Xem mẫu
- Baudelaire dịch Poe: Sự tái cấu trúc bản
sắc
1. Poe và Baudelaire dường như đã phát triển cái có thể mô tả như là
quan hệ cha-con hay thầy-trò. Người sau đã dành nửa đời mình cho vi ệc
dịch sang tiếng mẹ đẻ các truyện cổ của Edgar Allan Poe và nửa đời còn
lại cho việc sáng tạo một thứ thơ ít nhất có thể nói là lấy cảm hứng từ nhà
văn Mỹ. Ảnh hưởng đích thực của Poe là không thể phủ nhận và biểu hiện
đặc biệt trong tập Les Fleurs du Mal (Hoa ác), gần gũi với tinh thần “chán
chường” của Poe và sự phá hủy có hệ thống các nguyên lý lãng mạn đến
mức nhiều nhà phê bình ngờ vực về sự giống nhau tinh thần này.
Baudelaire công khai thừa nhận Poe đã có tác động rõ rệt đ ến sự nghi ệp
riêng của ông nhưng ông dứt khoát bác bỏ mọi lời cáo buộc tội đạo văn khi
ông tuyên bố với Edouard Manet, một họa sĩ phái Ấn Tượng: “Anh có bi ết vì
sao tôi dịch Poe một cách kiên nhẫn vô bờ vậy không? Đấy là vì ông ta
giống tôi! Lần đầu tiên lật mở một cuốn sách của ông, tôi đã vừa sung
sướng vừa run sợ phát hiện ra trong đó không chỉ những chủ đề tôi đang
mơ ước, mà hẳn cả những câu tôi đang mường tượng đã được ông vi ết ra
hai mươi năm trước”. Những lời đó gợi nên một mối quan hệ đặc biệt, khác
thường mà ở đây chúng ta sẽ thử tìm hiểu. Liệu có tìm được lời giải thích
hợp lý nào cho sự hấp dẫn lạ lùng của Poe đối với Baudelaire hay đó chỉ là
sự thể hiện quá trình tâm lý vô thức của việc nhận dạng?
Dịch thuật: Một quá trình “hút máu”?
2. Trở lại những năm 1850, Baudelaire đã dành thời gian của ông đ ể
khôi phục sự nghiệp của Poe ở Pháp thông qua việc dịch các truyện cổ và
- thơ của Poe và viết lời giới thiệu cho các bản dịch đó. Để nâng cao vốn
tiếng Anh còn khá nghèo nàn của mình, Baudelaire th ường tìm đ ến các
quán rượu ở Paris nơi các quý ông quý bà Anh quốc thường tụ tập đ ể vừa
uống rượu vừa chuyện gẫu với họ. Baudelaire có thói quen gọi Poe là
“người anh em của tôi, người giống tôi” và cũng như tình huynh đ ệ văn học,
họ chia sẻ cách nhìn thế giới rất giống nhau, đặc biệt hơn, chia sẻ quan
niệm về tính hiện đại. Đối với họ, tính hiện đại là sự kết hợp của tự do và
sự tự khẳng định, do vậy sự tiến bộ không thể có được nếu con người bị
phụ thuộc hoàn toàn vào xã hội mà hắn sống. Baudelaire là một trong
những trí thức Pháp đầu tiên viết về khái niệm tính hiện đại và cố gắng tìm
cách xác định lý thuyết cho nó, đấy cũng chính là điều Poe gắng làm, dù là
theo một cách thực dụng hơn, qua các tác phẩm của ông. Trong bài
viết Họa sĩ của đời sống hiện đại, Baudelaire định nghĩa tính hiện đại là “sự
nỗ lực thường xuyên thoát khỏi cái nhất thời”, sáng tạo là quá trình kế ti ếp
nhau không ngừng nghỉ của cái sống và cái chết.
3. Tính hiện đại có thể được coi là cái còn lại nguyên vẹn và cuối
cùng không chết đi sau những chuỗi hủy hoại nhỏ này. Sự say mê của Poe
với cái chết, lối dẫn duy nhất đến cái vĩnh hằng, vén lộ sự say mê sâu hơn
với tính hiện đại mà Baudelaire đã mô tả như là sinh ra bền vững từ sự hủy
diệt. Baudelaire, giống như Poe mấy năm trước ông, biết rằng thời đại ông
không đi về tính hiện đại và dường như không có cái gì mới mẻ và mang
tính xây dựng sinh ra từ đống tàn phá của sự tiến bộ - tất nhiên là không có
trạng thái thăng bằng đạo đức và tâm thức của con người hiện đại. Cái
Baudelaire thấy là một trong những thế giới “chán chường” vây quanh ông.
