đội ngũ CBQL, giáo viên, nhân viên: Có năng lực quản lý, thực hiện
nhiệm vụ được giao. Yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình trong công tác và có kiến
thức về chăm sóc nuôi dưỡng trẻ mầm non.
Học sinh: Trẻ được ăn bán trú tại trường.
Phụ huynh học sinh: Phối hợp với nhà trường trong công tác chăm sóc
nuôi dưỡng trẻ.
Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ
chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu
có);
Sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng đại trà trong các trường mầm
non và có thể áp dụng trong chế biến món ăn cho trẻ tại gia đình.
8
- Tôi làm đơn nay trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công
nhận sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực,
đúng sự thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn
toàn chịu trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.
Thiện Kế, ngày 28 tháng 01 năm 2019
NGƯỜI VIẾT ĐƠN
Nguyễn Thị Thúy Nga
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG MẦM NON THIỆN KẾ Độc lập Tự do Hạnh phúc
Số:…………… Thiện Kế, ngày 28 tháng 01 năm 2019
BẢN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
VÀ ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên
Trường Mầm Non Thiện Kế nhận được đơn đề nghị công nhận sáng
kiến của Ông (bà) Nguyễn Thị Thúy Nga.
Ngày tháng năm sinh: 18/9/1977; Giới tính: Nữ;
Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Thiện Kế;
Chức danh: Phó hiệu trưởng;
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm (chuyên ngành Mầm Non);
Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến: 100%
Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Thúy Nga;
Tên sáng kiến: Một số biện pháp chỉ đạo nhân viên cấp dưỡng nâng
cao chất lượng món ăn cho trẻ mầm non;
Lĩnh vực áp dụng: Lĩnh vực quản lý.
Sau khi nghiên cứu đơn đề nghị công nhận sáng kiến.
Tôi tên là: Ngô Thị Minh Hương;
9
- Chức vụ: Hiệu trưởng;
Thay mặt trường Mầm Non Thiện Kế nhận xét, đánh giá như sau:
1. Đối tượng được công nhận sáng kiến: Giải pháp quản lý;
2. Nhận xét, đánh giá về nội dung sáng kiến: Nêu rõ quan điểm của cá
nhân theo các nội dung (bằng cách trả lời các câu hỏi sau đây):
a) Đảm bảo tính mới, tính sáng tạo: Có. Vì.
Không trùng với nội dung của giải pháp trong đơn đăng ký sáng kiến
nộp trước;
Chưa bị bộc lộ công khai trong các văn bản, sách báo, tài liệu kỹ thuật
đến mức căn cứ vào đó có thể thực hiện ngay được;
Không trùng với giải pháp của người khác đã được áp dụng hoặc áp
dụng thử, hoặc đưa vào kế hoạch áp dụng, phổ biến hoặc chuẩn bị các điều
kiện để áp dụng, phổ biến;
Chưa được quy định thành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm bắt buộc
phải thực hiện.
b) Giải pháp có khả năng mang lại lợi ích thiết thực:
Mang lại lợi ích xã hội: Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi
dưỡng trẻ.
c) Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan,
tổ chức nào: Có khả năng áp dụng trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở
các trường Mầm non.
3. Kiến nghị đề xuất:
Thay mặt nhà trường tôi đồng ý công nhận sáng kiến của đồng chí
Nguyễn Thị Thúy Nga.
Trường Mầm Non Thiện Kế Đề nghị Hội đồng sáng kiến xét công
nhận sáng kiến của đồng chí Nguyễn Thị Thúy Nga.
Xin trân trọng cảm ơn./.
HIỆU TRƯỞNG
Ngô Thị Minh Hương
10
- 11
- Mã số
Tên sáng kiến: Một số biện pháp chỉ đạo nhân viên cấp
dưỡng nâng cao chất lượng món ăn cho trẻ mầm non
Lĩnh vực áp dụng: Chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
Họ tên tác giả: Nguyễn Thị Thúy Nga
Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Thiện Kế
Tháng 01 năm 2019
12
- Họ tên, chữ ký người chấm điểm Điểm Mã số
Người số 1:……………………………………….
