Xem mẫu

  1. Khuynh hướng đề cao tính chân thực và tình cảm tự nhiên trong quan niệm văn học thế kỉ XVIII-XIX
  2. Tuy nhiên trong truyện nôm có thể có những đoạn trữ t ình mô t ả cuộc s ống t ình cảm và những biến động tâm lý của các nhân vật. Cũng nh ư vậy, trong ngâm k húc có thể có những đoạn tả truyện, tả cảnh khi kể về những việc g ì đó liên quan đến sinh hoạt của các nhân vật. Sự giao thoa giữa yếu tố trữ t ình và tả truyện, tả cảnh như vậy trong ngâm khúc cũng như trong truyện nôm không thể làm gi ảm tính loại biệt cơ bản của hai thể loại này. Về hình thức nghệ thuật, truyện nôm sử dụng thể lục bát, c òn ngâm khúc s ử d ụng thể song thất lục bát. Ti êu biểu cho thể loại ngâm khúc là các tác p hẩm: Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, Tự tình khúc, Hà Tiên th ập cảnh vịnh khúc… N hư vậy, truyện nôm và ngâm khúc, không những chỉ khác nhau ở phương t hức biểu hiện như truyện nôm với tính chất chủ yếu mô tả, tự sự c òn ngâm khúc với tính chất chủ yếu là tr ữ t ình, không chỉ khác nhau ở hình thức nghệ thuật thơ ca, với truyện nôm là thể lục bát, c òn ngâm khúc là thể song thất lục bát, mà truyện nôm và ngâm khúc còn đ ược phân biệt với t ư cách một thể loại văn học. Các thể loại tự sự (truyện thơ nôm) và tr ữ t ình (ngâm khúc), ở giai đoạn văn học thế kỷ XVIII - X IX đã góp phần thể hiện khuynh hướng đề cao t ình cảm tự nhiên c ũng như khuynh hướng mang tính chân thực gần gũi cuộc sống của th ơ văn t hời kỳ này. Khuynh hư ớng thực tiễn trong sáng tác của thời đại đã đ ược thể hiện trong những quan niệm văn học của thế kỷ XVIII - X IX ở nước ta. Các học giả giai đoạn này đã có những nhận thức mới về hiện thực v à nêu lên được những mệnh đề có hạt nhân duy vật. Lê Quý Đ ôn nói: “Có vật tức là có quy tắc” ( Thư kinh diễn ng hĩa). Trần Danh Lâm lại nói: “Trong khoảng trời đất, vốn có sẵn đạo lý. Đạo lý ấy l à bao la vô cùng. Bản thể của nó rất tinh vi. Công dụng của nó rất r õ rệt” (Tựa Vân đài loại ngữ ). Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác viết: “Nguồn gốc của sự sinh tr ưởng hủy diệ t là do sự vận hành âm dương mà ra” ( Nội kinh yếu chí ). Đó là quan niệm d uy vật về nguồn gốc và bản thể của ý thức và sinh mệnh cũng như mối quan hệ giữa tinh thần và thân xác. Bùi Dương L ịch nói về những hiện t ượng thiên nhiên
  3. như những vận hành vật lý của vũ trụ: “Ngọn núi kia đ ã là nơi đèo heo hút gió, người ta ít đến thì tất nhiên cái khí u ám ngưng kết rất nhiều, chợt có cái khí âm dương va chạm phải, thì nó lập lòe mà thành ra có hình t ượng, cọ sát mà thành ra có t iếng, nó cũng như l âu đài trên ch ợ biển, ma chơi ngoài cánh đồng. Mây đ ùn thì sấm nổ ra, mưa nhiều thì biển đầy rãy, đ ó rõ ràng là những việc của tạo hóa” (Ngh ệ An ký ). N hững quan niệm về yếu tố hiện thực trong sáng tác văn học giai đoạn thế k ỷ XVIII không đ ược phản ánh đậm nét trong những cô ng trình lý luận tiêu biểu c ủa thời đại. Nhưng đây đó ta c ũng thấy thấp thoáng sự phản ánh của nó trong n hững mệnh đề lý luận đ ã đ ược các nhà văn, nhà thơ nêu lên. Quan ni ệm “người c ùng thì thơ mới hay” thực ra đã có t ừ lâu, nhưng đ ến giai đoạn này thư ờng đ ược c ác nhà thơ nhắc đến. Ngô Thì V ị viết: “Thơ đ ến cảnh c ùng quẫn mới hay”. Cao Bá Quát chưa đ ồng t ình với quan niệm “người c ùng thì thơ mới hay”. Ông nói: “ Thơ c ủa người c ùng không phải hết thảy đều hay, cũng nh ư thơ c ủa người đạt c hưa hẳn đ ã không hay” . Tuy nhiên, ông c ũng thừa nhận “người c ùng thơ d ễ hay, n gười đạt thơ c ũng hay” (b ài viết sau tập thơ Tiêu lâm ). N guyễn Án cho rằng: “Thơ có căn bản ở đâu không, đáp rằng có căn bản ở t ình người... Người bị vùi dập, uất ức, ho ài tài phụ khí, sự vật uẩn súc ở t rong lòng, những hình trạng ly kỳ, quỷ quái, phẫn uất lo buồn để lộ ra trong thơ ca nên thường là những giọng tích chứa oán hận, chỉ trích sâu xa, rất u uẩn. Cổ nhân nói: “Ng ười c ùng thì thơ mới hay” chẳng phải là như thế ư” (Bài t ựa Đông dã học ngôn thi ). Đ i sâu vào bản chất quan niệm “người c ùng thì thơ mới hay”, có thể thấy q uan niệm đó phần nào đã nêu lên đ ược nguyên lý thơ phải gắn liền với cuộc sống. Trong giai đo ạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX, quan niệm “văn d ĩ tải đ ạo” của Nho giáo vẫn đ ược các nhà thơ, nhà văn nhắc đi nhắc lại, tuy nhi ên c ó nhiều ng ười nói theo công thức sách vở của thánh hiền, nh ưng b ản chất quan n iệm của họ có khác, Nguyễn Văn Siêu vẫn cho rằng văn do đạo mà ra “Văn với đ ạo tuy khác t ên, nhưng k ỳ thực văn do đạo mà ra”. Song ông lại nói: “... Những b ọn ng ười đi t ìm cái hay trong thơ văn c ũng rất nhiều. Bọn người đi t ìm cái hay ở
  4. t hơ văn, khi t ới rồi cũng chỉ như vậy, mà thơ văn chưa hẳn là hay. Còn b ọn người k hông đi t ìm cái hay ở t hơ văn, khi đ ã t ới th ì không thể lường đ ược, mà thơ văn c hưa hẳn là không hay. Ta hãy xem việc này so sánh với việc trồng cây. Một b ên t hì mở rộng cho cây hàng trăm mẫu ruộng, t ưới cho cây bằng nước sông Giang, s ông Hoài, mong cho thân cây cao trăm trư ợng, sóng gió tôi luyện cho cành c ủa nó, móc mưa d ầm cho gốc của nó, c ành to gốc lớn, mặc ý vươn ra b ốn mặt. Cho nên nó xanh tươi màu mỡ biết bao. R õ ràng là một áng văn chương c ủa tạo hóa. M ột b ên thì thả cho cây một nửa sọt đất, t ưới cho cây bằng nước vũng, nước khe, mong c ho thân cây vừa bằng gang tấc, hôm nay uốn cái c ành, ngày mai t ỉa cái lá, d ọc ngang uốn éo, trăm vẻ đổi thay tuy có giúp vui cho con mắt đ ược phần nào, n hưng cái sinh khí t ự nhiên kia, tránh sao khỏi khô héo mòn mỏi” (Thư gửi Q u ảng Đ ông du t ử Li ên Luân A nh )(2). Với cách đặt vấn đề như vậy cho thấy mối quan hệ giữa văn v à đạo theo quan niệm của Nho giáo đã mờ nhạt đi và thay vào đó là mối quan hệ giữa văn học và c uộc sống. N hà bác học Lê Quý Đ ôn đ ã ý thức đ ược sự chuyển biến trong nhận thức của t hời đại. Ô ng là học giả rất chú trọng đến tri thức thực tiễn. Trần Danh Lâm, một t iến sĩ triều Lê c ũng đã nhận xét về cách làm việc có tri thức khoa học của Lê Quý Đôn: “Không sách gì không đọc, không có sự vật gì không suy xét đến c ùng, ngày t hường ngẫm nghĩ đ ược đ iều gì đều viết thành sách, sách chất đầy bàn, đầy tủ, kể ra k hôn xiết” (Lời tựa Vân đài loại ngữ ). Lê Quý Đ ôn là một trí thức luôn luôn hành động. Đối với ông “học, tri, ngôn” bao giờ cũng phải dẫn đến “hành”. Chính vì thế mà Lê Quý Đ ôn luôn có ý thức c huẩn bị cho mình một học vấn cần thiết. Ông luôn “học” những g ì có lợi cho “ hành”. Ông viết: "Hễ mà ghi nhớ đ ược nhiều lời nói và việc làm... thì ứng dụng vào tâm tư được chính xác, ứng dụng vào sự vật đ ược thích nghi, như thế gọi là học”. Kiến thức để phục vụ cuộc sống, phục vụ xã hội, điều này chúng ta có thể t hấy ở các ý kiến của Lê Quý Đôn về việc học. Học phải có mục đích thiết thực: “ Học giả nên làm văn hữu dụng, không nên nói suông” ( Văn ngh ệ -Vân đài loại ngữ )(3).
  5. C ũng đề cao yếu tố hiện thực trong vă n học, Lê Hữu Kiều nói: “Ba trăm bài trong K inh thi đều là những bài ngâm vịnh tính t ình. Có đ iều người xưa thành thực, k hoáng đ ạt, cho nên có thể cười nói mà thành ra thơ, t ình và cảnh đều đầy đủ, thật là không theo k ịp” ( Tựa T àng chuyết lục). P hạm Nguyễn D u c ũng có quan điểm khác với quan điểm của Nho giáo: “Thơ là một loại nghệ thuật đấy thôi... Các bậc hiền triết có đủ đạo, đức, nhân nh ưng đôi k hi lại kém về bên nghệ thuật. Có lẽ nghệ thuật phần nhiều từ năng khiếu mà ra”(4). Các thi nhân xưa đ ọc “sách vỡ muôn quyển” để sáng tác. Tuy nhi ên học là p hải biến cái kiến thức của ng ười khác thành c ủa mình. Phạm Nguyễn Du đã nói: Ai người h ãy nói với Đông Pha, Ta u ống nơi ông cũng khá mà. Giả thử lời ông ta nhận cả, Ra sao đ ời đối với thơ ca. (Thạch Động thi tập)(5)
nguon tai.lieu . vn