Từ “spleen” tiếng Anh thay từ tiếng Pháp ennui mà Baudelaire hay dùng
trong thơ ông để biểu hiện những sự lôi cuốn ác quỷ hay những xung năng
xấu xa kéo chủ thể đi xuống sự tự hủy và gây ra trạng thái đau khổ và trầm
uất tinh thần. Hình bóng gã phóng đãng (dandy) hi ện đ ại nổi lên t ừ chính
trạng thái trầm uất này. Lang thang trên các đường phố của những thành thị
lớn, gã phóng đãng đi tìm kiếm cái đẹp và sự quá khích: “Là người thanh
lịch ẩn danh, gã phóng đãng dạo gót qua các phố phường, luôn bi ết rõ
- những khả năng quá khích đang chờ” (Komins).
4. Trong truyện Con người giữa đám đông của Poe, người kể chuyện
là một gã phóng đãng để thời gian bám theo một người trong đám đông.
Hắn bị hút hồn theo người lạ mặt nhưng rốt cuộc nhận ra rằng hắn không
thể nào thiết lập được mối tiếp xúc nào với ông ta khi “con người giữa đám
đông” không phải là kẻ phóng đãng mà là một cá nhân bị xã hội trong đó
ông ta sống trù dập và làm mất tính người: “Ông già này, sau cùng tôi nói, là
một điển hình và một thiên tài của một tội ác bí hiểm. Ông ta từ chối trở
thành đơn độc. Ông ta là con người giữa đám đông. Theo đuổi ông ta là vô
ích vì tôi sẽ chẳng biết được gì hơn về ông ta cũng như những hành vi của
ông ta”. Như vậy, cùng với sự thối rữa của con người bị chìm ngập trong
hoàn cảnh chán chường bất khả kháng này, đây là sự thực cho thấy tình
trạng mất ý nghĩa tồn tại của con người khi bị biến thành nạn nhân của sự
tiến bộ. Tiến bộ bị Baudelaire xem đúng như cách Poe xem chủ nghĩa v ật
chất và chủ nghĩa thực lợi, tức là như vật cản trở sự phát triển hài hòa của
con người, như cái nhà tù giam giữ con người không cho đến với Nghệ
Thuật. Lời đề nghị của Baudelaire với cái ông nêu lên trong các bài vi ết của
mình “Lý Tưởng” là phương diện thứ hai trong sự sáng tạo nghệ thuật của
ông - chán chường và lý tưởng tồn tại vừa loại trừ nhau vừa bổ sung nhau -
đó là lời kêu gọi hân hoan cho sự quay lại tự do cá nhân, tự do sáng t ạo.
5. Về những sự lựa chọn văn học nghệ thuật của họ, Poe và
Baudelaire cũng chứng tỏ rất gần nhau. Baudelaire, trước hết là một nhà
thơ nhưng cũng rất thích các bài luận ngắn và các hình thức ngh ệ thuật
tổng hợp khéo léo, điều này đã khiến ông viết ra nhiều bài thơ ngắn, gi ống
như văn xuôi. Những bài thơ văn xuôi đó trông chẳng khác gì nh ững truy ện
cực ngắn của Poe và chúng có thể xem như là sự kế thừa lặng lẽ sức
mạnh thi pháp sáng tạo của Poe. Ở đây chúng ta có sự bắt đầu của quá
trình gia nhập. Chậm rãi nhưng chắc chắn, và theo một cách rất âm th ầm,
Poe mất đi bản sắc Mỹ của ông để trở thành một sản phẩm Pháp thuần
túy, kết quả của khuôn đúc châu Âu chính vì Baudelaire quy ết đ ịnh ông
- phải thế: “Edgar Allan Poe, người không phải thế ở Mỹ, cần phải trở thành
một nhân vật lớn ở Pháp - ít nhất là thành cái mà tôi muốn”. Tác phẩm của
Poe giờ đây vang khắp nước Pháp trong khi nó ngày càng bị lờ đi ở l ục đ ịa
Mỹ. Nhưng Poe được sự thừa nhận tinh thần nào trong bối cảnh như thế?
Ở Mỹ, Rufus W. Griswold, nhà viết tiểu sử đầu tiên và là người quản lý văn
học sau khi chết của Poe, cũng như là kẻ thù ác cảm nhất của ông, đã
chọn cách bôi bẩn ký ức về Poe bằng việc lên án ông là cư xử bất lịch s ự,
là nghiện rượu không tha thứ được, là rất đáng khinh thường. Lập luận của
ông này về cái chết của Poe nói chung được tin là thật, tạo ra quanh Poe
một bức màn tiếng xấu và làm nản lòng công chúng Mỹ vốn khắt khe về
đạo đức muốn đến với các tác phẩm của ông.
