Xem mẫu

  1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN ÁP DỤNG THÀNH CÔNG THUẾ GTGT CHO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM Ngô Vi Trọng, Lê Hồ An Châu Học viện ngân hàng, Phân viện Tp.HCM 216 Hoàng Diệu 2, Q.Thủ Đức, Tp.HCM Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, hệ thống thuế những năm đầu của thế kỷ 21 đã có nhiều tiến bộ so với hệ thống thuế những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ 20. Ngày nay, hệ thống thuế không đơn giản chỉ bị chi phối mạnh mẽ bởi những nhân tố mới nảy sinh từ tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách nhanh chóng, mà còn là sự cân nhắc tối ưu giữa mục tiêu hiệu quả và công bằng. Vấn đề công bằng và hiệu quả của các sắc thuế nói chung và Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) nói riêng luôn là đề tài gây nhiều tranh cãi. Đây là một bài toán khó đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách khi ban hành một luật thuế mới sao cho vừa đảm bảo tính hiệu quả, khả thi, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của nền kinh tế lại vừa đảm bảo nguyên tắc công bằng để thuế không còn là một áp lực quá nặng nền đối với mỗi cá nhân và doanh nghiệp. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, động viên hợp lý và phân phối hiệu quả mọi nguồn lực nhằm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Thực hiện nguyên tắc công bằng và hiệu quả trong chính sách phân phối lại nguồn thu nhập trong xã hội”. (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX, NXB Chính tị quốc gia, Hà Nội, năm 2001, trang 194) -1-
  2. Luật thuế GTGT ở Việt Nam bắt đầu thực thi từ ngày 1/1/1999, có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi hoạt động kinh tế – xã hội. Vì vậy, khi thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCK) chính thức đi vào hoạt động (ngày 20/7/2000) thì vấn đề thuế GTGT áp dụng cho các hoạt động kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam sao cho công bằng và hiệu quả được đặt ra thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng khác nhau từ các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp cho đến đông đảo dân chúng. Xoay quanh vấn đề thuế GTGT áp dụng cho hoạt động kinh doanh chứng khoán trên TTCK, thực tế trên thế giới có hai quan điểm chính: Quan điểm 1: Không đánh thuế GTGT cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Ở nhiều quốc gia phát triển trên thế giới, nhất là các quốc gia Châu Âu, thuế GTGT không đánh vào các dịch vụ tài chính nói chung và hoạt động kinh doanh chứng khoán nói riêng. Bởi vì thật khó mà xác định phần GTGT phát sinh ở mỗi giai đoạn khi dựa vào các hóa đơn thông thường của các dịch vụ về vốn và tài chính, những dịch vụ có tính linh hoạt cao trong quan hệ mậu dịch quốc tế. Việc đánh thuế GTGT cao có thể chuyển hướng đầu tư của dân cư từ lĩnh vực đầu tư chứng khoán sang các lĩnh vực khác làm nhiều vấn đề trở nên phức tạp trong khi nguồn thu đạt được không đáng kể. Quan điểm 2: Đánh thuế GTGT cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bởi vì, nếu không đánh thuế GTGT cho hoạt động tài chính cũng như hoạt động kinh doanh chứng khoán thì liệu có công bằng hay không khi mà những người có thu nhập thấp phải trả thuế GTGT cho những hàng hóa và dịch vụ thiết yếu trong khi người có thu nhập cao không phải trả thuế GTGT cho việc sử dụng các dịch vụ tài chính? Chính vì vậy, thuế GTGT đánh vào các dịch vụ tài chính thường được các nhà làm luật tránh né hoặc được giải quyết bằng hướng khác như đưa ra một loại thuế có tên là “thuế đánh vào các dịch vụ tài chính” (Financial service tax) với -2-