Người số 2:……………………………………….
Tên sáng kiến
“Một số biện pháp chỉ đạo nhân viên cấp dưỡng nâng cao chất lượng
món ăn cho trẻ mầm non”.
Mô tả sáng kiến:
+ Về nội dung của sáng kiến:
Ở các trường mầm non, không chỉ có đội ngũ giáo viên mới quyết định
chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mà đội ngũ nhân viên cấp dưỡng cũng
giữ vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng bữa ăn đảm bảo sức
khỏe cho trẻ.
Thực tế ở các trường mầm non, từ khi tổ chức cho trẻ ăn bán trú tại
trường cho đến nay, hầu hết các trường mầm non trong huyện nói chung và ở
trường mầm non tôi đang công tác nói riêng đều chưa được biên chế đội ngũ
nhân viên cấp dưỡng, mà 100% đội ngũ nhân viên cấp dưỡng của các trường
đều là những hợp đồng ngắn hạn, tiền công chi trả cho nhân viên cấp dưỡng
hoàn toàn do phụ huynh đóng góp, kinh phí rất hạn hẹp, không có chế độ ưu
đãi, vì vậy khi thuê hợp đồng cấp dưỡng khó có thể thuê đủ số lượng nhân
viên theo quy định và cũng không thuê được những người có bằng cấp chuyên
môn, mà số lượng rất hạn chế và chỉ thuê được những người đã đứng tuổi,
làm nghề tự do hoặc làm ruộng, không được đào tạo bài bản về nghiệp vụ
cấp dưỡng, nên khi hợp đồng vào trường để nấu ăn cho trẻ họ còn rất bỡ
ngỡ, các bà quen với cách nấu ăn truyền thống phục vụ gia đình, chưa quen
với cách chế biến các món ăn cho trẻ mầm non …
Thực tế, năm học 2018 2019 ở trường tôi đang công tác đã thuê 3 hợp
đồng cấp dưỡng (1 người hợp đồng từ năm học 2016 2017, còn 2 người là
hợp đồng mới năm học 2018 2019). Trước khi vào hợp đồng nấu ăn cho trẻ
họ đều là những người làm nghề tự do và làm ruộng, khi mới vào làm hợp
đồng họ còn rất bỡ ngỡ chưa quen với công việc, chế biến các món ăn cho
trẻ còn rất lúng túng, chất lượng các món ăn chưa cao, trẻ chưa hứng thú với
các món ăn ...
Xuất phát từ những khó khăn trên, tôi đã suy nghĩ và tìm các giải pháp
giúp cho nhân viên cấp dưỡng có một số kiến thức và kỹ năng cơ bản cần
thiết để nấu ăn phục vụ trẻ, biết cách chế biến các món ăn phù hợp với trẻ
mầm non, nhằm nâng cao chất lượng món ăn, để các cháu được ăn ngon
miệng, ăn hết xuất góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ
trong nhà trường.
13
- Giải pháp 1. Lựa chọn đối tượng hợp đồng.
Yếu tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến chất
lượng hiệu quả công việc, vì vậy để lựa chọn được đối tượng hợp đồng phù
hợp, đáp ứng được yêu cầu công việc thì tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng và
phối hợp với hội cha mẹ học sinh để lựa chọn những người có sức khỏe tốt,
nhanh nhẹn hoạt bát, sạch sẽ, cẩn thận, thật thà …
Chúng tôi yêu cầu thời gian thử việc là 1 tháng, nếu sau 1 tháng mà làm
đáp ứng được yêu cầu của công việc thì chúng tôi mới chính thức ký hợp
đồng.
Giải pháp 2. Phân công, bố trí công việc.
Vì các nhân viên cấp dưỡng có kinh nghiệm làm việc không đồng đều
nên khi phân công công việc tôi đã phải tìm hiểu khả năng của từng người để
phân công công việc cụ thể phù hợp với từng người. Tôi xây dựng bảng phân
công công việc cụ thể đặt tại nhà bếp để nhân tất cả mọi người tiện theo dõi
và nhân viên làm căn cứ thực hiện.
