Xem mẫu

  1. Bi kịch hóa trần thuật - Một phương thức tự sự (Trên cứ liệu "Cánh đồng bất tận" của Nguyễn Ngọc Tư) V ăn xuôi Việt Nam thời gian gần đây thi ên về t ìm tòi đ ổi mới cách kể. Hứng t hú c ủa các nhà văn c ũng như các nhà nghiên c ứu phê bình là vấn đề cách kể n hư t h ế n ào hơn là vấn đề k ể cái g ì. Đây c ũng là điều hợp quy luật, nó đẩy cách sáng t ạo, cách hiểu, cách tiếp nhận về gần h ơn với đặc tr ưng t hẩm mỹ của văn học. Một t rong nh ững cách kể đ ược nhiều người quan tâm và đ ã có những vận dụng thành c ông nhất định là b i k ịch hoá trần thuật. Ở bài viết này chúng tôi xin đi t ìm hiểu c ách kể này d ựa trên c ứ liệu hai tác phẩm đ ược giải thưởng Hội Nhà văn: C ánh đ ồng bất tận c ủa Nguyễn Ngọc T ư (Giải thưởng năm 2006) và Và khi tro b ụi c ủa Đ oàn Minh Phư ợng (Giải th ưởng năm 2 007). Lý thuyết tự sự tr ước nay ghi nhận hai h ình thức trần thuật c ơ b ản: trần thuật ở ngôi thứ ba (khách quan hoá) v à tr ần thuật ở ngôi thứ nhất (chủ quan hoá). Cách p hân biệt này mới chỉ dừng ở hình th ức bề ngo ài chứ chưa đi sâu vào phương th ức t ự sự b ê n trong. Điều này c ũng chứng tỏ người ta chưa xem ngư ời kể đứng gần hay xa các s ự kiện, nhân vật trong truyện một cách cụ thể. Chúng tôi đặt vấn đề bi kịch hoá tr ần thuật, cụ thể hơn là bi k ịch hoá nhân vật ng ười kể chuyện để t ìm hiểu sâu hơn một b ước cụ t hể hoá hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất. Theo chúng tôi khi
  2. n gười kể đ ược nhân vật hoá sẽ thoả mãn hai chức năng: chức năng miêu t ả ho àn c ảnh, không gian, thời gian, các biến cố sự kiện v à chức năng phát hiện ra thế giới b ên trong c ủa nhân vật người kể c huyện. Người kể không chỉ kể mà còn đ óng vai là một nhân vật, do vậy tất yếu phải biểu hiện những quan niệm, suy nghĩ, t ình c ảm với ngôn ngữ, giọng điệu của một con ng ười cụ thể. V ì thế câu chuyện không c hỉ lôi cuốn sự chú ý của ng ười đọc theo d òng các s ự kiện mà còn lôi cuốn người đ ọc vào c ả lời kể, cách kể. Nhờ thế đ ã tạo ra hai hiệu quả: tạo ra ảo giác ở độc giả về tính khách quan của nội dung câu chuyện v à thể hiện đậm nét dấu ấn chủ quan c ủa người kể chuyện. Điều này đ ã đ ược hai nhà văn Nguyễn Ngọc T ư và Đoàn M inh Phư ợng vận dụng khá thành công trong tác phẩm của mình. 1 . Bi kịch hoá t ình hu ống C húng ta đều cho rằng để tạo ra đ ược một truyện hay ng ười viết phải sáng t ạo ra đ ược một t ình huống hấp dẫn. Ở cả hai truyện C ánh đồng bất tận và Và khi t ro b ụ i đều tạo ra một t ình huống bi kịch. Ở C ánh đồng bất tận là bi k ịch gia đ ình t an vỡ bắt đầu từ chuyện ngoại t ình c ủa người mẹ. Hận đời, hận t ình người cha p hóng l ửa đốt nhà r ồi đ ưa hai con lênh đênh trên chi ếc thuyền nhỏ làm nghề chăn v ịt, nay đây mai đó k iếm sống. Ở Và khi tro b ụi là bi k ịch của một người vợ có n gười chồng chết "bất đắc kỳ tử" v ì tai nạn giao thông. Không chịu nổi nỗi đau, nỗi cô đ ơn, người