Xem mẫu
- Mối liên hệ giữa lý thuyết và thực hành phát triển cộng đồng:
đó là trực giác hay là điều không thích hợp?
Nghiên cứu trường hợp New Britain, Connecticut
Zenia Kotval
Zenia Kotval là Phó Giáo sư về Lập kế hoạch vùng và đô thị, và là Giám đốc Hiệp hội
Lập kế hoạch đô thị, Trường Đại học bang Michigan, Hoa Kỳ.
Bài này đăng trên “Tạp chí Phát triển Cộng đồng”, Tập 41, Số 1, Tháng Giêng 2006
Tóm tắt
Trong thực hành lập kế hoạch, thường có những cuộc thảo luận, tranh cãi và mặc cả trước
khi đưa ra một kế hoạch mà hầu hết các bên liên quan đều nhất trí. Nhưng điều gì sẽ xảy
ra khi có sự không tin tưởng một cách sâu sắc giữa các nhà lãnh đạo và người dân, mà
không phải vì một lý do thông thường nào? Phải chăng lý thuyết về lập kế hoạch đã chỉ
dẫn việc thực hành của chúng ta bằng trực giác hay khoảng cách giữa lý thuyết và thực
hành đã tạo ra điều không phù hợp giữa việc phát triển cộng đồng và các nhà lập kế
hoạch chuyên nghiệp? Trong khuôn khổ của các nguyên tắc và lý thuyết lập kế hoạch, bài
báo này sẽ mô tả khung cảnh, các mối quan tâm trong lập kế hoạch, quá trình lập kế
hoạch và đánh giá họat động của một công ty tư vấn lập kế hoạch để tạo sức sống mới
cho Quận doanh nghiệp Broad Street ở New Britain, Connecticut. Bài báo sẽ kết thúc với
những bài học giành cho các nhà lập kế hoạch cũng như các chuyên gia phát triển cộng
đồng hiện đang tham gia vào các dự án lập kế hoạch trong hoàn cảnh có sự chống đối và
xung đột về giá trị.
Mở đầu
Là những nhà lập kế hoạch cho cộng đồng, chúng ta được đào tạo thành những người
giao tiếp giỏi cũng như được dạy cách nhận biết các nhu cầu khác nhau và mục tiêu của
các đảng phái hoặc của dân chúng. Chúng ta biết rõ những điểm mạnh và những thách
thức của các lý thuyết và mô hình lập kế hoạch qua sự đồng hóa và sự hợp nhất (nồi đun
chảy) đối với tính đa dạng (những thứ được sơn phủ bởi văn hóa). Trong khi các lý
thuyết luôn được trình bày một cách biệt lập thì các nhà lập kế hoạch biết rằng các vấn đề
của thế giới thực tế rất hiếm khi tách rời nhau. Hơn nữa, hầu hết các lý thuyết lập kế
hoạch cho cộng đồng đều thừa nhận rằng sự tham gia có thiện chí của một bộ phận công
chúng vào quá trình lập kế hoạch mang ý nghĩa rất to lớn. Không có sự tham gia này, các
nhà lập kế hoạch không biết được nguyện vọng và suy nghĩ của các bộ phận khác nhau
của dân chúng mà họ đang phục vụ (Stain và Harper, 2000).
Trong một dự án lập kế hoạch gần đây ở New Britain, Connecticut, một nhóm các nhà tư
vấn phải đương đầu với tình huống rất khó khăn khi làm việc trong một môi trường thiếu
sự tin cậy của các quan chức lãnh đạo đối với mọi nỗ lực lập kế hoạch. Cư dân và các
bên liên quan thể hiện họ không mong muốn giao tiếp với người ngoài và không sẵn lòng
hợp tác cho lợi ích chung. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, các chuyên gia lập kế hoạch soi
1
- kinh nghiệm của họ vào lý thuyết để hiểu rõ hơn và rút ra bài học từ những thử thách họ
đã trải qua.
Khi áp dụng những nguyên lý của các lý thuyết lập kế hoạch khác nhau vào thực hành ở
New Britain, không có một mô hình cụ thể nào phù hợp. Hơn nữa, khi sử dụng những tài
liệu lập kế hoạch hiện tại liên quan đến chủng tộc, giới, và đạo đức, chúng ta nhìn thấy
rất ít những mối tương tác có thể so sánh của nền văn hóa và việc lập kế hoạch hiện tại.
Trong những phân tích cuối cùng, nếu trường hợp của New Britain không phải là duy
nhất thì chắc là có sự thiếu sót trong các lý thuyết lập kế hoạch hiện nay: các lý thuyết
cho rằng quá trình lập kế hoạch cho cộng đồng định hướng theo mục tiêu sẽ đáp ứng
nguyện vọng và nhu cầu của địa phương. Nhưng làm thế nào để chúng ta lập kế hoạch
với cộng đồng và vì cộng đồng khi mà cộng đồng không tin tưởng, cộng đồng im lặng, và
không tham gia vào quá trình lập kế hoạch? Thật không may, tài liệu lại là thứ im lặng
nhất.
Hầu hết những trường hợp tạo sức sống mới cho cộng đồng, điều thường thấy là các đảng
phái thảo luận, tranh luận và mặc cả trước khi đi đến chỗ hiểu biết lẫn nhau. Nhưng điều
gì xảy ra khi có sự thiếu tin cậy sâu sắc giữa các đảng phái mà những lý do thường không
thể phát hiện ra được? Làm thế nào để các nhà lập kế hoạch xua tan được sự hoài nghi
trong dân chúng và nỗi sợ hãi của chính quyền địa phương, và làm giảm bớt những phản
ứng từ chối hợp tác của chính quyền địa phương để tiếp tục những nỗ lực tạo sức sống
mới cho cộng đồng? Nhóm các nhà tư vấn của chúng ta đã phải đương đầu với những thử
thách đó trong khi họ cố gắng xây dựng một chiến lược tạo sức sống mới cho Quận
doanh nghiệp Broad Street ở New Britain, Connecticut.