  3. thuế suất thấp. Thực chất đây là một loại thuế trực thu đánh trên lợi nhuận và tiền lương của các tổ chức tài chính. (Trong khi đó, thuế GTGT là một loại thuế gián thu). Ở Việt Nam, để đảm bảo tính công bằng, việc đánh thuế GTGT vào các dịch vụ tài chính nói chung và hoạt động kinh doanh chứng khoán nói riêng mới hợp lý. Song, việc đánh thuế này cần phải được xem xét ưu đãi trong một thời gian nhất định nhằm tạo điều kiện hoàn thiện Luật thuế GTGT, hoàn thiện TTCK non trẻ, cũng như giải quyết tốt nhu cầu về vốn đầu tư cho đất nước, một bài toán khó trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay. Quyết định số 39/2000/QĐ–TTg của Thủ tướng Chính phủ được ban hành ngày 27/3/2000 và Thông tư số 74/2000/ TT–BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 19/7/2000 hướng dẫn việc tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán là một chính sách hoàn toàn phù hợp. Nhà nước sẽ tạm thời không đánh thuế GTGT đối với các hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong thời gian 3 năm (từ 1/1/2000 đến hết 31/12/2002) bao gồm: hoạt động môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán. Thêm vào đó, ngày 13/6/2000 hệ thống chế độ kế toán áp dụng cho các công ty chứng khoán cũng được Bộ Tài chính ban hành theo quyết định số 99/2000/QĐ – BTC nhằm phục vụ cho công tác quản lý, cung cấp thông tin kinh tế hữu ích cho các nhà đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước (UBCKNN, Bộ Tài chính….). Trong các văn bản trên có quy định khi lập hóa đơn chứng từ thuế GTGT thì dòng “thuế suất GTGT” và “tiền thuế GTGT” không ghi mà gạch chéo; các tài khoản kế toán liên quan đến thuế GTGT như: tài khoản 133 “Thuế GTGT được khấu trừ “ (gồm: tài khoản 1331 và tài khoản 1332), tài khoản 3331 “Thuế GTGT phải nộp” (gồm: tài khoản 33311 và tài khoản 33312). -3-
  4. Thiết nghĩ vấn đề đặt ra ở đây là thời gian ưu đãi thuế GTGT như vậy đã hợp lý chưa? Sau thời gian ưu đãi, hoạt động kinh doanh chứng khoán có thuộc diện chịu thuế GTGT không? Nếu có thì thuế suất bao nhiêu là hợp lý? Chế độ hóa đơn, chứng từ và quá trình hoàn thuế cần thực hiện như thế nào? Để trả lời cho những câu hỏi này, cần phải giải quyết một số khó khăn khi thuế GTGT áp dụng cho TTCK Việt Nam: Thứ nhất, thời gian ưu đãi thuế GTGT của Chính phủ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán là chưa phù hợp với hình tình thực tế. Thực chất TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh khai trương 20/7/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000, nếu tính đến hết ngày 31/12/2002 thì thị trường này hoạt động chưa tới 3 năm. Do đó, khoảng thời gian ưu đãi thuế từ 01/01/2000 đến 28/7/2000 là vô nghĩa. Rõ ràng văn bản pháp luật của Chính phủ về ưu đãi thuế GTGT cho hoạt động kinh doanh chứng khoán chưa căn cứ vào tình hình thực tế của việc thành lập và hoạt động của TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh. Việc đánh thuế GTGT sớm sẽ gây ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của TTCK: ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư, các công ty chứng khoán và Chính phủ chưa kịp thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT cho TTCK Việt Nam. Thứ hai, chế độ hóa đơn, chứng từ và quá trình hoàn thuế GTGT hiện nay chưa được thực hiện một cách khoa học, bỏ sót đối tượng nộp thuế, thời gian hoàn thuế chậm… chưa phù hợp với những hoạt động kinh doanh phức tạp trên TTCK. Để được hưởng ưu đãi về thuế GTGT, các công ty chứng khoán phải hạch toán riêng doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán và sử dụng hóa đơn, chứng từ theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính. Đối với doanh thu không chịu thuế GTGT các công ty chứng khoán vẫn phải sử dụng hóa đơn GTGT, khi lập hóa đơn thì dòng “thuế suất GTGT” và “tiền thuế GTGT” không ghi mà -4-