vợ cũng đi t ìm cái chết bằng cách lên một chuyến xe lửa định đ ến một nơi b ất kỳ và sẽ tự vẫn tr ên c uộc hành trình b ằng cách uống thuốc ngủ. N hững t ình huống này không mới. Chúng đều là những t ình huống bi kịch mang t ính giải thoát. Người cha đ ưa hai con lên một chiếc thuyền cũng là một cách giải t hoát khỏi bi kịch gia đ ình b ị tan vỡ, bi kịch bị phản bội . Hành đ ộng phóng lửa đốt n hà c ủa người cha ( Cánh đồng bất tận ), hành đ ộng rũ bỏ không thương tiếc nhà c ửa, của cải, kỉ niệm của ng ười vợ ( Và khi tro b ụi ) là những hành đ ộng cự tuyệt t uyệt đối với hiện tại. Đó là những hành đ ộng tiêu c ực. Xét d ưới góc độ cấu trúc t hể loại, những t ình huống này tăng cư ờng tính bi kịch cho câu chuyện, lôi cuốn sự c hú ý dõi theo nh ững sự kiện tiếp theo. Không ngẫu nhi ên, hai tác giả đều để cho n hân vật của mình "giải thoát” bằng cách di chuyển trong một không gian vô định. "Cá nh đ ồng" có thể là không gian xác đ ịnh nhưng "cánh đ ồng bất tận" lại là không
  3. xác đ ịnh, không giới hạn, không ph ương hướng. Xét d ưới góc độ ý nghĩa, nó khơi gợi lòng c ảm thương, xót xa cho s ố phận con người, nhất là đ ối với ng ười phụ nữ b ơ vơ "t ứ cố vô thân" nơi đ ất khách (Và khi tro bụi) , với trẻ em nghèo không đư ợc s ự chăm sóc đầy đủ của cha mẹ (Cánh đồng bất tận). 2 . Bi kịch hoá không - thời gian C họn người kể chuyện là một cô gái mới lớn (N ương) thất học chưa t ừng trải c òn ngỡ ngàng trư ớc những sóng gió va đ ập của cuộc đời, hồn nhiên k ể lại chuyện c ủa gia đ ình mình và c ủa chính mình đ ã góp phần tạo ra một đặc điểm dễ thấy ở C ánh đ ồng bất tận là s ự hồn nhiên. Chính điều này đ ã nói rõ mặt mạnh, mặt yếu ( mà chúng tôi s ẽ bàn dư ới đây) ở cây bút trẻ tài năng N guyễn Ngọc T ư thể hiện t rong một truyện vừa gây xôn xao văn đ àn, ngư ời khen rất nhiều, người chê c ũng k hông ít. Mô hình k ết cấu của C ánh đ ồng bất tận ả nh hưởng r õ k ết cấu trong C hí Phèo c ủa Nam Cao, nghĩa là điểm nh ìn tr ần thuật đ ược di chuyển tr ên tr ục thời g ian b ắt đầu từ một thời điểm hiện tại rồi ng ược về quá khứ sau đó lại tiếp tục ở t hời t ương lai. M ở đầu là cảnh một cô gái điếm bị đám đông đánh đập sau đó n gược về quá khứ nói về nguyên nhân gây tan vỡ gia đ ình r ồi lại kể tiếp những c huyện trả hận đ àn b à c ủa người cha và c ảnh người con gái (N ương) b ị c ưỡng hiếp t rên cánh đ ồng. Câu chuyện đ ược mở đầu nói về một hiện t ượng xã hội nhức nhối (t ệ nạn gái điếm) đ ã gây s ự chú ý theo dõi ở người đọc: đây là câu chuyện về sex, về bạo lực hay về số phận một con người đầy bi kịch nào đó… R ồi người kể cứ lái d ần câu chuyện vào nội dung chính bằng cách để cho ng ười kể kể lại chuyện của g ia đ ình "tôi" và c ủa chính "tôi", bằng cách kể n ày đ ã tạo ra ở truyện một hiệu quả n ghệ thuật lưỡng tính. Một là, câu chuyện hồn nh iên như cuộc đời vậy, "tôi" là một cô gái quê mùa chân chất, mộc mạc cứ thật thà