Bài báo này mô tả những nỗ lực để đạt được sự hỗ trợ và tôn trọng của các bên, bản chất
của những thỏa thuận đạt được, và những bài học đáng nhớ cho các nhà lập kế hoạch và
các nhà xây dựng cộng đồng đang tham gia vào các dự án trong đó các công dân không
tin cậy chính phủ. Bài báo này cũng cố gắng đặt thực hành phát triển cộng đồng trong
bối cảnh lập kế hoạch và lý thuyết phát triển cộng đồng đồng thời phản ánh những
nguyên tắc có thể áp dụng như giải pháp thực tế cho vấn đề lập kế hoạch.
Con phố và người dân khu phố
Broad Street được xác định là quận thương mại trong thành phố New Britain,
Connecticut. Broad Street được coi như xương sống phục vụ cư dân. Đường phố Bắc-
Nam dài khoảng gần một dặm, bao quanh là phố Columbus, công viên, Phố chính về phía
Đông và công viên Pulaski về phía Tây. Đường phố này được đánh dấu bằng quả đồi với
độ dốc thoai thoải.
Không giống với các khu buôn bán của New Britain, cách đó nửa dặm là Broad Street
luôn hối hả với những hoạt động – đi lại, trao đổi, v.v… Các cửa hiệu trong khu vực rao
bán bằng tiếng Ba Lan hoặc tiếng Tây Ban Nha, và ai cũng có thể nhìn thấy các lá cờ Ba
Lan bay phấp phới nhiều hơn cờ Mỹ. Ở đây không có các cửa hàng trong cùng hệ thống
của một công ty, không có những cửa hiệu lớn, hoặc các cửa hàng tạp hóa tầm cỡ. Việc
2
- chia thành khu vực được chấp nhận khi các vùng đã đủ mạnh, và vẫn chật chội, lộn xộn,
sôi động và đủ kiểu người, đủ thứ mùi, và đủ các loại ngôn ngữ.
Hầu hết các tòa nhà trên phố đều được xây dựng từ đầu thế kỷ và hàng dãy các cửa hàng
buôn bán một tầng được đặt thêm vào phía trước các khu dân cư kiến trúc cao năm hoặc
sáu tầng. Một kiểu đô thị lộn xộn phụ thêm cho việc tạo thành đặc trưng hỗn loạn của cư
dân: những ngôi nhà ván ghép nằm cạnh những tòa nhà gạch, và những ngôi nhà gạch
cạnh những nhà hộp bằng bê tông. Mặt tiền của một số cửa hàng được chăm sóc đẹp đẽ
trong khi các nhà khác không buồn quan tâm đến hình ảnh của họ. Nhưng bằng cách nào
đó họ vẫn tồn tại được. Một số năm qua đã có sự đầu tư đáng kể của nhiều nhà buôn mới
chuyển đến và điều này làm cho các nhà buôn khác phải nâng cấp mặt tiền cửa hàng.
Phần lớn những người sống và làm việc ở Broad Street là thế hệ đầu tiên của người Mỹ
gốc Ba Lan, cùng với những dòng người nhập cư tràn vào ngày càng nhiều từ Puerto
Rican. Cũng giống như hàng triệu người nhập cư trước ở các trung tâm thành phố khác,
người gốc Ba Lan bắt đầu rời khỏi Broad Street. Họ leo dần lên các bậc thang kinh tế và
thích nghi với văn hóa Mỹ, mua nhà ở các khu dân cư có tên tuổi như Berlin,
Southampton, và Rocky Hill.
Khi làn sóng đầu tiên của người Ba Lan nhập cư rời khỏi nơi này đã có 2 hiện tượng xảy
ra. Thứ nhất, có những người Ba Lan mới nhập cư và có những người từ thành phố New
York chuyển đến. Trên thực tế, các công dân địa phương thường hành động như một
“nhà tài trợ” để tìm kiếm các gia đình Ba Lan mới di cư đến và cho họ ở trong những
ngôi nhà hoặc căn hộ bỏ trống. Ngoài ra, cha xứ của trung tâm nhà thờ thiên chúa giáo Ba
Lan đã xây dựng những khu nhà riêng và tìm kiếm các gia đình Ba Lan và cho họ sống
trong khu vực của nhà thờ. Hiện tượng thứ 2 là có nhiều gia đình Puerto Rican chuyển
vào khu vực ven, do giá thuê nhà ở đó rẻ.
Khi văn hóa Ba Lan và Puerto Rican cùng hiện diện, trên bề mặt thể hiện rất ít sự xung
đột về văn hóa. Trên thực tế, đã có một sự việc xảy ra, đó là trong cuộc chạy đua vào
chiếc ghế nghị sĩ tại khu Broad Street, một ứng cử viên tỏ vẻ bài xích người Tây Ban Nha
đã bị đánh trượt. Thông điệp của ông ta đã không tạo được tiếng vang đối với cử tri
Broad Street. Ở cấp độ công chúng, người ta có cảm giác là có sự tồn tại hòa bình giữa
hai nền văn hóa.
Kế hoạch tạo sức sống mới ở Broad Street
Connecticut đã từ lâu được biết đến với những ngôi làng và thị trấn nhỏ xinh đẹp và thịnh
vượng. Nhưng đồng thời các thành phố của nó lại bị liệt vào số những thành phố nghèo
nhất Hoa Kỳ. Gần đây, Bang này đã từng bước tạo sức sống mới cho những khu vực đô
thị như Bridgeport, Waterbury, Hartford, New Haven, New London và New Bitain bằng
cách cấp kinh phí để thành lập Hiệp hội phát triển cộng đồng. Các dịch vụ liên hợp về
nhà ở cho người dân của New Britain đã ngay lập tức tạo sức sống mới cho nhà ở của
người dân Broad Street và tìm kiếm tài trợ cho phát triển kinh tế.