  5. gạch chéo. Điều này sẽ góp phần tạo thói quen sử dụng hóa đơn GTGT trong các giao dịch hằng ngày, hạn chế tối đa hiện tượng sử dụng hóa đơn giả để moi tiền thuế từ ngân sách nhà nước. Bởi vì những giao dịch chứng khoán trao tay ở Việt Nam mặc dù chưa có một số liệu thống kê chính thức nào về doanh số nhưng con số cũng không phải là nhỏ. Hoạt động này chưa phải nộp thuế và việc quản lý đăng ký giao dịch cũng chưa được thực hiện. Nếu tiếp tục để thị trường này tự do phát triển, không có một sự quản lý đồng bộ về thuế, thông tin thì chắc chắn rủi ro đối với thị trường là lớn. Hoạt động kinh doanh chứng khoán hiện nay không chịu thuế GTGT đầu ra thì hiển nhiên không được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào đối với các hàng hóa hoặc dịch vụ thuộc chi phí liên quan đến hoạt động không chịu thuế. Thủ tục được hưởng ưu đãi về thuế GTGT của Nhà nước không phải là dễ dàng, chỉ có những doanh nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động theo quy định tại Nghị định số 48/1998/NĐ–CP của Chính phủ ban hành ngày 11/7/1998 hoặc văn bản xác nhận niêm yết chứng khoán lần đầu của TTGDCK (đối với tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết). Từ đó, cơ quan thuế là cần phải hoàn thiện hơn nữa tổ chức ngành thuế nhằm quản lý chặt chẽ các đối tượng nộp thuế, thiết kế một qui trình hoàn thuế đơn giản, hiệu quả, tiến tới rút ngắn thời gian hoàn thuế cho doanh nghiệp. Có như thế, khi thuế GTGT áp dụng đối với các dịch vụ tài chính này thì vốn của các công ty chứng khoán mới không bị ứ đọng do bị chiếm dụng. Thứ ba, thuế suất thuế GTGT áp dụng cho TTCK Việt Nam sau thời gian ưu đãi chưa được quan tâm đúng mức. Sau thời gian ưu đãi (31/12/2002), để tạo ra sự công bằng trong quá trình phân phối lại thu nhập, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải chịu thuế GTGT. Mức thuế suất thuế GTGT mà Chính phủ nên áp dụng đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán trong những năm tiếp theo là bao nhiêu thì hợp lý? Mức thuế suất này vừa phải kích thích sự phát triển của TTCK vừa phù hợp với định hướng hoàn thiện hệ thống thuế của Việt Nam nói chung, thuế GTGT nói riêng, khi đó -5-
  6. thuế suất GTGT có hai mức là 5% và 10%. Cách làm này vừa tạo ra một nguồn thu nhất định cho NSNN vừa không gây ra những biến động lớn trên thị trường chứng khoán non trẻ vốn rất nhạy cảm. Tuy nhiên, đến nay Chính phủ vẫn chưa tổ chức thăm dò ý kiến công chúng về việc đánh thuế GTGT với hoạt động kinh doanh chứng khoán để dự đoán mức độ biến động khi áp dụng thuế GTGT cho TTCK mà có biện pháp can thiệp thích hợp nhất. Thứ tư, hệ thống chế độ kế toán áp dụng cho công ty CK chưa được hoàn chỉnh. Hệ thống tài khoản kế toán là phần xương sống của hệ thống chế độ kế toán. Các tài khoản kế toán áp dụng cho công ty chứng khoán được thiết kế trên nền tảng của chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành có bổ sung những tài khoản kế toán đặc thù của công ty chứng khoán. Tuy vậy, hệ thống chế độ kế toán áp dụng cho công ty chứng khoán này chưa hoàn chỉnh là do hệ thống chế độ kế toán ở Việt Nam còn nhiều bất cập và đang từng bước hoàn thiện; Bộ Tài chính chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể đối với việc tính toán thuế GTGT cho hoạt động kinh doanh chứng khoán… Thêm vào đó, hệ thống chế độ kế toán áp dụng cho các công ty chứng khoán được xây dựng chủ yếu theo mô hình lý thuyết chưa có thực tiễn mặc dù có tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới. Nhưng, do điều kiện áp dụng vào thực tế của mỗi nước khác nhau nên không thể áp dụng theo đúng hình mẫu của nước ngoài mà phải vận dụng tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước. Song, trong quá trình thực hiện Việt Nam đã áp dụng một cách cứng nhắc, chưa linh hoạt vận dụng trên cơ sở bám sát chế độ. Thứ năm, bản thân Luật thuế GTGT Việt Nam chưa thật sự hoàn thiện: Thực tế đã chứng minh hiếm có sắc thuế nào của Việt Nam mà ngay từ khi phổ biến để triển khai thực hiện lại phát sinh quá nhiều vướng mắc. Trước ngày thuế GTGT có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, bổ sung cho các -6-