6. Baudelaire thực sự là yêu thích con người tai tiếng phóng đãng này
ngay cả trước khi ông tiếp xúc với các văn bản của Poe. Ông thấy ở “nhà
thơ bị nguyền rủa” đó hình bóng chính mình, một nghệ sĩ bị bệnh tâm th ần,
dù hoàn cảnh thực của Poe không phải vậy. Poe là người làm việc cật lực,
không bao giờ mơ tưởng viển vông. Ông không phải là kẻ phóng đãng nh ư
Baudelaire viết trong bài Họa sĩ của đời sống hiện đại. Điều lạ lùng là, mặc
dù bị lôi cuốn bởi sự tự do quá khích hiện thân ở kẻ phóng đãng, nhưng
bản thân Baudelaire lại không phải là nhà duy mĩ vẩn vơ. Benton Jay
Komins, dẫn lời Walter Benjamin, khẳng định điều nghịch lý cơ bản này:
trong bài viết Paris thời Đế chế thứ hai trong thơ Baudelaire, Walter
Benjamin nhận xét rằng Baudelaire - bất chấp những ý nghĩ trái ngược -
không bao giờ là một kẻ phóng đãng. Cho đến cuối đời, Baudelaire “vẫn
không có khả năng lang thang trên các đường phố Paris như một kẻ vô
công rồi nghề”, bởi vì khác với hình ảnh một kẻ phóng đãng nhàn t ản, giàu
có được lý tưởng hóa như ông hình dung, “ông bị các chủ nợ truy đuổi, bị
bệnh tật dày vò”(1).
7. Trong khi Poe xuất bản các câu truyện của mình để kiếm thu nhập
và chu cấp cho người vợ trẻ một cuộc sống tươm tất, ông không bao giờ để
cảm hứng kéo mình đi chệch con đường ông đã chọn. Mặc dù Baudelaire
- muốn Poe trở thành một kẻ tuẫn tiết vì văn học của nền công nghiệp thô
bạo giữa thế kỷ XIX ở Mỹ, ông thực tế là một nạn nhân đáng thương của
sự tự hủy hoại bản thân và của lòng hận thù, ghen ghét của Griswold. Một
số nhà phê bình không bao giờ hiểu được nỗi ám ảnh Poe của Baudelaire.
Họ cố gắng khám phá ở sự say mê này cái logic hay sự cố kết trí tuệ khi nó
có lẽ là vô thức và do đó không dễ giải thích. Trong bài viết phân tích Hoa
ác trên tờ The Nation năm 1876, Henry James đã phê phán gay gắt cả Poe
và Baudelaire: “Hơn nữa, đối với độc giả Mỹ, Baudelaire là kẻ bị tổn thương
vì ông đã tự biến mình thành một tông đồ của Edgar Poe của riêng chúng
ta. Ông đã dịch, rất cẩn thận và chính xác, tất cả các tác phẩm văn xuôi
của Poe, và chúng ta tin, một số bài thơ rất có giá trị của ông này. Dù là rất
kính trọng đối với thiên tài độc đáo của tác giả Truyện kinh dị, chúng ta vẫn
thấy rằng xử sự nghiêm túc với ông quá lên như vậy là thiếu nghiêm túc với
chính bản thân mình. Sự nhiệt tình với Poe là dấu hiệu một trình đ ộ tư duy
rất sơ khai”. Nhận xét đầy thành kiến này lan truyền rộng rãi và có thể xem
đó là hệ quả sự bôi bẩn của Griswold. Nó cũng giúp chúng ta hi ểu được vì
sao dự án của Baudelaire tái tạo nhân cách nghệ thuật của Poe là một dự
án quan trọng: Poe phải được cứu khỏi nước Mỹ và khỏi chính mình. Một
số người đã giúp ông giũ bỏ tai tiếng văn học bằng cách nhấn mạnh đến tai
tiếng đạo đức của ông, và điều đó hoàn toàn phù hợp với thế giới nghệ
thuật suy đồi ở Pháp nửa sau thế kỷ XIX.
Dịch thuật: Sự phản bội ngôn ngữ không thể tránh?
8. Aldous Huxley là một nhà văn khác phê phán và gạt bỏ mạnh mẽ
sự nghiệp của Poe, coi câu chữ của ông là hung hăng và gây sốc và văn
của ông là xấc xược và thô tục. Quan điểm của Huxley dù gay gắt nhưng
vẫn đáng chú ý khi bàn về ngôn ngữ, vì nó soi sáng một th ực t ế là dịch
thuật có thể bị coi là sự phản bội trí tuệ, dù dịch giả có thể là đáng kính và
trung thực: “Edgar Allan Poe là nhà thơ lớn ư? Chắc chắn không bao gi ờ có
nhà phê bình Anh nào nói thế... Chúng tôi, những ng ười nói ti ếng Anh và
không phải các học giả Anh, những người sinh ra trong ngôn ngữ đó và từ
- nhỏ đã say sưa với văn học của nó, chúng tôi chỉ có thể nói, với tất cả lòng
kính trọng, rằng Baudelaire, Mallarmé và Valéry đã sai lầm, và rằng Poe
không phải là một trong những nhà thơ lớn của chúng tôi... Không ph ải là
người Anh, họ không có khả năng đánh giá được những sắc thái thô tục rất
tinh vi mà Poe đã hủy hoại chúng tôi”. Đoạn trích này dẫn chúng ta đi vào
những sự khác nhau cốt yếu tồn tại giữa một người nói tiếng Anh đọc Poe
và một độc giả nói tiếng Pháp. Cái mà Huxley gọi là “những sắc thái thô
tục” thì một người khác có thể cho là “những sắc thái tinh tế”. Như vậy ở
đây chúng ta vấp phải sự diễn dịch chủ quan và thị hiếu cá nhân. Điều
đáng nói là tất cả những sắc thái phong cách và giọng điệu đó là rất tế vi,
không dễ cho một người khác bản ngữ như Baudelaire có thể nắm bắt
được. Dân Pháp đã yêu thích tác phẩm độc đáo của Poe và chúng tôi dám
nói rằng sự tôn thờ mù quáng đó là do sự tiếp nhận ngôn ngữ đã bị gi ản
lược, rằng họ không hiểu được hoàn toàn những nghĩa bóng từ vựng tinh t ế
nhất của nó. Cả Paul Valéry và Paul Claudel đều ca ngợi bài
viết Eureka của Poe trong khi giới trí thức nói tiếng Anh coi đó không gì hơn
là một sự pha trộn nhạt nhẽo của giả khoa học và tưởng tượng siêu hình.