3
- Hiệp hội phát triển cộng đồng nhận tài trợ từ Quỹ phát triển kinh tế cộng đồng, một tổ
chức trợ giúp công cộng phi lợi nhuận, để tiến hành một nghiên cứu hành lang và lên kế
hoạch tiếp thị cho khu vực Broad Street. Việc tài trợ này được khích lệ dựa trên niềm tin
của Hiệp hội phát triển cộng đồng rằng kinh doanh có thể bị hủy hoại bởi dự án đề xuất
nâng cấp đường vì như vậy nền tảng thương mại truyền thống bị xói mòn, và người dân ở
đây cần một trung tâm lành mạnh để phát triển. Một nhóm các nhà tư vấn đã được thuê
để xây dựng kế hoạch này.
Các nhà lập kế hoạch Hiệp hội phát triển cộng đồng nhận thấy những khuynh hướng thay
đổi sau đây của các địa điểm kinh doanh:
• Các cư dân Ba Lan khá giả đã chuyển khỏi nơi này
• Nơi cung cấp việc làm chính của thành phố, công xưởng Stanley đã bị thu hẹp
(công xưởng cách khu phố khoảng 3 tòa nhà)
• Hàng dãy các cửa hàng cạnh tranh mọc lên san sát trong khu phố này
• Những người bán hàng ngày càng biến nơi này thành “điểm đến của chợ đặc sản”
hơn là nơi có thể mua hàng hóa tiêu dùng hàng ngày (thí dụ, chợ bán thịt
Nozewski đều đặn thu hút khách hàng kielbasa cách đấy hàng năm mươi dặm)
• Cửa hàng đầu tiên thuộc hệ thống đã được đề xuất ở khu này
• Cửa hàng đầu tiên giành cho người Tây Ban Nha đã bắt đầu chuyển vào khu
• Cơ sở tài chính duy nhất trong khu là ngân hàng Webster đã đóng cửa
Trong khi khu phố vẫn giữ được hoạt động và tương đối ổn thì đã có một số bằng chứng
về đầu tư của tư nhân. Trước kia, chủ sở hữu doanh nghiệp và các nhà buôn thường nâng
cấp khuôn viên (mặt tiền của cửa hàng) khi được tài trợ kinh phí từ tiền công. Việc nâng
cấp như vậy không được thực hiện khi đòi hỏi tư nhân tự bỏ tiền. Thị trưởng thành phố
đã tuyên bố thẳng thừng là thành phố đã đầu tư cho Broad Street đủ rồi và đã đến lúc các
nhà đầu tư tư nhân phải tiếp tục. Vị thị trưởng đã đúng: các chủ sở hữu tài sản tư nhân tỏ
ra thận trọng trong hoàn cảnh không chắc chắn về kinh tế bằng cách né tránh mạo hiểm
tài chính cá nhân. Căn cứ vào hoàn cảnh trên, nhóm các nhà tư vấn ngay lập tức thiết lập
mối quan hệ công việc với ban giám đốc của Hiệp hội phát triển cộng đồng, Thị trưởng,
và giám đốc lập kế hoạch của thành phố, một người gốc Ba Lan. Hầu như toàn bộ ban
giám đốc và các quan chức thành phố đều thạo cả tiếng Ba Lan và tiếng Anh. Nhưng các
nhà tư vấn thì chỉ biết nói mỗi tiếng Anh.
Ngay lập tức, người ta nhìn thấy rõ là động cơ của cuộc họp trong dự án này khác với
những gì họ đã thấy trong quá trình lập kế hoạch ở những nơi khác: các bên liên quan và
lãnh đạo cộng đồng không biểu hiện một chút quan tâm nào khi tham gia vào dự án. Họ
tỏ ra hiểu biết, tích cực, lịch sự và nhã nhặn nhưng bất cứ cố gắng nào để họ đưa ra sáng
kiến, khuyến khích phát biểu hoặc gợi ý về kế hoạch đều gặp phải sự im lặng không mấy
dễ chịu.
Ban đầu các nhà tư vấn coi đó đơn giản chỉ là “động cơ của cuộc họp”. Từ đó họ tổ chức
những cuộc họp nhỏ hơn với sự tham gia của các thành viên ban giám đốc và người dân.
Những cuộc họp này có khá hơn một chút nhưng kết quả cuối cùng vẫn là “một sự im
lặng đáng kính”. Ngoài ra, mặc dù nhóm các nhà tư vấn đã được giới thiệu là các tư vấn
độc lập làm nhiệm vụ xây dựng một kế hoạch hành động dựa trên sự nhất trí của người
4
- dân, họ vẫn bị coi là người ngoài, làm cho chính quyền địa phương, và bản chất vẫn là kẻ
độc tài.
Cuộc họp đầu tiên của nhóm tư vấn với thị trưởng và giám đốc kế hoạch thành phố cũng
khó khăn tương tự. Vị thị trưởng nói rõ là ông ta không quan tâm đến việc đầu tư thêm
kinh phí cho Broad Street trừ khi có một chiến lược nhằm vào những vấn đề cụ thể của
Broad Street. Cả thị trưởng và giám đốc lập kế hoạch thành phố nhấn mạnh rằng nỗ lực
chỉ ra các khía cạnh không tốt của dự án cải tạo đường đã gặp phải sự im lặng thực sự của
cư dân và các doanh nhân.
Tiếp theo cuộc họp với ban giám đốc Hiệp hội phát triển cộng đồng, cư dân trong khu
vực, và quan cức thành phố, nhóm các nhà tư vấn bắt đầu thu thập số liệu về kinh tế xã
hội và thị trường để làm căn cứ đưa ra kết quả và kiến nghị. Sau khi tổng hợp và phân
tích số liệu, các nhà tư vấn đã trình bày những kết luận chính cho ban giám đốc Hiệp hội
phát triển cộng đồng. Lần này cũng vậy, có rất ít ý kiến thảo luận, mặc dù bản báo cáo
của các nhà tư vấn đã được đọc cẩn thận. Khi các nhà tư vấn trình bày ý tưởng của họ,
người dân tỏ ra bực tức và khó có thể nhất trí với những bước hành động tiếp theo.