Đối với nhân viên hợp đồng cũ, là người đã có kinh nghiệm nấu ăn tốt
hơn thì tôi phân công phụ trách chính, là người kiểm tra tiếp nhận thực phẩm
đầu vào, chuyên chế biến và nấu các món ăn mặn, bao quát chỉ đạo công việc
chung của bếp.
Đối với hợp đồng mới, do chưa thạo việc, tôi phân công nhiệm vụ
chính là sơ chế thực phẩm, thu dọn vệ sinh các thiết bị máy móc sau khi sơ
chế, chia bát thìa và chuẩn bị các dụng cụ chia ăn, phụ việc cho bếp chính để
có thời gian học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau …
Giải pháp 3. Bồi dưỡngcho nhân viên kiến thức và kỹ năng để nâng
cao chất lượng món ăn.
Vì hầu hết là nhân viên mới hợp đồng, kinh nghiệm chế biến các món
ăn cho trẻ mầm non còn hạn chế, đôi khi làm việc chưa bài bản, nên khi hợp
đồng vào trường chúng tôi đã tổ chức bồi dưỡng một số kiến thức và kỹ năng
cơ bản và cần thiết để nâng cao chất lượng món ăn cho trẻ:
Bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng có thói quen giữ vệ sinh trong công
việc: Giữ vệ sinh cá nhân khi làm nhiệm vụ đối với nhân viên cấp dưỡng là
một yêu cầu tất yếu của một cô nuôi ở trường mầm non. Vì nếu các cô nuôi
không có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân cho mình thì chính các cô lại là nguồn
gây bệnh cho trẻ, dẫn đến không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ,
chất lượng món ăn sẽ không đảm bảo. Chính vì vậy tôi đã bồi dương cho
nhân viên cấp dưỡng một số kiến thức và kỹ năng giữ vệ sinh trong khi làm
việc, thường xuyên nhắc nhở nhân viên tạo cho mình có thói quen vệ sinh cá
nhân và vệ sinh môi trường tốt:
14
- Luôn giữ vệ sinh thân thể và trang phục: Móng tay luôn cắt ngắn, sạch
sẽ, đầu tóc luôn cặp gọn gàng. Rửa tay bằng xà phòng rước khi làm, khi tay
bẩn và có khăn lau tay riêng. Đến trường thay luôn quần áo đồng phục lao
động. Đeo khẩu trang, găng tay, tạp dề và đội mũ khi tham gia tiếp nhận, sơ
chế, chế biến thực phẩm.
Không hút thuốc, nhai trầu trong khi làm việc.
Khi ho, hắt hơi phải tránh, không để dây, bắn vào thực phẩm.
Không tự ý làm việc của người khác nếu không được phân công.
Quyét dọn giữ vễ sinh sạch sẽ nơi làm việc, cống ránh thông thoát, rác
thải tập trung để vận chuyển đến nơi xử lý.
Các thói quen trên tuy rất đơn giản nhưng không phải ai cũng duy trì
thường xuyên để tạo thành thói quen được vì vậy chúng ta phải luôn ý thức tự
giác giữ vệ sinh mọi lúc, mọi nơi và trong mọi công việc.
Tôi trực tiếp tham gia làm cùng và hướng dẫn nhân viên từ việc tiếp nhận
thực phẩm, sơ chế, tẩm ướp cho đến khâu nấu nướng chia ăn để đảm bảo
đúng quy trình và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm … Đối với đầu vào khi
tiếp phẩm phải kiểm tra kỹ lưỡng cả về số lượng và chất lượng thực phẩm,
tuyệt đối không nhận với những mặt hàng không đúng, đủ và không đáp ứng
yêu cầu về ATVSTP ...
Bồi dưỡng cho nhân viên một số kiến thức về vệ sinh an toàn thực
phẩm, cách chế biến các món ăn cho trẻ bằng hình thức trao đổi trực tiếp bên
cạnh đó tôi còn cung cấp tài liệu cho họ tham khảo.