Nhưng vậy là nước Pháp phản bội nhà nghệ sĩ vì quá yêu con người
chăng? Chúng ta đã tạo ra một Poe của Pháp thông qua các bản d ịch và
việc đọc chúng chăng?
9. Việc dịch Poe của Baudelaire như thế bị coi là “thô tục”, theo lời
Huxley. Nói nhẹ hơn, dịch thuật kéo theo sự giải thiêng tác phẩm ngh ệ
thuật vì tách nó ra khỏi văn cảnh và nguồn cảm hứng của nó. Bản d ịch
chắc chắn sẽ cảm xúc hơn là chính xác về ngôn ngữ, và ghi nhớ điều này
trong óc thì từ “phản bội” là chính đáng ngay cả nếu Baudelaire không có ý
như thế. Sự khác nhau giữa hai ngôn ngữ đối với Huxley là bất lợi, là cản
trở cho tính khách quan. Thế nhưng đáng chú ý là, người viết thứ hai (người
dịch) tuy là không tránh khỏi chủ quan trong việc dịch nhưng thậm chí lại
sáng tạo hơn và quá trình viết của hắn có thể nói là có sự tự trị thực sự,
tách nó khỏi bản gốc. Để minh họa cho sự tự trị và độc lập này, chúng ta
hãy trở lại cách phân loại gốc các truyện cổ và cố gắng tìm hiểu vì sao
- Baudelaire lại bị kêu là đã phản bội dự án nghệ thuật gốc của Edgar Allan
Poe. Sự phân chia Baudelaire đưa ra năm 1856 đã được công chúng Pháp
chấp nhận không hề thắc mắc suốt cả thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.
Độc giả Pháp chỉ biết Poe qua các bản dịch của Baudelaire, điều này tất
yếu sinh ra những hiệu ứng phụ: một mặt nó cho phép Poe trở nên nổi
tiếng bất chấp sự thóa mạ của Griswold và trở thành chuẩn mực mà ông
muốn, nhưng mặt khác nó sinh ra một số mối ngờ về tính xác thực của sự
tiếp nhận trong công chúng. Mọi người thích Poe hay họ yêu chân dung
Poe của Baudelaire? Poe Mỹ có chấp nhận bản sao Pháp này không, ông
yêu thích hay căm ghét nó, ông có nhận ra chính mình trong đó không?
10. Có quá nhiều câu hỏi chưa được trả lời. Khi tái tạo Poe,
Baudelaire chắc chắn cố tìm cách hiểu rõ hơn chính bản thân đang đ ầy băn
khoăn của mình. Như trong truyện William Wilson, Baudelaire đeo đuổi và
quấy rối bản gốc của ông, ông sao chép và theo sát các cử chỉ và sự l ựa
chọn của nó. Poe-William và Baudelaire-Wilson là hai mặt của một cá nhân
phức tạp, giống như cặp sinh đôi trong truyện The Fall of the House of
Usher. Giống như Kẻ Khác trong William Wilson, người đeo đuổi tìm kiếm
sự tái tạo và tái hợp nhất, ông cố hoàn thiện bản gốc bằng việc sửa chữa
các chỗ sai của nó. Đây là cái Harold Bloom gọi là quá trình lắp
ghép (tessera), tức là người viết thứ hai hoàn thiện tác phẩm của người
trước để chống lại “nỗi lo ảnh hưởng” đang tăng lên. Baudelaire chắc chắn
cố nâng Poe lên đến mức ông coi là sự hoàn thi ện lý tưởng: sáng tạo của
riêng ông.