  7. văn bản hướng dẫn thực hiện Luật thuế GTGT đã ban hành trước đó. Tiếp theo, trong quá trình thực hiện hàng loạt các vướng mắc phát sinh và theo đó hàng loạt văn bản khác được ban hành để tháo gỡ. Song, cho đến nay nhiều vấn đề bất hợp lý vẫn chưa được giải quyᲿt triệt để. Những vấn đề này đã có những tác động nhất định đến nền kinh tế, đến hoạt động kinh doanh và gây phản ứng không tốt trong dư luận xã hội. Những vướng mắc cơ bản tập trung ở các mặt sau: − Thuế suất thuế GTGT khá cao: Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế thuế suất thuế GTGT 10% tính cho các mặt hàng tiêu dùng thông thường là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá gặp nhiều khó khăn. Một minh chứng cho thấy mức thuế suất trên là cao, đó là có trên 100 mặt hàng có thuế suất thuế GTGT cao hơn thuế suất thuế doanh thu và Nhà nước đã nhiều lần phải điều chỉnh giảm thuế suất. Mặc dù theo lý luận thuế GTGT do người tiêu dùng trả, không gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng nếu thuế suất cao, giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ sẽ cao, người tiêu dùng khó lòng chấp nhận, tiêu thụ sẽ gặp khó khăn, các doanh nghiệp muốn bán được hàng buộc phải hạ giá bán và bị thua lỗ. Để tránh bị thua lỗ các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất. − Thuế GTGT làm đảo lộn mức thuế phải nộp: Thuế GTGT được thiết kế với những mức thu tương đương thuế doanh thu với mục tiêu ổn định quan hệ phân phối giữa Nhà nước với nền kinh tế xét trên tổng thể, nhưng thực tế nó làm đảo lộn mức thuế phải nộp của các ngành khác nhau. Có ngành thuế GTGT phải nộp nhiều gấp bội so với thuế doanh thu, có ngành lại thấp hơn nhiều. Tương quan phân phối giữa các ngành bị đảo lộn. Vướng mắc phát sinh không chỉ liên quan đến lỗ, lãi, mà còn liên quan đến vấn đề vốn. − Thuế GTGT gây nhiều khó khăn về vốn cho doanh nghiệp: -7-
  8. Quy định phải nộp ngay thuế GTGT đối với những mặt hàng kho, đặc biệt là hàng nhập khẩu nhưng chưa bán làm cho một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề về vốn. Những doanh nghiệp với số vốn ít thì quy định này làm cho họ thật sự điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay nay khi áp dụng luật thuế GTGT phải vay thêm vốn để nộp cho phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay lại càng nặng thêm cho dù sau này sẽ được khấu trừ thuế hay hoàn thuế. Trường hợp các doanh nghiệp bán hàng đại lý khi chuyển hàng cho đại lý phải nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó chỉ khi nào đại lý bán được hàng mới thu được thuế GTGT từ người mua. Như vậy, vốn của các doanh nghiệp bị chiếm dụng một cách bất hợp lý. − Tốc độ hoàn thuế cho doanh nghiệp còn chậm, tình trạng hóa đơn giả ngày càng gia tăng: Quá trình, thủ tục xin hoàn thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức của các doanh nghiệp. Để được hoàn thuế các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ hóa đơn, chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ nhân viên thuế kiểm tra, đối chiếu hóa đơn, vì chỉ có hóa đơn thuế GTGT hợp lệ mới được xem xét khấu trừ thuế. Việc kiểm tra đối chiếu hóa đơn thực hiện bằng phương pháp thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra làm chậm việc hoàn thuế bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác càng thêm khó khăn cho doanh nghiệp. Tính đến hết 6 tháng đầu năm 1999, cả nước mới hoàn thuế được 236 tỷ đồng trên tổng số 350 tỷ đồng xin hoàn thuế của 800 doanh nghiệp tại 49 địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) và tính đến hết tháng 12/1999, tổng số thuế các doanh nghiệp yêu cầu được hoàn đã lên đến con số 2000 tỷ đồng. Sở dĩ công tác hoàn thuế chậm so với thời gian quy định xuất phát từ những lý do chủ yếu sau: + Thủ tục hoàn thuế còn rất nhiều phức tạp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng như rất đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại rất nhiều lần mới có thể hoàn tất được hồ sơ. -8-