kể, hồn nhiên k ể, vì thế mà n gười đọc hầu như không thấy dấu vết của sự hư c ấu. Hai là, thời điểm xảy ra câu c huyện và thời điểm kể rất gần nhau n ên tính thời sự của câu chuyệ n còn t ươi n guyên, nóng hổi như là câu chuyện của ngày hôm nay vậy. Mà đã có tính thời sự, t hì bao giờ cũng mang một độ nhạy cảm chính trị nhất định, nếu cứ hồn nhi ên k ể, t hậm chí quá đ à s ẽ gây ra một hiệu ứng tức thời ở bạn đọc. Thí dụ chuyện dịch c úm gia c ầm là chuyện nhạy cảm, nhà văn lại khoét sâu vào chuyện này thì thật
  4. k hông c ần thiết. Có chi tiết phản hiện thực nh ư nhà văn đ ể cho người nuôi vịt tự vẫn v ì đ àn v ịt của mình b ị tiêu huỷ. Tr ên thực tế việc chính quyền ra lệnh phải n găn chặn nạn dịch là đúng và bao giờ cũng có một sự đền b ù, tất nhiên không th ể t ho ả đáng nh ưng không đ ến nỗi đẩy ngư ời lao động vào bư ớc đ ường c ùng mất hết g ia sản, đến mức phải tự tử. Điều n ày t ạo ra sự phản ứng của một bộ phận bạn đọc là có lý c ủa họ. Một kinh nghiệm rút ra, t rong sáng t ạo nghệ thuật sự hồn nhiên là rất quý nhưng nhà văn không thể ngây th ơ về thời cuộc, ngo ài tài năng, tâm huyết n hà văn c òn phải luôn trau dồi vốn chính trị, nếu không sẽ dễ bị hiểu lầm hoặc sẽ b ị kẻ xấu lợi dụng để bịa đặt, tuy ên truy ền gây ảnh h ưởng không tốt đến d ư luận b ạn đọc. M ột đặc điểm trong cấu trúc nhân vật ở C ánh đ ồng bất tận là nhân vật không hề tĩnh tại mà luôn vận động. Ba cha con N ương làm nghề chăn vịt nên phải lênh đ ênh sông nư ớc nay đây mai đó, chỗ nào vịt có thức ăn thì đ ến, r ồi lại phải tiếp tục ra đi. Rõ ràng nhân vật đ ã b ị đẩy vào một t ình huống mâu thuẫn: c àng tiếp xúc đến mức tối đa không gian vật lý th ì lại c àng hạn chế đến mức tối thiểu không gian tâm t hức vì ít đ ược tiếp xúc với cộng đồng. Nhân vật d ường như ch ỉ sống vớ i chính mình và đ ộc giả bị kéo vào câu chuyện đi theo b ước chân nhân vật để t ìm hiểu c ảnh đất trời sông nước miền cực nam Nam Bộ, nhưng ch ủ yếu là đi theo d òng h ồi t ưởng miên man c ủa nhân vật. V ì người kể chuyện và nhân vật là một nên truyện vẫn chỉ có một đ iểm nh ìn. Cách kể truyền thống thường chỉ sử dụng một điểm n hìn d ẫn đến lời văn một giọng đ ơn điệu. Nguyễn Ngọc T ư đ ã vượt qua thách thức c ủa cách kể chuyện truyền thống, vẫn một điểm nh ìn nhưng là điểm nh ìn c ủa "tôi" - ngôi thứ nhất, điểm nh ìn này luôn d i chuyển tr ên tr ục thời gian gấp khúc (hiện tại - q uá khứ - t ương lai) soi chiếu tr ên một toạ độ không gian rộng n ên đ ã tạo ra ở lời văn mang tính chất nhiều giọng, lời văn hồn nhi ên, tươi non mà nhiều cảm xúc. “ Tôi” trong Và khi tro b ụi hành trình trên c huyến xe lửa để t ìm cái chết thì n gẫu nhiên đư ợc đọc những d òng nhật ký trong một quyển sổ ghi chép của một c hàng trai tr ực đ êm ở k hách sạn. Lại là một cái chết oan uổng khác: một ng ười c hồng giết vợ, đứa con 5 tuổi nh ìn thấy, sợ quá mà b ỏ trốn vào r ừng. N gười anh (Michael) lớn lên cùng một ý chí mãnh liệt t ìm em (Marcus) và tr ả thù cho mẹ