Nhóm tư vấn đã quan sát được những điều dưới đây:
• Bộ phận tư nhân không thích dẫn đầu trong việc nỗ lực tạo sức sống mới cho
nền kinh tế
• Thiếu sự tiếp cận thống nhất và điều này làm cho thị trưởng và giám đốc lập
kế hoạch thành phố bực mình
• Cha xứ người Ba Lan, người có quyền lực cao nhất trong khu vực, giữ
khoảng cách và tách khỏi các vấn đề của khu vực trừ những vấn đề có ảnh
hưởng trực tiếp đến nhà thờ của ông và tài sản của nhà thờ
• Chủ sở hữu các tòa nhà, nhà buôn và dân cư tỏ ra toại nguyện là đã có ai đó
đi đầu trong nỗ lực phát triển kinh tế- mà đặc biệt là họ không phải trả bất kỳ
chi phí nào cho những nỗ lực đó
• Cư dân và doanh nghiệp Broad Street coi quá trình lập kế hoạch là hoạt động
tài trợ của chính phủ và vì lý do này họ không tin tưởng và nghi kỵ
• Nhóm các nhà tư vấn làm việc với nhiều cộng đồng có thái độ ghét và không
tin tưởng chính phủ nhưng nhóm tư vấn không thể xác định được mức độ
hoài nghi của họ. Nhóm tư vấn quyết định hỏi giám đốc Hiệp hội phát triển
cộng đồng và một cư dân (người này đồng thời cũng là một nhà lập kế hoạch
của thành phố) về những gì họ quan sát được và những người này đã nhất trí
rằng người dân ở Broad Street luôn giữ khoảng cách đối với chính phủ
Có sự căng thẳng nghiêm trọng giữa những người nhập cư có trình độ, giàu có hoặc có
quyền lực về chính trị và những người vẫn phải tiếp tục vật lộn với cuộc sống. Rõ ràng
một trong những lý do chính của sự bất đồng là vì họ cho rằng nhóm các nhà tư vấn cũng
chính là “chính phủ” hoặc nhóm tư vấn thay mặt cho chính phủ. Họ tin rằng không có
một lợi ích nào được mang đến từ phía chính phủ và vì thế các nhà tư vấn chính là những
người bên ngoài không đáng tin cậy khi đưa thông tin về người dân. Phản ứng đầu tiên
của nhóm tư vấn là giữ khoảng cách giữa họ với tòa thị chính thành phố nhằm thể hiện
5
- với người dân rằng họ không phải là đại diện của chính phủ cũng như họ không làm việc
cho tòa thị chính thành phố.
Do cách làm này càng làm tăng thêm quan điểm cho rằng chính phủ địa phương “tồi”
(nhóm tư vấn không nhất trí với quan điểm trên), nhóm tư vấn quyết định tìm xem nỗi sợ
hãi và sự thiếu tin tưởng chủ yếu của họ đối với chính phủ là gì.
Đương đầu với sự nghi kỵ đó, nhóm tư vấn đã tổ chức một cuộc họp để tìm hiểu xem tại
sao người dân lại có ý nghĩ rằng chính phủ là không thể tin cậy được. Một cuộc phân tích
đơn giản theo phương pháp “SWOT” (Mạnh, Yếu, Cơ hội và Mối đe dọa) được tiến hành
nhằm bắt buộc những người tham gia phải suy nghĩ về những mặt tích cực và tiêu cực
của tòa thị chính. Nhóm tư vấn khuyến khích mọi người thảo luận và hứa sẽ thông tin về
mối quan tâm của người dân đến ngài thị trưởng và giám đốc kế hoạch thành phố.
Cuộc họp đã chuyển sang bàn về quá trình lập kế hoạch. Cuộc thảo luận bắt đầu với
những lời nói về bàn tay độc tài và không cần thiết của chính phủ. Nhưng khi được hỏi
về những quan tâm đặc biệt hoặc thông điệp nào cư dân và doanh nghiệp muốn thông qua
tư vấn để chuyển đến thị trưởng, họ đã đưa ra một danh sách có tính thực tiễn đáng kinh
ngạc, phần lớn là về sự ép buộc của các điều luật địa phương và mối lo ngại của người
dân về an ninh.
Tiếp theo cuộc họp này, nhóm tư vấn tổ chức một cuộc họp với Thị trưởng và giám đốc
kế hoạch thành phố. Điều không ngoài dự kiến là các quan chức địa phương bắt đầu
cuộc họp bằng việc chống chế rằng người dân đã có một lịch sử lâu dài không tôn trọng
chính phủ và không hợp tác với tòa thị chính thành phố. Tuy nhiên, khi nhóm tư vấn
phân tích những kết quả của cuộc họp với người dân, chia sẻ những nhận xét của họ về
điểm mạnh và điểm yếu của hòa thị chính, cuộc họp đã đạt được sự tiến bộ mà không gây
ra sự hiềm khích nào và ngài thị trưởng đã hứa sẽ cử nhân viên và sĩ quan cảnh sát khu
vực đến dự buổi họp tiếp theo. Ý định tốt đầu tiên này của chính phủ cam kết tham gia
vào một cuộc đối thoại có tính xây dựng với người dân đã là một dấu hiệu tốt về sự tin
cậy mà hầu hết các nhóm cư dân đã đánh giá cao.
Từ những cuộc họp và cuộc thảo luận càng về sau càng cho thấy rõ là nhóm tư vấn sẽ
tham gia vào giai đoạn “lập lại kế hoạch” mà trọng tâm sẽ là giáo dục và nâng cao năng
lực. Quá trình diễn ra có tầm quan trọng hơn bất kỳ kế hoạch đồng bộ hoặc đa dạng nào
mà nhóm tư vấn đã từng xây dựng.