  9. + Hiện nay trên thị trường có nhiều loại hoá đơn bất hợp pháp đang lưu hành nên khi tiến hành hoàn thuế, ngành thuế phải mất nhiều thời gian để xác minh tính trung thực của các tờ hóa đơn. Tình trạng gian lận thuế ngày càng trở nên nguy hiểm hơn: hiện nay hoá đơn bất hợp pháp đa dạng và phong phú chưa từng có và trở thành hàng hóa được mua bán công khai. Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan thuế hơn bao giờ hết. Trước đây khi thực hiện thuế doanh thu sử dụng hoá đơn giả chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra, còn bây giờ với hoá đơn giả Nhà nước không những không thu được đồng thuế nào mà ngược lại còn phải chi thêm tiền để hoàn thuế. Bên cạnh đó việc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào không trốn thuế được sẽ mất dần sức cạnh tranh, những cơ sở trốn thuế sẽ có điều kiện hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh, hậu quả là những doanh nghiệp làm ăn chân chính lại bị thua thiệt, sân chơi giữa các doanh nghiệp trở nên bất bình đẳng. Tình trạng này nếu không được ngăn chặn và xử lý kịp thời sẽ làm cho NSNN bị thâm hụt một khoản rất lớn và tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, làm giảm hiệu lực của Luật thuế. + Do bản thân các doanh nghiệp chưa hiểu rõ về chính sách thuế, trình tự, thủ tục hoàn thuế… nên phải mất rất nhiều thời gian để hoàn tất thủ tục. Chẳng hạn, một số doanh nghiệp chưa hiểu rõ số thuế đầu vào được khấu trừ nên kê cả tiền lệ phí, tiền thuê đất, cá biệt có doanh nghiệp còn kê thuế nhập khẩu vào thuế đầu vào để xin khấu trừ. − Do trình độ của một số cán bộ thuế còn hạn chế nên hướng dẫn các đơn vị chưa đầy đủ, chính xác… vì vậy phải mất nhiều thới gian mới hoàn tất hồ sơ. Ngoài ra, các cơ quan thuế còn dè dặt trong việc hoàn thuế vì sợ số liệu trong hồ sơ xin hoàn thuế không chính xác. Một quan chức ngành thuế đã phát biểu thẳng: “Xác minh không kỹ lưỡng, hoàn thuế sai, sau này nếu chẳng may ra tòa, ai là người sẽ đứng ra bảo vệ cán bộ thuế?”. Một số Cục trưởng Cục thuế chưa mạnh dạn giải quyết theo thẩm quyền quy định về hoàn thuế GTGT, -9-
  10. một số cán bộ thuế còn sợ trách nhiệm. Nhưng dường như không ít cán bộ thuế đã quên rằng doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi kê khai man thuế, kể cả số thuế được thoái thu nếu có. Hơn nữa các văn bản pháp quy cũng cho phép cơ quan thuế sau khi thoái thu được quyền kiểm tra nơi xuất hoá đơn, nếu phát hiện có khai man và lậu thuế, doanh nghiệp sẽ bị phạt gấp 3 – 4 lần, chưa kể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hiện nay việc xử lý hoàn thuế GTGT được thực hiện theo trình tự “hoàn thuế trước – kiểm tra sau”. Theo nhận định của các chuyên gia thuế, việc quy định như vậy chính là “cơ hội vàng” cho những doanh nghiệp lợi dụng để chiếm đoạt tiền từ NSNN (nếu bị phát hiện sẽ hoàn lại tiền sau, hoặc, nếu không bị phát hiện sẽ chiếm đoạt luôn). Đặc biệt, do diện doanh nghiệp được hoàn thuế rộng (không chỉ doanh nghiệp xuất khẩu mà cả các doanh nghiệp có thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra trong 3 tháng liên tiếp), thì trong nhiều trường hợp chỉ cần có sự thông đồng nhỏ giữa cán bộ thuế và doanh nghiệp là NSNN có thể mất hàng tỷ đồng một cách nhanh gọn. Ngoài ra, một số doanh nghiệp rút tiền của NSNN bằng cách thông đồng với bạn hàng, cán bộ hải quan, cán bộ thuế… để khai khống số lượng hàng xuất khẩu, nhập khẩu hay tồn kho để có chênh lệch giả tạo giữa thuế đầu vào với thuế đầu ra. Như vậy, bên cạnh những ưu điểm