Xem mẫu

  1. Hình tượng anh Khóa trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải
  2. Vẫn biết “nho quan đa ngộ thân” (hay “đa luỵ thân” như Á Nam đã từng lấy bút danh Lụy Giả trong Kim sinh luỵ) nhưng con người nhà nho trong anh Khoá đã mất hết những hùng tâm tráng chí ngày trước. Tuy nhiên hình tượng anh Khoá vẫn mang trong nó ý vị “phiêu lưu” - chữ dùng của Toàn quyền Clôbukôpxki khi nói về những nhà chí sĩ thời đó - và chính là một gợi dẫn cho hình tượng “li khách”, “khách du”, “chinh phu” và môtip “lên đường” trong Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn mà Nhóm Lê Quý Đôn coi “là một thứ “anh Khóa”, một nhà cách mạng mơ hồ nào đó”(10). Bài thơ Tống biệt hành ra đời trong phong trào Thơ mới lấy lại được sự “rắn rỏi, gân guốc”(11) trong “không khí riêng của nhiều bài thơ cổ”(12) (Thi nhân Việt Nam) nhưng không khí thời đại của anh Khoá không hề giống không khí thời đại “phục dựng” của người li khách. Cuộc xuất dương của anh Khoá là cuộc xuất dương sau những đợt khủng bố trắng của thực dân đối với phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục và lúc này tiếng gọi lên đường từ xứ Phù Tang xa xôi cùng âm hưởng của cách mạng Tân Hợi bên Trung Hoa dân quốc lân cận không còn vang vọng mấy. Có những hình tượng vốn có sức gợi lớn trong cuộc sống nhưng khi nhà văn phát hiện ra và đưa vào văn học người ta mới thực sự ngỡ ngàng. Hình tượng anh Khoá là một trường hợp như thế. Trong lịch sử dân tộc, anh Khoá là sự cô đặc không khí thời đại trong sự biểu hiện của một kiểu người. Khi coi anh Khoá (qua thơ Trần Tuấn Khải) là một nhân vật văn hoá là ta đã xem xét hình tượng này trong tính giá trị, tính lịch sử, tính hệ thống mà nó phụ thuộc. Anh Khoá có phải thực sự là một nhà nho duy tân? Hay chỉ là một nhà nho yêu nước? Có lẽ khi tìm hiểu hình tượng này chúng ta chỉ nên tiếp cận có định hướng chứ không nên định nghĩa nó một cách cặn kẽ. Xét từ bản chất của hình tượng ta sẽ thấy: Vào những năm 1910-1920 khi tiếng gươm Cần Vương đã lặng, mọi hoạt động yêu nước của các nhà nho duy tân đi vào bế tắc, con người đau buồn, u uất, băn khoăn, day dứt và hơn hết các nhà nho không chỉ đau nỗi đau mất nước mà còn buồn nỗi buồn của một tầng lớp hết thời đã đi vào quãng chợ chiều. Ở hình tượng anh Khoá không có sự chuẩn bị của những yếu tố có thể tạo ra bứt phá trong tư duy và hành động. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận sự đứt gãy, coi những người xuất dương nói chung đều là những anh Khoá thì hình tượng này lại có một sức sống mới, một khả năng tồn tại và chuyển hoá mới để trở thành những chiến sĩ cách mạng sau này - chứ không