Như đã thỏa thuận, nhóm tư vấn đưa ra một chương trình ngắn hạn dễ thực hiện – với
những lựa chọn có tính thực tiễn thay vì một chiến lược tiếp thị toàn diện. Các bước
hành động được chia thành 3 loại:
• Hình ảnh – thực hiện thiết kế và đề cao hình ảnh, với những biện pháp tô điểm
chi phí thấp, cải tiến đường phố và hướng dẫn thiết kế
• Tiếp thị - tiến hành các hoạt động tiếp thị tập trung vào các trung tâm bán lẻ,
các chủ đề quảng cáo và các doanh nghiệp trọng điểm
6
- • Quy vùng và luật lệ - xác định các nỗ lực điều chỉnh theo chương trình định sẵn
của thành phố về thay đổi việc quy vùng và sự ép buộc về luật lệ.
Mỗi hoạt động đề xuất đều được đặt trong một ma trận theo dự toán tiền chi phí và thời
gian cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ. Nhóm tư vấn cũng xác định được con người,
nhóm và tổ chức chịu trách nhiệm chính trong việc thúc đẩy từng hoạt động. Trong khi
các công dân và nhà buôn lắng nghe họ một cách lịch sự, nhóm tư vấn nhận thấy có rất ít
sự nhiệt tình cho bất cứ hành động nào ngoại trừ một giải pháp “ngắn hạn và chi phí
thấp”. Cũng có thể đó là tất cả những gì được chờ đợi. Trong mọi trường hợp, các nhà
tư vấn kết thúc dự án và biết rằng ít nhất thì những người dân cũng đã có một chương
trình ngắn hạn khả thi và hàng loạt các bước hành động có thể thực hiện được.
Đi tìm ý nghĩa: liên hệ lý thuyết với thực hành
Các nhà tư vấn trải qua những cảm giác lẫn lộn khi tiến hành cuộc nghiên cứu hành lang
tại Broad Street. Họ đã giúp cho các vị chủ tịch hiểu rõ hơn về những quan tâm và
khuynh hướng của người dân và nhu cầu đối thoại và can thiệp một cách có kế hoạch.
Họ cũng đã tập hợp một số bước hành động ngắn hạn được coi là tốt để đáp ứng những
quan tâm về quản lý, tiếp thị và thiết kế. Tuy nhiên, các nhà tư vấn đã không mấy thành
công trong việc đưa ra một tầm nhìn dài hạn và một kế hoạch tổng thể với sự hỗ trợ mạnh
mẽ của chính phủ hoặc quỹ công cộng. Để hiểu rõ hơn khó khăn họ đã trải qua trong
việc lập kế hoạch, các nhà tư vấn quyết định tiến hành đánh giá các hoạt động của họ dựa
trên các lý thuyết chuẩn về lập kế hoạch và cố gắng đặt trường hợp này vào một khung lý
thuyết.
Thoạt nhìn thì không có lý thuyết lập kế hoạch nào phù hợp với việc lập kế hoạch cho
người dân ở Broad Street. Cách tiếp cận phù hợp là xem lập kế hoạch như một mô hình
tuyến tính (xác định vấn đề- xác định mục tiêu- đưa ra các khả năng lựa chọn – đánh giá
các khả năng lựa chọn đó – và thực hiện kế hoạch) đã được coi là cái gì đó chắc chắn có
thể áp dụng cho tòa thị chính của New Britain. Lúc đó phương pháp này là của một phía
và không có đóng góp nào của người dân. Do đó, nhìn chung nó được coi là cách tiếp
cận không hoàn hảo đối với việc lập kế hoạch tổng thể và phải có sự nhập cuộc của cộng
đồng.
Giống như mô hình toàn diện và hợp lý, mô hình lập kế hoạch cởi mở (có giao tiếp và
bàn bạc) hiện nay cũng đã không mô tả đầy đủ những điều đã xảy ra trong việc lập kế
hoạch cho New Britain. Lý thuyết cơ bản của mô hình lập kế hoạch cởi mở khuyến khích
các nhà lập kế hoạch tiến hành đối thoại để hiểu được các mối quan tâm, chia sẻ kiến
thức và kinh nghiệm, cởi mở với các viễn cảnh khác nhau và hành động theo các giải
pháp đồng bộ. Nói cách khác, tri thức dẫn dắt hành động (Friedman, 1973, 1987).
Trọng tâm của lập kế hoạch cởi mở nằm ở quan niệm cho rằng con người luôn có lý, sẵn
sàng đối thoại và cởi mở với những quan điểm khác nhau. Cách tiếp cận này dựa trên đối
thoại có ý nghĩa, sự hợp tác, và thương lượng để đạt những kết quả có ích cho mọi người
(Forester, 1989; Innes, 1995). Lập kế hoạch cởi mở là sự bổ sung cho những cái đã có
nhờ việc tập hợp các kỹ năng và chuyên môn khác nhau để chống đỡ với những tình
7
- huống nan giải (Healey, 1999). Lý thuyết này chỉ ra tại sao những người được đào tạo
thành các nhà lập kế hoạch lại đem đến những triển vọng khác nhau về “kiến thức chuyên
gia” có thể bổ sung cho kinh kiệm của những người sống và làm việc tại chỗ chỉ có “kiến
thức dựa trên kinh nghiệm”. Những triển vọng này, mặc cho có sự loại trừ lẫn nhau vẫn
phải phụ thuộc vào nhau và chỉ có đối thoại và tương tác xã hội mới có thể đem lại giải
pháp lập kế hoạch tốt hơn.