rất lớn vượt trội so với thuế doanh thu thì thuế GTGT còn nhiều tồn tại và vướng mắc do còn nhiều thiếu sót trong khâu chuẩn bị và điều hành. Thêm vào đó, việc áp dụng thi hành thuế GTGT trong điều kiện tốc độ phát triển nền kinh tế có những dấu hiệu suy giảm có phần tác động bất lợi đến sự ổn định và phát triển kinh tế. Thứ sáu, TTCK Việt Nam mới đi vào hoạt động chính thức và còn đang gặp nhiều khó khăn vướng mắc: Đến những tháng đầu năm 2001, các phiên giao dịch trên thị trường chứng khoán mới bắt đầu gia tăng mạnh. Điều đó có nghĩa là doanh thu của các công ty - 10 -
  11. chứng khoán tăng một cách khả quan. Cùng với sự gia tăng doanh thu môi giới, số lượng cổ phiếu lưu ký, số lượng tài khoản và tổng giá trị tiền ký quỹ của khách hàng tại các công ty chứng khoán đang biến thiên theo chiều đi lên. Tuy nhiên, mức độ tăng doanh thu môi giới tăng hàng chục phần trăm vẫn chưa thể cứu các công ty chứng khoán thoát rỏi tình trạng thua lỗ như hiện nay, vì xuất phát điểm của sự gia tăng đó còn quá thấp. Thực trạng này được dự báo có thể kéo dài trong một thời gian nữa vì những lý do chủ yếu sau: − Hoạt động chính của các công ty chứng khoán tại Việt Nam chỉ gồm tư vấn và môi giới kinh doanh chứng khoán bởi vì các công ty chứng khoán chưa có điều kiện để triển khai tối đa các nghiệp vụ chức năng mà họ được phép thực hiện mặc dù các loại hợp đồng đã được một số công ty chứng khoán chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện các giao dịch một cách nhanh chóng góp phần tiết kiệm thời gian, Tư vấn niêm yết cổ phiếu thì các doanh nghiệp chưa mặn mà với việc niêm yết, tư vấn cổ phần hóa thì không thể cạnh tranh nổi với các ban ngành của chi cục tài chính doanh nghiệp địa phương, các công ty kiểm soát. Trong khi chi phí bỏ ra để đầu tư trang thiết bị hiện đại và đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp phục vụ cho TTCK của các công ty môi giới chứng khoán là khá lớn. Do đó, hầu hết các công ty chứng khoán Việt Nam đều rơi vào tình trạng thu chưa đủ bù chi mặc dù đã cố gắng tăng doanh thu và giảm thiểu tối đa chi phí để giữ khách hàng. − Điều kiện niêm yết trên TTCK Việt Nam khá khắt khe, hệ thống giao dịch OTC (Over The Counter Market) của Việt Nam chưa được đưa vào vận hành cùng với việc các công ty cổ phần chưa quen với việc công khai hóa thông tin …. đã góp phần tạo nên sự khan hiếm các công ty niêm yết và hàng hoá trên TTCK làm tăng giá giả tạo của các chứng khoán. Sự tăng giá giả tạo này là do chênh lệch quá nhiều giữa mức cung và mức cầu, chứ không phải gia tăng là do hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có cổ phiếu niêm yết có hiệu quả thực sự. Do vậy, lợi ích của các nhà đầu tư khó được đảm bảo khi cổ phiếu đang nắm giữ không có chất lượng thực sự. - 11 -
  12. Hơn nữa, số lượng hàng hóa trên TTCK vừa ít về chủng loại vừa ít về giá trị niêm yết… chưa đủ sức khơi dậy trong dân cư một kênh huy động vốn đầy tiềm năng đồng thời các công ty chứng khoán cũng khó mà có thể cắt giảm thêm nữa chi phí. − Các công ty chứng khoán tập trung chủ yếu tại Tp. Hồ Chí Minh nên chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư, làm áp lực giao dịch tại TTGDCK cao, hành vi gian lận, tình trạng đầu cơ quá mức vẫn nằm ngoài sự quản lý của UBCKNN và chưa tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. − Trái phiếu Chính phủ, hàng hóa chủ đạo trên TTCK trong giai đoạn đầu, thiếu sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư và dân chúng nên trong một thời gian dài vẫn không có khối lượng giao dịch nào được thực hiện mặc dù giá trị lưu hành của nó lớn nhất trên TTCK. Theo công bố của TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh năm 2000, tỉ lệ khối lượng giao dịch cổ phiếu chiếm 99,41% với tỉ lệ giá trị 97,68%. Trong khi đó, tỉ lệ khối lượng giao dịch