11. Baudelaire lần đầu tiên bắt tay vào các tác phẩm của Poe là năm
1851 ở London. Đó là lần đầu ông chạm trán nhà văn Mỹ và lập tức ông mê
ngay giọng điệu, phong cách và nội dung các tác phẩm đó. Ông không bao
giờ viết gì về các quan niệm lý thuyết của sự ảnh hưởng văn học và của sự
đạo văn, trong khi Poe dành nhiều tâm lực để chứng tỏ sự độc đáo của
mình. Baudelaire, ngược lại, tuy thừa nhận ông cảm thấy có sự gần gũi với
Poe, nhưng luôn từ chối thừa nhận ông tái tạo lại sự gần gũi đó trong các
- tác phẩm ông viết sau khi dịch Poe, tức là sau 1856. Baudelaire ch ịu ảnh
hưởng sâu sắc bài Eureka của Poe viết về thân phận con người như sự
chuyển động đồng thời của lực hút và lực đẩy. Hiện tượng tái chiếm một
cách vô thức này là một biểu hiện rõ ràng khác của Nỗi lo ảnh hưởng mà
Harold Bloom đã nói. Thay vì đấu tranh chống lại ảnh hưởng của người viết
thứ nhất, người viết thứ hai do say mê nên thích hút máu, thích bú l ấy
dưỡng chất sáng tạo của người đó hơn, giống như anh họa sĩ hút chất
sống của cô vợ trong truyện The Oval Portrait của Poe. Sự hấp thụ này
Bloom gọi là lắp ghép, vừa đầy đủ vừa phản bội. Giống như sự chiếm hữu
thể chất, nó thỏa mãn tạm thời người chiếm hữu, trong khi lấy cắp một số
sự độc lập của người bị chiếm hữu. Sự phản bội mang tính biểu trưng gắn
với sự chiếm hữu ngôn ngữ của Poe ở Baudelaire là hoàn toàn thích đáng
khi người ta quan sát những cái lỗi Baudelaire mắc phải trong các bản dịch
của ông. Baudelaire yêu tiếng Anh và dùng nó theo một cách riêng, trong
khi dịch thuật đòi hỏi kỹ thuật và sự chính xác, sự hiểu bi ết đầy đủ cả ngôn
ngữ nguồn và ngôn ngữ đích là cái mà chắc chắn ông thiếu. Trong bức thư
gửi Maria Clemn, mẹ vợ của Poe công bố ở Pháp năm 1854 trên báo Le
Pays như một lời tựa cho một trong những bản dịch đầu tiên của ông,
“Những kỷ niệm của ông Auguste Bedloe”, chúng ta có thể đọc thấy những
dòng sau (để nguyên bản gốc tiếng Pháp để làm nổi bật đ ược sự tương
phản lạ lùng giữa hai từ cuối): "Adieu, madame; parmi les différents saluts
et les formules de complimentation qui ne peuvent conclure une missive
d'une âme à une âme, je n'en connais qu'une aux sentiments que m'inspire
votre personne: goodness, godness". Tôi không có ý dịch toàn bộ bức thư ở
đây nhưng chúng ta sẽ tập trung vào hai từ kết luận “goodness, godness”
mà Baudelaire thêm vào cuối bức thư thân tình của ông. Ý muốn chơi chữ
và chứng tỏ sự thành thạo tiếng Anh của ông rốt cuộc đưa đến một sự liên
tưởng từ vựng thảm hại mà bà Clemn chắc hẳn bị bối rối khi
đọc.Goodness là tiếng cảm thán, hoàn toàn không thích hợp trong một văn
cảnh như thế, còn godness là một từ mới tạo ra có lẽ được dùng ở đây thay
cho từ godliness mà từ này cũng không đúng nốt.
- 12. Độc giả Pháp ở thế kỷ chúng ta hiện nay có khả năng được đọc
những bản dịch Poe chính xác và hàn lâm hơn, ví như những bản dịch do
Claude Richard công bố, ông đã dành cuộc đời dạy đại học của mình cho
việc khôi phục sự nghiệp của Poe ở Pháp và hiệu chỉnh các bản dịch đã
có. Bây giờ thì không thể bỏ qua những sự tinh tế trong các tác phẩm của
Poe, với các biến thái phong cách và tính hài hước của ông, đi ều khi ến cho
các bản dịch của Baudelaire bị nghi ngờ. Ta hãy lấy một thí dụ về sự khác
nhau ở cấp độ bề mặt giữa sự lựa chọn ngữ nghĩa của Poe và Baudelaire.
Baudelaire dịch bài tiểu luận The Power of Words của Poe thành
là Puissance de la parole mà nếu dịch ngược lại tiếng Anh thì sẽ là The
Might of Speech. Tiếng Anh rất chính xác và sắc thái ngữ nghĩa có thể được
chuyên chở bằng một từ mà tiếng Pháp không nhất thiết ph ải đồng nhất.
Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng đối với một từ tiếng Pháp, tiếng Anh có
thể đưa ra khoảng bốn biến thể đồng nghĩa hay đa nghĩa, với các ph ạm vi
từ vựng và sắc thái nghĩa khác nhau. Trở lại cái tên bài The Power of
Words, chúng ta có thể nói rằng “words” là những yếu tố của “speech” chứ
không phải bản thân speech, vì vậy dịch như thế là nhầm lẫn cái chứa
đựng và cái được chứa đựng. Baudelaire lẽ ra phải được khuyên là dịch
“words” sang số nhiều thành “paroles” hay “mots”, như thế mới đ ạt được
hiệu quả tốt hơn và thể hiện chính xác hơn ý nghĩa của Poe. “Power” rất
khác với “might” vốn có tính chất tôn giáo và siêu hình hơn. Nói cách khác,
nếu Poe quyết định trong bài tiểu luận đặc biệt ấy nói về khái niệm lãng
mạn “might of speech” thì ông chắc chắn đã chọn những từ khác đ ể th ể
hiện. Như vậy, bản dịch của Baudelaire có tốt nhất cũng là không chính
xác, mà tệ nhất là dịch sai.
13. Trong khi Poe tổ chức các truyện cổ của mình thành bốn nhóm,
Baudelaire chỉ công bố ba tập văn dịch. Năm 1856, ông xuất bản Les
Histoires extraordinaires (Những truyện kinh dị) gồm 13 truyện, năm sau
ông cho ra Nouvelles histoires extraordinaires (Những truyện kinh dị
mới) gồm 23 truyện, đến năm 1865 ông kết thúc công việc của mình với 10
truyện dịch trong tập Histoires grotesques et sérieuses (Những truyện
- nghịch dị và nghiêm túc). Tổng cộng Baudelaire đã dịch 46 truyện của Poe
cùng với The Narrative of Arthur Gordon Pym (Truyện kể của Arthur Gordon
Pym, in thành sách riêng), đấy còn xa mới là toàn bộ tác phẩm của Poe.
Hơn ba mươi truyện vẫn chưa được Baudelaire dịch, nghĩa là công chúng
Pháp thế kỷ XIX vẫn chưa biết đến chúng. Trong số chúng có một số
truyện đã được học giả Pháp chuyên về văn học Mỹ là Henri Justin dịch ra
năm 1991. Edgar Poe thực tế đã viết và công bố hơn bảy mươi truyện,
trong đó có một số truyện vẫn hoàn toàn không được bi ết đến ở Pháp, ví
như Why the Little Frenchman Wears His Hand in a Sling rõ ràng rất hứng
thú với người Pháp, hay Never Bet the Devil Your Head mà cái tên truyện có
lẽ không gợi hứng cho Baudelaire, bất chấp có sự hiện diện của quỷ. Tóm
lại, Baudelaire chọn và dịch những truyện ông thích nhất và bỏ qua các tác
phẩm còn lại của Poe.
14. Như vậy, quá trình làm việc dịch thuật lâu dài mà dần dần trở
thành sự chiếm đoạt lại văn bản của một người sáng tạo khác, là một biểu
trưng của thói ma cà rồng. Ma cà rồng giết chết nạn nhân của nó đ ể hút
máu nuôi sống mình. Baudelaire là người họa sĩ trong truyện Oval Portrait,
một kiểu hiện thân sống của trí tưởng tượng của Poe. Ông yêu và ham
muốn hình mẫu của mình nhưng không được phép làm thế, trong mô hình
tâm lý mà Poe chọn hình mẫu là Mẹ, đối với Baudelaire logic hơn là chuyển
thành Cha - không thể với tới và chiếm hữu được. Bằng cách tước khỏi hình
mẫu tất cả sức mạnh thể chất và trần thế của sự lôi cuốn, bằng cách gi ết
chết hình mẫu và thăng hoa nó lên bức tranh sơn dầu, người họa sĩ trong
truyện đã tự giải thoát mình khỏi nỗi đau khổ bị cắt xén dang dở, giống như
Baudelaire tự giải thoát khỏi nỗi đau khổ bị ảnh hưởng và bị hấp lực bởi
Poe. Thêm vào sự hy sinh sáng tạo riêng của mình để dịch Poe, Baudelaire
đã công bố ba bài viết về Poe trong những năm 1850. Nỗi lo ảnh hưởng ăn
sâu vào Baudelaire đến mức ông phải tự giải thoát khỏi nó bằng bất c ứ
cách nào có được.
Poe và Baudelaire: Mối quan hệ đồng tính?
- 15. Ngay nếu trình tự niên đại ngăn chúng ta nghĩ đến bất kỳ mối liên
hệ qua lại nào giữa hai nhà thơ, thì sức mạnh hấp lực tồn tại giữa
Baudelaire và Poe cũng vẫn sâu hơn thoạt nhìn. Khác v ới Hawthorne và
Melville có những tác phẩm nghệ thuật chịu ảnh hưởng lẫn nhau, trong
trường hợp Poe và Baudelaire chúng ta có thể nói đến một loại ảnh hưởng
tinh thần đồng tính. Cái nhìn của Poe về đường phân chia mơ hồ giữa hai
giới trong văn ông gợi nên một sự lẫn lộn giới tính rất hay có trong truy ện
của ông và một lần nữa lại gần như báo trước hấp lực mơ hồ Baudelaire
cảm thấy đối với ông. Quan hệ thương/ghét này được Poe coi là chuyện
hoàn toàn bình thường và đã được biểu hiện trong bài ti ểu luận triết
học Eureka khi ông phát triển các lý thuyết siêu hình nổi ti ếng của mình về
lực hút và lực đẩy. Lực hút thì thấy rõ trong quan hệ của Baudelaire với Poe
qua cách ông thèm muốn mạnh mẽ và thậm chí bằng giác quan chiếm hữu
bản chất tinh thần và trí tuệ của Poe, cụ thể là sáng tác của nhà văn này.