Một lần nữa, mô hình lập kế hoạch cởi mở cho thấy rõ ràng là tất cả các đảng phái đều có
lý, sẵn sàng đối thoại và sẵn sàng cùng hành động. Những kinh nghiệm trong quá khứ đã
chỉ ra rằng công dân của Broad Street thể hiện sự thiếu tin tưởng và chống lại chính phủ
đơn giản chỉ vì họ bị chính phủ phớt lờ và họ không được tạo điều kiện để nhập cuộc.
Người dân đã rút khỏi và không hợp sức trong công việc lập kế hoạch. Hơn nữa, điều gì
sẽ xảy ra khi văn hóa giao tiếp có sự khác nhau? Hoặc khi các giá trị về hành vi được
công chúng thừa nhận cũng khác nhau? Theo Burayidi (2000), khi có khoảng cách về
giao tiếp (bằng lời hoặc không phải bằng lời) thì những lợi ích của tương tác xã hội và sự
thương lượng sẽ bị mất đi.
Sự khác biệt trong các hình thức đối thoại có thể thấy từ kinh nghiệm lập kế hoạch của
người dân Broad Street. Burayidi (2000) lưu ý chúng ta rằng xu hướng hội họp – từ địa
điểm, sự tham dự, và lựa chọn chỗ ngồi cho thấy ai là người tham gia một cách tích cực
và ai là người dè dặt và tất cả những điều này ảnh hưởng đến đối thoại (Burayidi, 2000).
Các nhà tư vấn sớm nhận ra rằng những người dân Broad Street không quen với việc đối
thoại; họ chỉ quen lắng nghe. Chia sẻ ý tưởng và mối quan tâm một cách công khai là
điều xa lạ đối với họ. Có nhiều ví dụ cho thấy những yêu cầu về thông tin bị coi là xâm
phạm. Các nhà tư vấn càng đưa ra nhiều câu hỏi thì càng có nhiều người dân ở Broad
Street kiên quyết im lặng.
Tăng cường việc lập kế hoạch với một mô hình lập kế hoạch cởi mở là tập trung vào các
khía cạnh thực tiễn đối với sự thay đổi. Ở đây có sự cần thiết phải đàm phán, thỏa thuận,
và đưa ra tầm nhìn và kế hoạch chung qua đối thoại, thảo luận và hiểu biết lẫn nhau
(Forester, 1989; Beauregard, 2000). Một lần nữa những giả định căn bản là các thành
viên tham gia sẽ cần cởi mở trong các cuộc tranh luận chung, hiểu được những quan điểm
bất đồng, và có thể đạt được sự nhất trí về các vấn đề quan trọng (Hopper, 1992;
Beauregard, 1998).
Công trình lý thuyết lập kế hoạch của Sandercock (1995, 2000) đưa ra một cách nhìn
khác đối với mô hình lập kế hoạch cởi mở. Bà đã chỉ rõ rằng “sự nhất trí” hoặc “sự nhân
nhượng” không phải khi nào cũng là kết quả mà ta mong đợi hoặc nói cách khác có một
quan niệm cho rằng sẽ là tốt nếu sự bất đồng tồn tại cho đến khi bạn hiểu rõ được sự khác
biệt. Thường có sự chống lại việc không nhất trí giữa các nhóm trong cộng đồng và một
cơ cấu chính trị có quyền lực. Theo cách hiểu thông thường thì kết quả tối ưu không nhất
thiết bao giờ cũng là sự nhượng bộ hoặc nhất trí mà là việc hiểu biết sâu sắc hơn những
vấn đề và các mối quan tâm của tất cả các bên tham gia. Quan điểm của Sandercock về
mô hình lập kế hoạch cởi mở là sự ủng hộ đối với các nhóm bên lề xã hội, lợi ích của
nhóm thiểu số, và nhóm bị tước quyền công dân nên được coi là mối quan tâm chính
đáng của các nhà lập kế hoạch (Beauregard, 1998; Sandercock, 2000). Trên thực tế, các
8
- nhà tư vấn đã trải nghiệm sự pha trộn của các lý thuyết và mô hình khi làm việc tại New
Britain, và họ cũng nhận ra rằng các lý thuyết không đứng đơn lẻ cũng như không có một
mô hình nào phù hợp hoàn toàn với hoàn cảnh nhất định. Các nhà tư vấn đã không có ý
định từ trước là sẽ áp dụng nhiều lý thuyết khác nhau để đạt được những kết quả đáng tin
cậy. Thí dụ, khi áp dụng mô hình toàn diện hợp lý, nhóm tư vấn có thể xây dựng một
cách có hệ thống khung lập kế hoạch đơn giản, dễ hiểu giúp cho những người tham gia
hiểu và đoán trước được kết quả. Đem người dân và tòa thị chính xích lại cùng nhau để
hiểu biết mối quan tâm và những nhược điểm của nhau và cùng bắt đầu một cuộc đối
thoại có tính xây dựng có thể không bổ sung được nhiều cho một kế hoạch dài hạn, mà
chỉ đúc rút được điểm mạnh của lý thuyết lập kế hoạch cởi mở. Dựa trên mô hình phát
triển, kế hoạch hình thành theo trực giác, kinh nghiệm, điều chỉnh qua lại, đàm phán, tuân
thủ quy tắc và áp dụng kỹ thuật. Quá trình này có vẻ như rời rạc, vụn vặt, và phi tuyến
tính. Không có hướng dẫn nào, không có tài liệu nào, cũng như không có kinh nghiệm
nào cho việc tìm ra một hướng đi phù hợp. Các nhà tư vấn đã cố gắng đáp ứng các nhu
cầu của cộng đồng bằng bất kỳ cách nào có thể chấp nhận được.
Nhìn lại thì các nhà tư vấn bằng trực giác đã dựa trên các lý thuyết mang tính thực tiễn về
thực hành phát triển cộng đồng (phát triển cộng đồng xã hội) và xây dựng sự nhất trí
trong cộng đồng (Susskind, McKearnan và Thomas Larmer, 1999) như thúc đẩy sự tham
gia tích cực của các đại diện cộng đồng thông qua quá trình cởi mở, nhập cuộc và hiểu
biết; giúp các thành viên của cộng đồng học hỏi và hiểu rõ các vấn đề của cộng đồng
cũng như tôn trọng các ý kiến khác nhau; hoạt động để nâng cao năng lực lãnh đạo; và
xây dựng các chiến lược và các bước hành động để tạo ra một môi trường sống tốt hơn.
Vì thế, phát triển cộng đồng đòi hỏi cả những điều khác hơn là việc tạo ra những chiến
lược ổn định kinh tế và làm giàu. Đó là việc tạo ra những mạng lưới về văn hóa và xã
hội, là việc phân quyền cho người dân với kiến thức và kỹ thuật, và là việc tạo ra những
nơi ở tốt hơn cho cuộc sống và cho công việc.
Các kiến nghị và chuyển giao kinh nghiệm nói trên
Một trong những kết luận chính của nhóm tư vấn là tầm quan trọng của việc “xác lập giai
đoạn”. Không phải ở tất cả các dự án, các nhóm hoặc cộng đồng đều sẵn sàng xây dựng
và thực hiện một kế hoạch dài hạn. Điều kiện chắc chắn trước hết là cần phải có kế
hoạch, đặc biệt là kế hoạch ngắn hạn, và các kế hoạch theo hướng tư vấn đã mang lại
hiệu quả. Ý tưởng tiếp theo được đưa ra trong sự hy vọng giúp các nhà lập kế hoạch và
các chuyên gia phát triển cộng đồng tiếp cận với một dự án tạo sức sống mới theo hướng
cung cấp đầy đủ kiến thức và đưa mọi người vào cuộc. Những nguyên tắc này cũng sẽ là
2 mục tiêu cơ bản của phát triển cộng đồng: (1) tăng cường sự hiểu biết đối với các vấn
đề khác biệt; và (2) tạo điều kiện cho sự nhập cuộc của nhóm thiểu số vào quá trình phát
triển cộng đồng (Phát triển cộng đồng xã hội).
• Hiểu rõ hoàn cảnh: Một cuộc khảo sát ban đầu tốt nhất là do cơ quan chủ nhà
tại địa phương thực hiện. Trong giai đoạn đầu tiên của dự án, kiến thức địa
phương thích hợp và đáng tin cậy hơn nhiều so với những nhận định của
chuyên gia. Trong nghiên cứu trường hợp ở Broad Street, xem xét bước đầu
có thể cho thấy mối quan hệ phức tạp giữa các cấp khác nhau trong các cơ
9
- quan của thành phố, các tổ chức phi chính phủ và cư dân. Điều này có thể
làm cho các phạm vi của dự án trở nên rất khác nhau.
• Nên giải thích thật rõ ràng về quy trình lập kế hoạch và lập kế hoạch là việc
làm cần thiết: các nhân viên có chuyên môn về kế hoạch hoặc về quản lý cần
huy động nhóm quản lý hoặc ủy ban tham gia vào quá trình lập kế hoạch.
Nhóm quản lý hoặc ủy ban phải hiểu rõ khái niệm lập kế hoạch, hiểu được sự
chờ đợi và sẵn sàng tham gia (vào các lợi ích của dịch vụ công cộng), biết
lắng nghe các thành viên và cam kết hành động.
• Tạo ra một quá trình cởi mở và nhập cuộc: Điều này là chìa khóa để đạt
được sự tin cậy và hợp tác của những người cùng chơi khác nhau. Sự chú ý
đặc biệt nên giành cho những người thường không được nhập cuộc vào các
công việc của thành phố. Tiếng nói của nhóm thiểu số phải được lắng nghe
và đảm bảo rằng họ được tham gia. Tham gia vào quá trình sẽ hiệu quả khi
người dân cảm thấy các vấn đề và mối quan tâm của họ được chú ý. Khi có
điều kiện nên để cho các bên liên quan khác nhau tham gia vào thiết kế toàn
bộ quá trình lập kế hoạch. Cách tiếp cận từ dưới lên sẽ bao quát hơn toàn bộ
xã hội, xây dựng dựa trên những mặt mạnh của địa phương và xúc tiến vai trò
lãnh đạo cũng như vai trò sở hữu trong việc nhận diện vấn đề và tìm giải
pháp (Simpson, Wood và Davis, 2003).
• Yêu cầu sự cam kết hành động: Điều quan trọng là phải hiểu được mục tiêu
của các cơ quan lãnh đạo và các vấn đề cần ưu tiên trong quá trình và trong
bản kế hoạch. Cam kết của những người chịu trách nhiệm thực hiện cần phải
được xác định sớm.
• Giải thích về vai trò của chuyên gia hoặc nhà tư vấn: Những dự án ngắn hạn
có nhà tư vấn thường có hiệu quả cao khi xác định rõ ràng được các đề xuất,
hiểu đầy đủ quy trình và phác thảo được những kết quả mong đợi. Nhiệm vụ
của nhà tư vấn là đưa ra được các chiến lược ngắn hạn và dài hạn. “Vai trò
của nhà tư vấn không thiên nhiều về việc sáng tạo ra các bản kế hoạch cho
cộng đồng gánh vác mà phải quản lý kế hoạch bằng năng lực, đưa kiến thức
địa phương và nguyện vọng của người dân vào hành động phù hợp” (Fraser
và Lopofsky, 2004, Tr. 8). Các nhà lập kế hoạch và chuyên gia phát triển
cộng đồng có trách nhiệm đảm bảo rằng những nỗ lực xây dựng cộng đồng
dựa vào người dân sẽ đạt được mục tiêu đầu tiên về việc phân quyền cho
chính người dân và sự thay đổi tích cực trong dân cư (Fraser và Lopofsky,
2004).