trái phiếu (gồm: trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Ngân hàng đầu tư và phát triển) chỉ ở mức 0,59% với tỉ lệ giá trị 2,32%. Từ đầu năm 2001 đến nay, tỉ lệ này cũng không thay đổi bao nhiêu. − Năng lực của đội ngũ nhân viên làm việc trong lĩnh vực chứng khoán còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết của đa số dân chúng về chứng khoán và TTCK còn rất hạn chế. Khi có sự cố hay biến dộng trên TTCK thì đội ngũ nhân viên làm việc trong lĩnh vực chứng khoán cũng lúng túng không kém gì các nhà đầu tư, nên chưa tạo được nơi các nhà đầu tư lòng tin, một yếu tố quan trọng góp phần không nhỏ vào quá trình hình thành và phát triển vững chắc của TTCK Việt Nam. − Hệ thống trang thiết bị kỹ thuật để vận hành hệ thống giao dịch chứng khoán chưa đồng bộ, thông tin cung cấp chưa đáp ứng được nhu cầu. Thêm vào đó, thực trạng yếu kém của hành lang pháp lý cho TTCK Việt Nam đang là một thách thức lớn cho UBCKNN. - 12 -
  13. Cụ thể là hiệu lực pháp lý của các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK vẫn chưa cao vì mới chỉ có Nghị định là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động về chứng khoán và TTCK. Một số điểm liên quan đến phát hành chứng khoán chưa được quy định rõ, như việc phát hành và niêm yết chứng khoán của các Ngân hàng thương mại cổ phần, của các công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài… TTCK Việt Nam vì mới được thiết lập nên hành lang pháp lý về CK và TTCK còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, hệ thống văn bản pháp lý còn mang tính chắp vá, điển hình như Quy chế giám sát và thanh tra chứng khoán, Nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán… đã đưa ra những quy định cấm các hành vi mua bán nội gián, thông tin sai sự thật, lũng đoạn thị trường, bán khống và nhiều hành vi khác. Nếu những tổ chức, cá nhân nào vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Pháp luật. Tuy nhiên, khi dẫn chiếu đến các văn bản pháp luật có liên quan lại không thấy có biện pháp xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Từ những đánh giá ngắn gọn trên, theo chúng tôi, chưa đủ điều kiện để có thể áp dụng thuế GTGT cho hoạt động kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam sau thời gian ưu đãi (sau ngày 31/12/2002). TTCK, kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho Nhà nước và các doanh nghiệp, là một yếu tố hạ tầng quan trọng nhất đối với các quốc gia phát triển theo cơ chế thị trường. Chính vì vậy, trong thời gian tới để TTCK Việt Nam sôi động hơn, thu hút nhiều đối tượng tham gia hơn thì chính sách ưu đãi thuế GTGT hợp lý sẽ là một trong những giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo công bằng xã hội, hoàn thiện TTCK Việt Nam. Song TTCK và thuế GTGT đều là những mảng rất lớn và phức tạp, do đó để áp dụng thành công thuế GTGT cho hoạt động kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam một mặt đòi hỏi phải hoàn thiện về Luật thuế GTGT, hoàn thiện về TTCK Việt Nam mặt khác cần các giải pháp hỗ trợ khác của Nhà nước để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Tuy nhiên, trong bài viết này, tác giả chỉ đưa ra một số giải pháp điển hình như sau: - 13 -
  14. − Bộ Tài chính tiến hành trình Chính phủ chương trình giảm còn 2 mức thuế suất thuế GTGT để đảm bảo nguồn thu cho NSNN trong khi thực hiện lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu khi Việt Nam tham gia AFTA vào năm 2006. Mức thuế suất dự kiến là 5% và 10%. Trong đó, sắp xếp lại để hạn chế các sản phẩm, dịch vụ thuộc nhóm thuế suất 5%, còn lại là nhóm thuế suất 10%, tiến tới áp dụng một mức thuế suất duy nhất là 8% vào năm 2010. Ít mức thuế suất sẽ giảm bớt các kẽ hở khi hành thu thuế, tạo điều kiện dễ dàng để cơ quan thuế kiểm soát. Trước mắt cần rà soát lại hệ thống thuế suất