Lực đẩy tìm thấy ở hành động phân hủy của việc dịch và việc biến các từ
ngữ vào một ngôn ngữ khác, cơ thể khác, linh hồn khác. Bằng cách dịch
Poe, Baudelaire chiếm hữu Poe và đồng thời giải thoát mình khỏi ham
muốn chiếm hữu. Văn bản của Poe trở thành như một thứ thực thể nữ, một
đối tượng cho lòng thèm khát của Baudelaire. Thậm chí chúng ta có thể tự
hỏi đây là nhà thơ Pháp bị thu hút bởi văn bản như một tác ph ẩm tưởng
tượng hay nỗi say mê của ông thể hiện qua văn bản chỉ là tấm gương bi ểu
lộ nam tính bị giày vò, của Poe tất nhiên, nhưng cả của Baudelaire nữa.
16. Sự không xác định về giới tính như vậy là tâm điểm các truyện nổi
tiếng nhất của Poe, nơi tính nam và tính nữ rất nhạt nhòa và cuối cùng
được hợp lại thành một đơn nhất vô giới, một kiểu hiện hình của “Linh Hồn
Tối Cao” như Emerson đã mô tả. Chúng ta có thể dẫn truyện The Fall of the
House of Usher như một trong những thí dụ thích hợp nhất về sự đảo
ngược/thống nhất hai giới của Poe. Giống như tất cả các nhân vật nữ trong
văn bản của Poe, mụ Madeline bề ngoài ít có vai trò trong truyện. Mụ ch ỉ
xuất hiện hai lần, khi đi qua hành lang như một bóng ma, không có chi ti ết
- hình thể nào cho phép hình dung diện mạo mụ ra sao. Hơn một nhân v ật,
mụ giống như một linh hồn qua lại bên rìa hai thế giới, dương gian và âm
phủ. “Trong khi hắn nói, mụ Madeline đi qua góc xa của căn phòng rồi bi ến
mất, không thèm để ý đến sự có mặt của tôi”. Sự trở lại của mụ trong
truyện mười trang sau càng kịch tính hơn bởi vì mụ gần như từ âm phủ hiện
về để gặp lại người em sinh đôi của mình và mang hắn về cõi âm, điều rõ
ràng là làm hắn khiếp sợ: “Làm sao tôi không phân biệt được tiếng tim mụ
ta đập thình thịch nghe rất khiếp? Con điên!... Con điên! Tôi bảo anh rằng
bây giờ mụ ta đang đứng ở ngoài cửa đấy!”.
17. Roderick, người em sinh đôi, thể trạng yếu đuối và mắc một căn
bệnh bí hiểm khiến hắn quá nhạy cảm và không có khả năng chịu được
gánh nặng cuộc sống. Hắn ở trong ngôi nhà mồ một mình với người chị và
cũng bị ám ảnh bởi “lời nguyền gia tộc”. Hắn có phần nữ tính nên nhạy cảm
với nghệ thuật và có những đức tính lãng mạn của cái thường được gọi là
“phái yếu”. Tinh tế và cảm xúc, hắn hoàn toàn có tính nữ hơn Madeline,
người đấu tranh với cái chết và có một sức mạnh ý chí siêu phàm. Mụ ta
muốn hợp nhất với bản gốc kép của mình, muốn trở lại cái chỗ ẩn náu của
hai chị em như trong bụng mẹ mà ở đây được tượng trưng bằng ngôi nhà.
Mụ rời cái vòm của mình, cố tìm cách lọt vào căn phòng của đứa em và
giết chết hắn với ý muốn tìm tới một sự toàn vẹn vô giới. Tính nam và tính
nữ được xây dựng và khai triển cùng lúc trong truyện này, mặc dù mối quan
hệ phần nào mang đặc điểm hấp thụ, người nữ hút máu người nam. Điều
này được tô đậm thêm trong quá trình tự sự khi trong văn bản có đ ưa thêm
vào các bản kép của các nhân vật chính. Bản kép của Madeline là một
chàng hiệp sĩ trẻ tuổi, Ethelred, người đi giết con rồng nguy hiểm ở trong
hang. Mối nối giữa Ethelred và Madeline là để chứng tỏ rằng mụ ta có
quyền lực trên văn bản chính, điều mà đến cảnh cuối Roderick hiểu một
cách thô bạo là: “Và bây giờ - đêm nay - Ethelred - ha! ha! - sự phá tung
cánh cửa đóng kín, tiếng kêu thất thanh của con rồng, và tiếng khiên khua
lanh lảnh - đấy chính chiếc quan tài của mụ ta bị vỡ tung ra”. Rõ ràng,
Ethelred hiện ra như chân dung lộn ngược của Madeline, bản kép tăm tối
- của mụ, như Baudelaire là bản kép của Poe.