Bồi dưỡng về kỹ năng: Tôi đã trực tiếp tham gia chế biến món ăn cùng
nhân viên và kết hợp hướng dẫn cho nhân viên cách nấu một số món ăn khi
thấy nhân viên làm chưa phù hợp hoặc những món ăn mới như:
Món “Thịt bò hầm của quả” nếu nấu chung thịt bò với củ quả thì thịt
bò sẽ bị dai trẻ không ăn được và của quả có thể sẽ bị cháy bén. Vì vậy khi
nấu món này chúng ta cần nấu riêng từng loại bằng cách thái nhỏ củ quả cho
vào hầm chín nêm mắm muối cho vừa, thịt bò sau khi đã xay nhỏ thì ướp với
dầu ăn cho mềm và xào nêm mắm muối vừa, khi cả 2 loại đã chín thì mới
chộn đều với nhau và đun nhỏ lửa đến khi sủi đều là được, không nấu quá kỹ
sẽ làm cho củ quả chín nhũn mất màu, mùi vị không ngon và không còn đẹp
mắt …
Món “Trứng xào thịt” nếu nấu không đúng cách thì trứng sẽ có mùi tanh
không thơm ngon, vì vậy khi nấu món này chúng ta cần phi hành xào chín
trứng riêng (xào trứng phải chia thành nhiều mẻ nhỏ, đảo đều tay thì trứng
mới tơi và có màu vàng đẹp, nếu nấu nhiều trứng cùng một mẻ sẽ làm cho
trứng vón thành cục không đẹp mắt); xào thịt riêng khi thịt đã chín và nêm vừa
mắm muối thì cho trứng đã chín vào đảo đều và nấu nhỏ lửa khoảng 5 phút
15
- cho hành thơm nấu chín thì bắc ra, lúc đó món ăn sẽ có mùi vị thơm ngon hấp
dẫn, trẻ dễ ăn …
Hướng dẫn nhân viên các món ăn sau khi nấu chín cần chia ngay cho
các lớp để khi trẻ ăn vẫn còn nóng thì mới thơm ngon …
Giải pháp 4. Đầu tư trang thiết bị nhà bếp:
Trang thiết bị, đồ dùng nhà bếp cũng ảnh hưởng đến chất lượng món
ăn của trẻ, nếu sử dụng các thiết bị có chất lượng không tốt sẽ ảnh hưởng
đến chất lượng món ăn và sức khỏe của trẻ … vì vậy trong các năm học
chúng tôi đã dần inoc hóa thiết bị nhà bếp để đảm bảo an toàn vệ sinh trong
ăn uống cho trẻ.
Đến nay thiết bị nhà bếp của trường tôi đã được trang bị tương đối đầy
đủ, như máy xay thịt, máy sấy bát thìa, bồn rửa thực phẩm, bàn sơ chế thực
phẩm, bàn chia ăn, xoong nồi, thìa bát đã đảm bảo 100% bằng chất liệu inox
đảm bảo vệ sinh …
Giải pháp 5. Kiểm tra, đánh giá kết quả, điều chỉnh kịp thời.
Hàng ngày tổ kiểm thực chất lượng của nhà trường thường xuyên
kiểm tra, giám sát nhân viên nhà bếp làm việc, nhận xét, đánh giá việc làm
của từng người, nhắc nhở kịp thời khi thấy nhân viên làm việc chưa đạt yêu
cầu.
Để cô nuôi thực hiện tốt các khâu từ sơ chế thức ăn cho đến chế biến,
tẩm ướp, nấu và chia ăn. Là cán bộ phụ trách nuôi dưỡng tôi đã thực hiện
việc kiểm tra, giám sát bếp ăn thường xuyên, hàng ngày để cô nuôi thực hiện
đúng nguyên tắc bếp ăn một chiều, đảm bảo món ăn đủ lượng, đủ chất và
đảm bảo VSATTP. Mặt khác, tôi còn thử nghiệm cân các loại thực phẩm
trước khi sơ chế, sau khi sơ chế và nấu thành món ăn (có sự chứng kiến của
nhà bếp, giáo viên, phụ huynh và ban giám hiệu) để đảm bảo sự khách quan
trong khẩu phần ăn của trẻ.