  3. thể phủ nhận lí do Á Nam chọn hình ảnh anh Khoá để nói bóng gió về tất cả những người xuất dương bởi trong mắt ông, và nhân dân lúc đó, nhà nho duy tân vẫn là một chỗ dựa tinh thần, đã tách mình khỏi thể chế quân chủ, gần gũi với nhân dân hơn. Ngay cả người “em” cũng chỉ là một mảnh vỡ phân li của anh Khoá, cả hai đều có khả năng chuyển hoá bởi cả dân tộc luôn thường trực một tâm thế chuyển hoá, chuyển hoá thành một anh Khoá xuất dương, dù cho trong thời điểm đó người ta chỉ còn một lần chót để đua chen đường danh lợi với những khoa thi Hương, thi Hội cuối cùng. Có người đã nói đến điều kiện để trào lưu tư tưởng mới thâm nhập Việt Nam là khi kinh tế tư bản dần xuất hiện và tầng lớp sĩ phu tiến bộ có xu hướng tư sản hoá, nhưng liệu anh Khoá của Á Nam có đáp ứng được yêu cầu có vẻ “cơ bản” đó của tất yếu lịch sử? Tìm lại không khí lịch sử bấy giờ, thời đại hô hào nghĩa hợp quần, tìm sức mạnh của cá nhân trong đoàn thể, chúng ta mới thấy sự lẻ loi của hình tượng anh Khoá. Có lẽ đây cũng chỉ là một “tượng đài” trong “dãy trật tự lí tưởng” của thơ Á Nam như “Nữ Oa”, “dã tràng”, “giọt lệ anh hùng”, “chim tinh vệ”… lẻ loi đơn độc(13). Sự đơn độc ở đây không bi tráng mà chỉ lặng buồn. Phải chăng đây cũng là một mô hình tìm kiếm lẽ sống của nhà nho (mà Phan Bội Châu và Nguyễn Thượng Hiền là hai người tiêu biểu)? Họ có một chút “vốn” kiến thức, danh vọng, uy tín xã hội, khả năng văn hóa… và từ bỏ con đường khoa cử, tự ném mình vào một môi trường văn hoá xa lạ (xuất dương) để mưu cầu cho hoài bão cao cả (cứu nước) mà không hề nghĩ đến minh quân. Nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã sớm nhận ra điều này khi viết Phan Bội Châu niên biểu: “Cũng tưởng dùng văn chương để cổ động, nhưng mình tiếng tăm chưa có, nói mà ai nghe? (…). Tôi mới biết rằng ở đời cần phải lập danh trước mới được”(14). Biểu tượng anh Khoá có tính dân tộc bởi nó mang trong đó sự hoài vọng của mấy chục triệu người lầm than muốn tìm đường. Nếu coi biểu tượng anh Khoá tượng trưng cho những người xuất dương nói chung thì có lẽ đó là một mô hình nhân cách, một mô thức sống dung hợp cả cái cũ và cái mới mà cả những bậc lão thành cũng như những người thiếu tráng đều có thể cùng kinh qua, cùng trải nghiệm. Đã có người nói đến sự giao ban giữa hai thế hệ trong giai đoạn này nhưng chúng ta có thể thấy ngay sự giao ban trong chính con người anh Khoá. Anh Khoá là một chất liệu dân gian mang tính phiếm định, đại diện cho số đông, trong đó có cái không cụ thể của buổi giao thời. Xét một cách cụ thể trong thời điểm ấy, anh
  4. Khoá “lên tàu” không chỉ mang ý nghĩa xuất dương mà có thể chỉ là vào Nam ra Bắc kiếm kế sinh nhai mà những tiểu thuyết kiểu Mồ cô Phượng đã cho ta thấy. Do tính đa diện như vậy nên khó biết là đúng, là đủ khi tìm một tập hợp để xếp anh Khoá của Á Nam vào trong đó. Do sự thâm nhập lẫn nhau của ý nghĩa biểu tượng, sự “ám thị” và “vận vào” của các đối tượng có cùng một bản chất nên cả một thế hệ, một tầng lớp, một kiểu người, một dân tộc, một giai đoạn lịch sử đều tìm thấy hình bóng của mình trong biểu tượng anh Khoá. Đó là một biểu tượng tĩnh tương đối về mặt thời điểm tồn tại mà dấu hiệu bị phá vỡ (là một mẫu người trung bình cộng) lại là tính động bản chất của nó. Hình tượng anh Khoá, ở cấp độ biểu tượng, nó đơn nhất về hình thức và đa dạng về cách giải thích nhưng vẫn chứa đựng sự mặc định về mối quan hệ giữa cái biểu trưng