18. Theo cách tương tự, Baudelaire lấy cảm hứng từ cách nhìn này về
một vũ trụ phi giới. Tính nữ thường bị triệt tiêu trong thơ ông, được thăng
hoa và do đó biến thành sự sáng tạo thần thánh. Trong vũ trụ được tái c ấu
trúc của Baudelaire, một phụ nữ sống là một phụ nữ buông tuồng và nếu
nhà thơ có sống với một phụ nữ như thế và có quan hệ tình dục với mụ
(chức năng chính của mụ) thì chắc chắn hắn không thể nào yêu mụ hay có
cảm hứng với mụ được. Do đó tính nữ không tồn tại như thế đối với nhà
thơ, mà chỉ thông qua những hình ảnh cao cả mang tính hồn lìa khỏi xác
được tôn thờ như mái tóc phụ nữ trong bài thơ tuyệt diệu Mái tóc (La
Chevelure). Một lần nữa ở đây, hình tượng gã phóng đãng (dandy) là thích
hợp. Việc hắn theo đuổi những lạc thú xa hoa bừa bãi làm tiêu tan nh ững
khái niệm lãng mạn về một thứ tình yêu thuần khiết và đáng kính. Trong
chừng mực nào đó, cái nhìn của Baudelaire về phụ nữ và tính n ữ là bị ảnh
hưởng thuyết phóng đãng (dandysme), như Benton Jay Komins nhấn mạnh:
“Trong thế giới của sự thỏa mãn tự si này, không có không gian mở cho tính
chủ quan của những người khác... tính lấy mình làm trung tâm của gã
phóng đãng thành thị, sự nhấn mạnh đến vẻ đẹp và tính dục vẫn còn ám
ảnh trí tưởng tượng thời hiện đại”(2).
19. Chúng ta biết rằng Poe liên tục đấu tranh với con quỷ đạo văn và
sự méo mó xoắn bện của ảnh hưởng. Ông thậm chí tuyên chi ến với cả nhà
văn đàn em là Longfellow, kết tội ông này là đạo văn, một vi ệc mà chính
ông cũng không hoàn toàn vô tội. Sự đam mê và ảnh hưởng có mặt tối của
chúng không chỉ thể hiện ở sự đạo văn - như chúng ta đã thấy ở các bản
dịch Poe của Baudelaire - mà cả ở cái tưởng rằng là sự lẫn lộn nhân dạng
hay sự tìm kiếm alter ego (cái tôi thứ hai, người thay thế). Dịch Poe đối với
Baudelaire thực sự là việc tìm kiếm cách khẳng định tính cách riêng của
ông, và thậm chí cách hiểu của ông về giới. Văn bản của Baudelaire là một
thực thể hòa trộn, một thể thống nhất phức hợp giống như hầu hết các
nhân vật của Poe, một hợp thể từ những yếu tố rời rạc. Hoa ác chứa đầy
- kinh nghiệm tuyệt vọng và hoài nghi về thế gian và con người riêng của
Poe kết hợp với nỗi chán chường và những cuộc vật lộn với lý tưởng của
Baudelaire. Cả hai nhà văn đều bị phân chia thành các thế lực Thi ện và Ác,
yêu và ghét, nam và nữ, họ đều giống như hai hình ảnh được phản chiếu
qua tấm gương sáng tạo của mình bị lộn ngược hoàn hảo đến mức độc giả
chịu không biết ai gợi hứng cho ai. Là người thay thế lẫn nhau, hai con quỷ
ích kỷ và chán đời này có lẽ sẽ căm thù nhau nếu họ có dịp gặp nhau. Tự
nhìn mình qua gương rất có thể bị đổ nhào giống như nhân v ật William
Wilson phát hiện ra trong những dòng cuối của câu truyện cùng tên.
Baudelaire chọn đề cao nhân vật đó của Poe như Griswold nói là vì ông có
nhiều điểm chung với chân dung này. Baudelaire đã đồng nhất mình với
Poe theo một cách rất tự kỷ, lấy mình làm trung tâm. Cả hai đều bị chứng
bạo dâm quá mức và đều có ý thích tự hủy, đây chắc có lý do từ vi ệc bị bố
mẹ bỏ rơi. Hành động tự hủy rõ ràng nhất của Baudelaire là dịch các tác
phẩm của Poe. Từ sự gặp gỡ khác thường và duy nhất này của hai thiên tài
đã ra đời một nhà thơ tầm cỡ thế giới mới mà chúng ta có thể đặt tên
là Podelaire. Nửa Âu nửa Mỹ, các tác phẩm của nhà sáng tạo phi giới tính
này nhuốm vẻ hài hước đen, chất duy cảm và có điểm thêm chút cầu kỳ
kiểu cách Pháp./.
nguon tai.lieu . vn