Lấy ý kiến nhận xét từ giáo viên về chất lượng chế biến món ăn,
phong cách, tác phong làm việc của nhân viên cấp dưỡng từ đó tôi sẽ góp ý
trực tiếp và đánh giá xếp loại từng người.
Dự giờ ăn của trẻ để quan sát và đánh giá chất lượng các món ăn có
phù hợp với trẻ không, trẻ ăn có ngon miệng ăn hết xuất không để điều chỉnh
cho phù hợp ...
Kiểm tra chất lượng trên trẻ thông qua kết quả cân đo theo dõi trên
biểu đồ tăng trưởng hàng tháng, hàng quý.
+ Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến đã đưa ra được một số giải pháp phù hợp với tình hình thực
tế của địa phương và nhà trường. Giải quyết được một số vấn đề khó khăn
trong quá trình quản lý, chỉ đạo nhân viên thực hiện công tác chế biến món ăn
16
- cho trẻ cho trẻ tại nhà trường. Vì vậy đã gây được ấn tượng và niềm tin của
các bậc phụ huynh đối với chất lượng bữa ăn, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Đội
ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên trong nhà trường đặc biệt là đội ngũ làm công
tác cấp dưỡng đã có những kiến thức về dinh dưỡng cho trẻ mầm non từ đó
đã nâng cao kỹ năng chế biến món ăn đảm bảo chất lượng và phù hợp với
trẻ. Chất lượng bữa ăn của trẻ cơ bản đã đủ lượng, đủ chất đảm bảo thơm
ngon, hấp dẫn trẻ, giúp trẻ ăn ngon miệng ăn hết xuất.
Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng giải pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
+ So sánh lợi ích kinh tế, xã hội thu được khi áp dụng giải pháp trong
đơn so với trường hợp không áp dụng giải pháp đó, hoặc so với những giải
pháp tương tự đã biết ở cơ sở (cần nêu rõ giải pháp đem lại hiệu quả kinh
tế, lợi ích xã hội cao hơn như thế nào hoặc khắc phục được đến mức độ nào
những nhược điểm của giải pháp đã biết trước đó nếu là giải pháp cải tiến
giải pháp đã biết trước đó);
TT Nội dung Trước khi áp dụng đề Sau khi áp dụng đề tài
tài
3/3 nhân viên đã nắm
được kiến thức về vệ
sinh an toàn thực phẩm, có
kỹ năng chế biến các món
2/3 nhân viên chưa có
ăn phù hợp với trẻ, duy trì
kiến thức và kỹ năng về
tốt thói quen giữ vệ sinh
chế biến món ăn cho
cá nhân, vệ sinh môi
1 Về nhân viên trẻ, làm việc theo kinh
trường, đảm bảo các
nghiệm là chính và còn
nguyên tắc chung trong
lúng túng, chưa khoa
khi làm việc tại bếp từ
học.
khi giao nhận, sơ chế, chế
biến thực phẩm đến chia
ăn. Bếp ăn luôn đảm bảo
vệ sinh sạch sẽ.
100% trẻ đã hứng thú với
các món ăn ở trường. Trẻ
Chưa hứng thú với các
tăng cân đạt 96%, tỷ lệ
2 Về trẻ món ăn, ăn còn mang
trẻ suy dinh dưỡng đã
tính ép buộc.
giảm 0,5% so với đầu
năm học
3 Trang thiết bị, 40% đồ dùng bằng Inox 100% thiết bị nhà bếp
đồ dùng bán trú 60% đồ dùng bằng bằng inox
17
- nhôm, nhựa.