  5. (Anita). “Tôi” (AnMi) t ừ bỏ ý nghĩ tự vẫn mà t ự nguyện dấn mình truy tìm cho ra n gười em Marcus và làm rõ nguyên nhân cái ch ết của người mẹ Anita. C âu chuyện bắt đầu hấp dẫn tr ước hết bởi cái chất “điều tra h ình s ự” của nó. Tiểu thuyết (cứ tạm gọi tr ước như vậy) có kết cấu truyện nọ lồng trong truyện kia với năm sáu lớp truyện mà “tôi” vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật cứ b ước hết từ lớp truyện này sang lớp truyện khác cho đến khi “vụ án” đ ược làm sáng t ỏ. “ V ụ án” kết thúc không tr ùng với kết thúc của tiểu thuyết mà lại tạo ra một kết t húc b ất ngờ khác cho chính “tôi”. Tính chất “ly k ì” c ủa câu chuyện điều tra thể h iện ở những sự bất ngờ từ các n hân vật với các mối quan hệ mới, các lời phủ định hay t ự thú. Chàng trai Michael ph ủ nhận nội dung nhật ký của chính m ình. Ông b ố Kempt t ự thú đ ã giết vợ. Đứa em Marcus bị mất trí nhớ. Cô giáo Sophie (có thể c oi là một nhân chứng trong vụ án) có những lời n g ụy biện che giấu sự thật bằng c ách phân tích tâm lý tr ẻ em rất có sức thuyết phục. Sophie l à tình nhân c ủa ng ư ời c ha (Kempt) r ồi trở thành nhân tình c ủa người con trai (Michael). Tập sách chỉ d ày 185 trang không đ ề t ên thể loại. Có lẽ ý định của tác giả là đ ể cho bạn đọc tuỳ coi đó là truyện vừa hay tiểu thuyết. Theo tôi tập sách có một c ách kể rất tiểu thuyết thể hiện ở sự pha trộn nhiều dạng tiểu thuyết: tiểu thuyết đ ời t ư, tiểu thuyết tâm lý; tiểu thuyết h ình s ự, kết hợp nhiều cách kể: d òng ý thức, đ ồng hiện, đảo trật tự thời gian… v à t ận dụng triệt để hiểu biết của ng ười kể về hội hoạ và âm nhạc, có những trang miêu t ả rất hay đạt đến độ tinh tế v à sâu s ắc hai lĩnh vực nghệ thuật n ày. Có hai tuyến truyện song hành xuyên qua các lớp t ruyện lồng nhau là c huyện của “tôi” và chuyện “vụ án”. Chọn điểm nh ìn tr ần t huật là cái “tôi” trong tình tr ạng cô đ ơn đ ến tuyệt vọng đang đi t ìm cái chết nên k hông hề sợ chết mà do vậy cứ “dấn thân” điều tra các chứng cứ, truy t ìm các tình t iết rối rắm phức tạp của “vụ án”. S ự “dấn thân” này còn c ắt nghĩa ở sự đồng cảm g iữa “tôi” và nhân vật, nhất là với nhân vật Marcus. Nếu “tôi” nh ìn thấy cảnh mẹ b ị chết bom th ì Marcus chứng kiến cảnh mẹ bị giết. “Tôi” v à Marcus cùng có một t uổi thơ trong tr ại mồ côi. Đây là cách chọn điểm n hìn t ối ưu. Điểm nh ìn này lại l uôn đư ợc di động tr ên hai tr ục không gian với các cảnh sống, phong tục, con n gười ở Đức và quê hương sinh ra “tôi”; trên hai tr ục thời gian quá khứ và hiện tại