và cái được biểu trưng, như có một lực định hướng từ bên ngoài qui định cho nó. Có lẽ chìa khoá của mã văn hoá này chính là quan hệ giữa ba yếu tố: Truyền thống, Lòng yêu nước, Nhu cầu về một sự đổi thay, mà theo cách hiểu này chúng ta sẽ thấy thấp thoáng hình bóng của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành trong biểu tượng anh Khoá (Người xuất dương năm 1911 và bài đầu tiên trong chùm thơ anh Khoá ra đời năm 1914). Nằm trong mạch văn chương yêu nước đầu thế kỉ XX, chùm thơ về anh Khoá của Trần Tuấn Khải thuộc dòng văn học yêu nước công khai nhưng hình tượng thơ lại quá rõ ràng. Chùm thơ anh Khoá được công bố trong xã hội Pháp thuộc “bước vào một nền nếp mà lưỡi kéo kiểm duyệt bảo vệ”(15) có phải vì nó đi trên “lề đường chật hẹp mà luật pháp của bọn thống trị còn dành cho hoạt động ái quốc”(16) trong khi, theo Phạm Thế Ngũ, “Tản Đà bóng gió dè dặt hơn Á Nam nhiều”(17)? Phải chăng trong mắt thực dân Pháp hình tượng anh Khoá chỉ là sự hợp pháp của cái cũ không còn sức phản kháng mà hồi quang của nó từ phong trào Cần Vương, Duy tân đến lúc đó đã tắt hẳn như vai trò của Phan Bội Châu trong giai đoạn “ông già bến Ngự” sau này? Lúc này anh Khoá là một nhân vật văn hoá mang tính biểu tượng để ngưỡng vọng hơn là một nhân vật hành động trong khi - theo Trần Ngọc Vương - “tư tưởng khá phổ biến trong các nhà nho [lúc đó] là thấy cần con người anh hùng có tài hơn người thánh hiền chỉ có đức, cần người tự nhiệm hành động hơn là những người khiêm cẩn phục tùng”(18). Ở hình tượng này không còn những mưu đồ to lớn, hướng tới vai trò lãnh đạo như trường hợp Phan
  5. Bội Châu. Không có chuyện thực dân Pháp không hiểu những ám chỉ chứa đựng t rong đó, chỉ có điều chúng cảm nhận sự “đe doạ” toát ra từ đó có đủ mạnh hay không mà thôi. Chùm thơ và biểu tượng anh Khoá là một điểm nhấn trong sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải mà bài Mừng anh Khoá về (1975) chỉ là một đoạn vĩ thanh. Giống như trường hợp thơ một bài, thời điểm lịch sử, ngưỡng đón nhận, tâm lí đón nhận của thời đại, việc “chịu ít nhiều ảnh hưởng của lối quần chúng hóa thơ của những nhà cách mạng Đông Kinh nghĩa thục”(19) - như nhận xét của Nhóm Lê Quý Đôn - và việc nó khơi lên được một ý niệm, tâm niệm chung cho rất nhiều người đã tạo thành sức sống của nó, và đến lượt mình, tự nó đã trở thành một giá trị mang tính bền vững, thậm chí đương thời “nhiều cây bút đàn em dựa theo đặt ra các bài tương tự”(20) dù cho đến mức bão hòa thì nó lại trở nên “sáo”(21) (Phạm Thế Ngũ). Khi lịch sử tiến lên, có những hình tượng mới thay thế nhưng nó đã cắm mốc trong văn học sử với tất cả giá trị và ý nghĩa biểu trưng của mình. Có thể bài viết không đi vào nội dung cụ thể của chùm thơ này mà dùng các lí giải bên ngoài để tìm hiểu hình tượng anh Khoá nhưngkhi nhà thơ của mọi thời đại coi trúc là biểu tượng của người quân tử thì ta cũng nên tìm đến bối cảnh của ngày đầu tiên và lầnđầu tiên, trúc trong văn học nghệ thuật trở thành biểu tượng của người quân tử
nguon tai.lieu . vn