Các món ăn đảm bảo
thơm ngon, đẹp mắt, giúp
Các món ăn chưa đẹp trẻ ăn ngon miệng, ăn hết
Chất lượng
4 mắt, chưa ngon miệng, xuất.
món ăn
chưa thu hút được trẻ. Trẻ về nhà còn so sánh bố
mẹ nấu không ngon bằng
ở trường
Từ những kết quả nêu trên cho thấy rằng đội ngũ nhân viên cấp dưỡng
của nhà trường đã có được những kiến thức và kỹ năng cơ bản về dinh
dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, biết chế biến các món ăn thơm ngon, đẹp
mắt, phù hợp với trẻ mầm non, giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn hết suất, trẻ thích
được ăn các món ăn ở trường nấu. Tỷ lệ trẻ tăng cân cao, tỷ lệ trẻ suy dinh
dưỡng, thấp còi giảm đáng kể so với đầu năm học. Bên cạnh đó trang thiết bị
nhà bếp đã được đầu tư và chuẩn hóa.
+ Mang lại hiệu quả kinh tế:
Với mức chi phí để thuê hợp đồng ít nhưng hiệu quả công việc vẫn
đảm bảo.
Đội ngũ nhân viên cấp dưỡng của nhà trường ngày càng có nhiều kinh
nghiệm trong chế biến món ăn cho trẻ.
Trẻ thích được ăn bán trú ở trường, tỷ lệ trẻ tăng cân cao, tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng giảm đáng kể, tạo được niềm tin với phụ huynh học sinh khi cho
con ăn bán trú tại trường.
Trang thiết bị nhà nhà bếp được chuẩn hóa, đảm bảo an toàn cho công
tác bán trú, tạo được uy tín của với phụ huynh học sinh, từ đó phụ huynh học
sinh tin tưởng và gửi con bán trú ngày một đông.
+ Mang lại lợi ích xã hội:
Qua một thời gian rất ngắn, tuy mới hợp đồng nhưng cả 3 nhân viên
cấp dưỡng của chúng tôi đã làm việc rất hiệu quả, cụ thể:
Cả 3 nhân viên đều nắm được kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm,
có kỹ năng chế biến các món ăn phù hợp với trẻ, đảm bảo thơm ngon, đẹp
mắt, giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn hết xuất.
Tỷ lệ trẻ tăng cân đạt 96%, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đã giảm 0,5% so
với đầu năm học.
Qua đợt kiểm tra của trung tâm y tế huyện Bình Xuyên bếp ăn của nhà
trường được đánh giá đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định.
18
- Nhân viên cấp dưỡng luôn duy trì tốt thói quen giữ vệ sinh cá nhân, vệ
sinh môi trường, đảm bảo các nguyên tắc chung trong khi làm việc tại bếp từ
khi giao nhận, sơ chế, chế biến thực phẩm đến chia ăn. Bếp ăn luôn đảm bảo
vệ sinh sạch sẽ.
100% các cô nuôi được khám sức khoẻ định kỳ, được tập huấn các
kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cả 3 nhân viên cấp dưỡng đã làm việc rất nhịp nhàng, ăn ý. Ai được
phân công phụ trách mảng nào thì đã làm rất tốt công việc của mảng đó, biết
hỗ trợ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Các thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không;
Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Về cơ sở vật chất trang thiết bị: Có đủ cơ sở vật chất trang thiết bị
phục vụ công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, thiết bị bán trú.
Đội ngũ CBQL, giáo viên, nhân viên: Đội ngũ cán bộ có năng lực quản
lý, đội ngũ giáo viên yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình trong công tác và có kiến
thức về chăm sóc nuôi dưỡng trẻ mầm non, đội ngũ nhân viên cấp dưỡng có
lòng nhiệt tình trong công việc, ham học hỏi.
Học sinh: Trẻ được ăn bán trú tại trường.
Phụ huynh học sinh: Tích cực phối hợp với nhà trường trong công tác
chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ
quan, tổ chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng
kiến lần đầu (nếu có);
Sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng đại trà trong các trường mầm
non và có thể áp dụng trong chế biến món ăn cho trẻ tại gia đình.
19
- 20
nguon tai.lieu . vn