  6. c ủa “tôi” và c ủa các nhân vật, đã t ạo ra sự đa dạng về bức tran h văn hoá đa s ắc màu đư ợc thể hiện trong tác phẩm. 3 . Bi kịch hoá hoàn c ảnh, tâm lý, tính cách nhân vật N ếu coi C ánh đ ồng bất tận mang một chủ đề báo ứng như có ngư ời đ ã hiểu t hì câu chuyện chỉ là chuyện của một vài ngư ời, của một vài đ ời người. Có lẽ cao hơn thế nữa, lấy chủ đề báo ứng làm điểm tựa, câu chuyện hướng về mọi người, t r ở thành chuyện của nhiều người, của xã hội. Theo tôi truyện đặt ra một vấn đề x ã hội mang tính khẩn thiết về thân phận ng ười phụ nữ nghèo trong xã hội hôm nay. Đ ó là những kiếp người mòn mỏi sống t ù túng nghèo nàn, không yêu thương, k hông hi vọng, sống c ùng tiếng thở d ài buồn não ruột: “ Má tôi th ở d ài khi nghe c ha ghé bến… Má tôi thở dài khi t ắm… Mỗi lần ghe vải ghé tr ư ớc bến, má cũng t h ở dài, tay b ối rối nắm vào hai túi áo mỏng lẹp kép. Thở d ài c ả khi thằng Điền b ảo cho con xin tiền mua kẹo... ”. Đó là những kiếp người phải sống ở vùng khí hậu khắc nghiệt đến mức ước sao tr ước lúc chết “ được tắm một bữa đ ã đời ”. Đó là n hững phụ nữ quê mùa lam lũ bị những ông chồng vũ phu h ành hạ c oi như là con ở , là nô lệ t ình d ục. Đó là thân phận hèn hạ của những cô gái điếm. Đặc biệt l à t hân phận trẻ em nữ như Nương (nhân v ật - người kể chuyện), vì chuyện ng ười lớn mà phải hứng chịu bao nỗi khổ đau vất vả, phải l àm người lớn quá sớm. Ý nghĩa p hổ q uát toát ra t ừ những hiện t ượng này lên tiếng k êu gọi to àn xã hội phải quan t âm hơn nữa, phải có những hành đ ộng thiết thực, cụ thể h ơn nữa để giúp đỡ n hững mảnh đời vất vả khổ sở ấy. Trong khi đó chính những mảnh đời khốn khổ ấ y trong sâu thẳm tâm hồn lạ i mang một vẻ đẹp nhân hậu thiết tha, y êu say đ ắm, yêu hết mình, quên mình và luôn ý th ức về phẩm hạnh người phụ nữ. Như cô gái đ iếm kia v ì kiếm sống mà phải bán thân nhưng vẫn ý thức đ ược giá trị của con n gười, khi bị thiên hạ đánh cũng biết ngậm ng ùi: “ Ăn trên m ồ hôi nư ớc mắt của n gư ời ta nên lâu lâu b ị đánh cũng đáng đời… ”. Nhân vật - người kể chuyện phải hứng chịu tội lỗi của ng ười lớn, bị c ưỡng hiếp nhưng vẫn không hận đời, hận t ình n hư ngư ời lớn mà trái lại đầy niềm tin: “ Đ ứa bé đó, nhất định nó sẽ t ê n là Thương, l à Nh ớ, l à D ịu, Xuyến, Hư ờng… Đứa bé không cha nh ưng ch ắc chắn đư ợc đến t rư ờng, sẽ tươi t ỉnh v à vui v ẻ sống đến hết đời, v ì đ ược mẹ dạy, l à trẻ con, đôi khi
  7. n ên tha thứ lỗi lầm của ng ư ời lớn ”. Đây là nh ững d òng k ết của truyện tạo cho t ruyện mộ t k ết cấu mở, gieo vào ngư ời đọc một niềm hi vọng: con ng ười d ù có p hải sống trong bi kịch nh ưng vẫn ấp ủ một khát khao tin v ào lẽ đời, tin vào tình n gười. Truyện không hề bi quan. C hương 17, trong Và khi tro b ụi là chương quan tr ọng nhất quyết định ý n gh ĩa chủ đề tiểu thuyết, giả sử cắt ch ương này th ì đ ây chỉ là một câu chuyện vụ á n bình thường. Chương 17 c ắt hẳn với mạch chuyện vụ án v à nối vào với chuyện c ủa "tôi". "Tôi" đ ã tìm ra s ự thật của vụ án và c ực kỳ thất vọng về chàng trai M ichael đ ã phản bội chính mình. "Tôi" l ại tiếp tục đi t ìm và đ ã rất gần với cái chết t hì ý thức đ ưa "tôi" về quá khứ c ùng một ấn t ượng tuổi thơ kinh hoàng khắc sâu t rong đáy