• Đảm bảo nâng cao năng lực cho cộng đồng: Khi quy trình hoàn tất, và kế
hoạch đã được xây dựng xong, các tổ chức địa phương phải có khả năng để
thực hiện kế hoạch. Động lực cơ bản phía sau kế hoạch phải là việc nâng cao
năng lực và phân quyền cho lãnh đạo cộng đồng và cho người dân để họ thực
hiện kế hoạch khi không có các nhà tư vấn. Cộng đồng cũng cần phải biết
cách đánh giá những tiến bộ đạt được qua thời gian và đo lường được những
thành công của mình.
Các tư vấn tham gia hỗ trợ việc thiết kế quy trình lập kế hoạch thừa nhận rằng họ là
những người bên ngoài bước vào hoàn cảnh thực tế, thiếu hiểu biết về những điều tế nhị
10
- của các mối quan hệ tại địa phương và lịch sử địa phương, nhưng sau đó họ đã hoàn
thành và để lại cho cộng đồng một bản kế hoạch. Trách nhiệm tiếp tục với bản kế hoạch
và thực hiện kế hoạch là của cộng đồng. Các điều khoản hành động cụ thể sẽ đạt được
những bước tiến xa nếu quá trình xây dựng theo sự liên minh giữa tập thể và tư nhân
đồng thời dựa vào tất cả các bên liên quan.
Ở New Britain, nhóm các nhà tư vấn đã tạo ra những bước vững chắc trong việc xây
dựng một nền tảng vững chắc cho những nỗ lực lập kế hoạch trong tương lai. Thông qua
quá trình học hỏi trên cơ sở được thông tin tốt, được nhập cuộc và công bằng, các mối
quan hệ tốt hơn đã được xây dựng giữa người dân với nhau, giữa các doanh nghiệp và
người dân, và giữa khu vực tư nhân và tập thể. Kết quả công việc của nhóm tư vấn cho
thấy các cư dân trong khu vực, doanh nghiệp và tòa thị chính đã hiểu được rằng việc thảo
luận và đối thoại một cách cởi mở không làm tổn thương lợi ích cá nhân đồng thời cũng
vẫn thừa nhận quyền lãnh đạo.
Tổ chức các cuộc họp quy mô nhỏ tạo ra các nhóm liên kết của dân cư và của doanh
nghiệp cũng như lắng nghe những người muốn nói, phát hiện ra nhóm thiểu số và những
ý kiến chưa phát biểu và dựa trên những mô hình thực tiễn từ các thị trấn và thành phố
tương tự. Tổ chức và điều khiển cuộc họp, điều mà nhiều người cho là hiển nhiên, lại là
yếu tố quan trọng nhất của toàn bộ quy trình lập kế hoạch, giúp cho sự hiểu biết lẫn nhau
nhiều hơn giữa các thành viên tham gia. Chia sẻ những số liệu về thị trường và kinh tế xã
hội của địa phương càng củng cố thêm sự hiểu biết lẫn nhau và đạt được 2 mục tiêu. Thứ
nhất, hành động này chứng tỏ rằng nhiều thông tin mô tả dân cư của Broad Street được
công bố công khai cho dân chúng. Do vậy việc chia sẻ thông tin này không nên bị coi là
việc làm vi phạm lòng tin. Thứ hai, số liệu và xu hướng có thể giúp người dân và doanh
nghiệp hiểu được những gì họ đã trải nghiệm trên thực tế. Họ có thể tự nhìn thấy tại sao
một số doanh nghiệp làm ăn tốt hơn những doanh nghiệp khác, tại sao sở giao thông lại
cần phải hoàn thành dự án xây dựng lại đường hoặc tại sao dân số của nhóm người Tây
Ban Nha lại tăng lên. Nhóm tư vấn đã cố gắng chỉ ra cho người dân ở Broad Street làm
thế nào họ có thể dùng số liệu để học cách diễn tả về sự biến đổi về nhân khẩu. Học hỏi
là việc đòi hỏi cố gắng chứ không phải chỉ là những giải pháp đơn giản.
Kết luận
Tạo ra một cuộc sống và môi trường làm việc tốt hơn thường là mục tiêu của việc xây
dựng cộng đồng và các hoạt động phát triển; khó khăn và các vấn đề thường giống nhau
từ cộng đồng này đến cộng đồng khác. Tuy nhiên, các chiến lược để giải quyết các mối
quan tâm của mỗi nơi và ở mỗi thời điểm lại rất khác nhau. Có những nan giải giống
nhau trong lập kế hoạch, nhưng mỗi địa giải quyết những nan giải đó theo những con
đường khác nhau. Con người làm nên sự khác biệt đó; các công dân, các nhà lập kế
hoạch, các nhà lãnh đạo, tất cả đều đóng góp vào quy trình và đóng góp cho kết quả cuối
cùng theo những cách khác nhau.
Các nhà lập kế hoạch cho cộng đồng cần hiểu về những tác động và tầm quan trọng của
thái độ và quan niệm của người dân trong công việc của họ. Điều này không đơn giản
chỉ là nhận ra được các bên liên quan có nhu cầu và giá trị khác nhau, mà phải thực sự cố
gắng để hiểu và tôn trọng những sự khác biệt của họ. Các nhà lập kế hoạch cần phải
11
- thích nghi với các hình thức đối thoại khác nhau, thay đổi ưu tiên và giá trị khác nhau
theo hướng không phán xét, không đe dọa và không chỉ trích. Điều quan trọng là các nhà
lập kế hoạch đang phấn đấu để đạt được cùng một kết quả cuối cùng: đó là tạo ra một
môi trường tốt hơn về kinh tế, xã hội và thể chất cho cộng đồng và đảm bảo con người
đang đầu tư vốn kinh tế và vốn xã hội đúng chỗ. Có nhiều hơn một con đường, có nhiều
hơn một lý thuyết và nhiều hơn một giải pháp để đạt được mục tiêu này.
Người dịch: Nguyễn Thị Hương,
Cán bộ nghiên cứu,
Viện Xã hội học, Hà nội
12
nguon tai.lieu . vn