của các loại hàng hóa, dịch vụ, thuế suất của mặt hàng nào chưa hợp lý thì cần điều chỉnh cho phù hợp. Ban đầu khi hạ thuế suất nguồn thu của ngân sách sẽ giảm. Nhưng giảm thuế là một trong các giải pháp kích thích tiêu dùng và đầu tư, tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng tín dụng, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn thu cho ngân sách trong tương lai. − Đẩy nhanh hơn nữa tốc độ hoàn thuế cho các doanh nghiệp, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh bằng cách tăng cường hướng dẫn và giải thích chi tiết về thủ tục hoàn thuế cho các đối tượng xin hoàn thuế nhằm giúp họ chuẩn bị các thủ tục xin hoàn thuế đúng quy định, tránh hiện tượng phải làm đi làm lại nhiều lần mới xong. Nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý hóa đơn, chứng từ, phát hiện và ngăn chặn kịp thời tình trạng mua bán, lập và sử dụng hoá đơn bất hợp pháp bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để kiểm tra chứng từ, đó là cách kiểm tra qua mạng vi tính. Cần có biện pháp xử lý nghiêm minh các hiện tượng gian lận thuế. Để ngăn chặn tình trạng mua bán hóa đơn giả, Nhà nước nên khuyến khích các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hóa đơn thuế GTGT tự in đúng với nội dung quy định thống nhất của Bộ Tài chính. Đẩy nhanh nối mạng phần mềm quản lý thuế trong phạm vi toàn quốc nhằm quản lý chặt chẽ hơn việc phát hành và sử dụng hoá đơn chứng từ của các đối tượng nộp thuế. - 14 -
  15. − Các cơ quan chức năng nên tư vấn Chính phủ tiếp tục gia hạn thời gian ưu đãi thuế GTGT thêm 2 năm nữa, tức là từ ngày 01/01/2003 đến hết ngày 31/12/2004 nhằm tạo điều kiện để TTCK Việt Nam có thể khắc phục khó khăn trong giai đoạn đầu, ổn định và phát triển cũng như có đủ thời gian để hoàn thiện Luật thuế GTGT hiện hành. − Sau thời gian ưu đãi thuế, để tạo ra sự công bằng trong phân phối thu nhập, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải chịu thuế GTGT. Mức thuế suất thuế GTGT mà Chính phủ áp dụng đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán trong những năm tiếp theo (từ 01/01/2005 trở đi) nên là 5%. Mức thuế suất thấp 5% sẽ tạo điều kiện cho TTCK củng cố và phát triển, đồng thời hệ thống thuế của Việt Nam có thể tiến đến hoàn thiện, phù hợp với kế hoạch năm 2006 áp dụng 2 mức thuế suất GTGT là 5% và 10%. − Nhà nước nên tổ chức thăm dò dư luận quần chúng, các nhà đầu tư, các chuyên gia về vấn đề áp dụng thuế GTGT cho TTCK để dự đoán mức độ biến động trong tương lai sau thời gian ưu đãi thuế GTGT, từ đó chủ động chuẩn bị các giải pháp khắc phục. − Một vài giải pháp khác về hoàn thiện TTCK Việt Nam như: + Hoàn thiện và xây dựng các chính sách tài chính để khuyến khích và thúc đẩy việc tạo thêm nhiều hàng hoá chất lượng, mà trước hết là các loại cổ phiếu cho TTCK để giải quyết sự mất cân đối cung – cầu hiện nay. Đồng thời cần xem xét lại điều kiện để niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam hiện nay cho phù hợp tình hình nền kinh tế Việt Nam. + Đánh giá đúng giá trị DNNN cổ phần hoá, giảm khoảng cách giữa giá trị thực và giá trị danh nghĩa của chứng khoán góp phần làm giảm áp lực cung – cầu trên TTGDCK Tp.HCM. + Xúc tiến việc thành lập Hiệp hội chứng khoán Việt Nam, hoàn thiện hệ thống pháp luật cho TTCK cũng như tiếp tục hoàn thiện các phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ để thu hút các nhà đầu tư trên TTCK. - 15 -
  16. + Khuyến khích thành lập các công ty phân tích chứng khoán và TTCK chuyên nghiệp, nghiên cứu thành lập các công ty xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam. + Các cấp, các ngành, địa phương và doanh nghiệp dưới sự chỉ đạo của Chính phủ cần tiếp tục phối hợp để TTCK vượt qua những khó khăn không những trong giai đoạn đầu mà còn trong các giai đoạn tiếp theo… - 16 -
nguon tai.lieu . vn