tim giờ đây sống lại: "Tôi" một đứa trẻ bảy tuổi đang ôm xác mẹ th ì b ỗng nghe tiếng gọi từ đâu đó, tiếng gọi của đứa em gái ba tuổi k êu chị chạy đi. Thế là ngư ời chị ấy v ùng chạy đi để lại xác mẹ và đ ứa em ấy đến nay đ ã 25 năm. M ột chủ đề chống chiến tranh, tố cáo chiến tranh toát l ên day d ứt người đọc. Tại s ao hình ả nh này cho đ ến khi "tôi" "một nửa b ước và o cái chết" mới hiện ra? Điều này không khó c ắt nghĩa. Một là câu chuyện của "vụ án", nhất là các tình tiết về M arcus một đứa trẻ năm tuổi khi thấy mẹ bị giết sợ quá mà chạy vào r ừng trong c ái rét dư ới âm nhiều độ dẫn đến mất trí nhớ đ ã ám ả nh tới "tôi" sâ u sắc. Như vậy, t uy là hai câu chuyện nh ưng lại có mối li ên hệ với nhau rất chặt như mạch chìm c ủa tiểu thuyết. Mạch ch ìm ấ y là tình th ương, là s ự đồng cảm của hai bi kịch, hai s ố phận d ù trong những t ình c ảnh khác nhau. Hai là, khi gần cái chết người ta t hường nghĩ về nơi sinh ra, d ĩ nhiên là suy ngh ĩ ấy thường neo lại nơi những ấn t ượng không bao giờ quên, nhất là ấ n t ượng tuổi thơ. "Lá r ụng về cội". Một chủ đề c hính c ủa tác phẩm rộng hơn nhiều chủ đề tố cáo chiến tranh, chủ đề chạy trốn sự c ô đơn hay bi k ịch về sự phản bội chính m ình…, đ ó là chủ đề Q uê hương cứu vớt c on người. "Tôi" quyết định không chết nữa mà phải sống để quay trở về qu ê hương t ìm lại đứa em ba tuổi ngày trư ớc. Cái kết này ứng với câu thơ c ủa Henry V aughan đư ợc tác giả lấy làm đ ề từ, ng uyên văn tiếng Anh là: And when this dust falls to the urn/ In that state I came, return. Có ngh ĩa là Và khi tro b ụi r ơi về/ T rong lúc đó tôi s ẽ quay trở lại, được tác giả dịch thơ: Và khi tro b ụi r ơi về/ Trong
  8. t hinh l ặng đó, cận kề quê hương. Đây c ũng chí nh là tâm tr ạng của hàng triệu n gười Việt xa xứ v ì chiến tranh đang mong ngóng từng ng ày tr ở về Đất Mẹ. Tiểu t huyết đ ã góp một tiếng nói làm xích lại gần hơn những đứa con xa quê xa đất nước. N hư vậy, cách kể bi kịch hoá trần thuật đ ã góp phần làm nên thàn h công c ủa C ánh đ ồng bất tận và Và khi tro b ụi. M ột cách kể mang đậm dấu ấn của "tôi", n hân vật - người kể chuyện. Ứng với cái "tôi" n ày, lời văn trong C ánh đ ồng bất t ận đầy khẩu ngữ, đậm đ à phong v ị dân gian Nam bộ chân chất, hồn nhi ên. Còn lời văn trong Và khi tro b ụi lại hiện đại với lối văn phân tích sắc sảo, không kể lại sự v iệc mà là phân tích s ự việc, không miêu t ả trạng thái tâm lý mà là phân tích tâm l ý. Phép liên t ưởng và trùng điệp đ ược sử dụng rất hiệu quả. Các câu văn cứ nối vào nhau, móc vào nhau đ ể biểu hiện các liên tư ởng, các hồi ức của nhân vật cũng là c ủa người kể xưng "tôi". Giả sử đặt hai câu chuyện n ày sang một ngôi kể khác, c ách kể khác, hiển nhiên truyện sẽ có một điểm nh ìn khác, các s ự kiện sẽ đ ược p hản ánh, phân tích d ưới một hệ quy c hi ếu khác, do vậy tác phẩm sẽ có một h ình t hức khác, một nội dung khác 
nguon tai.lieu . vn