Xem mẫu

  1. Đề: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa qua bài thơ ”Bánh trôi  nước, Tự tình và Thương vợ.”     "Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ nói lên thân phận của người phụ nữ phong kiến xưa. Đó là  những người phụ nữ chị sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến “Tam tòng, tứ đức” ( tại gia tòng phụ, xuất giá tòng  phu, phu tử tòng tử và công dung ngôn hạnh). Họ hầu như không có quyền quyết định cuộc đời mình, chỉ biết sống  cam chịu và phục tùng. Cảm thông với số phận, thân phận và phẩm chất người phụ nữ xưa, hai nhà thơ Hồ Xuân  Hương và Trần Tế Xương đã thay họ nói lên tiếng lòng mình qua các bài thơ như: Tự tình, Bánh trôi nước, Thương  vợ…..      Thời xưa, dưới chế độ phong kiến suy tàn, mục nát, số phận người phụ nữ luôn bị vùi d ập vào vũng l ầy đau khổ, luôn bị trói buộc bởi xã hội bất công, nam quyền độc đoán, m ột xã h ội “tr ọng nam khinh n ữ”, m ột ch ế đ ộ đa thê.Họ gặp nhiều đau khổ, lận đận, tình duyên trắc trở, chịu cuộc đ ời làm l ẻ, s ố ph ận h ẩm hiu, éo le. Với bản lĩnh của mình và cũng là nạn nhân trong xã hội đó, Hồ Xuân H ương đã m ạnh d ạn nói lên n ỗi lòng c ủa những người phụ nữ xưa. Đó là những người phụ nữ duyên dáng, xinh xắn nh ưng luôn b ị phân bi ệt đ ối x ử th ậm tệ, không có quyền lựa chọn hạnh phúc của đời mình và luôn khát khao h ạnh phúc l ứa đôi. Tr ước m ột xã h ội b ất công, cảnh ngộ người con gái giàu sức sống và hết sức tài hoa, nh ưng trớ trêu cuộc đời th ật b ất h ạnh, s ố ph ận lận đận gian truân:                               “ Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nỗi ba chìm với nước non” Không chỉ thế nỗi đau thân phận con được nhắc đến ở bài : “Tự tình II” : “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Tr ơ cái h ồng nhan v ới n ước non(…) V ầng trăng bóng x ế khuy ết ch ưa tròn”      Một tâm trạng buồn đau, oán hận, cô độc, trong màn đêm vắng lặng. S ự bẽ bàng, t ủi h ổ, d ầu dãi cay đ ắng là nỗi đau của Hồ Xuân Hương nói riêng và người. Phụ nữ Việt Nam nói chung. Duyên ph ận họ th ật h ẩm hiu, h ạnh phúc ít ỏi ( tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc không trọn vẹn nh ư trăng xế mà v ẫn khuy ết). Mang cho mình m ột thân phận lẻ mọn, tình yêu bị chia năm sẻ bảy chỉ còn tí con con: “Mảnh tính san s ẻ tí con con”.      Đối với Trần Tế Xương, ông đứng dưới khí cạnh một người đàn ông, cảm thông thương xót cho s ố ph ận c ủa người phụ nữ bị đối xủ bất công, luôn chịu cơ cực gian truân nhưng không dám ph ản kháng. H ọ luôn s ống cam chịu, hi sinh cho chồng con:                “Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo m ặt n ước bu ổi đò đông”      Câu thơ mang chất liệu ca dao, các hình ảnh “lặn lội”, “eo sèo”, “khi quãng v ắng”, “bu ổi đò đông” th ể hi ện s ự tủi than của người phụ nữ, trước sự đơn chiếc, chen chút làm ăn vật lôn v ới cuộc s ống đ ể m ưu sinh, nuôi ch ồng con. Người phụ nữ xưa khi về nhà chồng phải chịu sự ràng buộc của l ễ giáo phong ki ến, ch ấp nh ận không kêu ca, oán than (“Một duyên hai nợ âu đành phận – Năm nắng m ười m ưa dám quản công”). M ặc dù r ất v ất v ả, kh ổ cực. Hình ảnh bà Tú chính là chân dung của một người phụ nữ không quản khó khăn vì ch ồng vì con, là m ột hình ảnh tiêu biểu cảu người phụ nữ Việt Nam.      Qua đó, đã làm nổi bật những vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất ng ười ph ụ nữ Vi ệt Nam x ưa. Đ ồng th ời phê phán cái xã hội thối nát, giận người đời bạc bẽo vô tâm (“Sau giận vì duyên đ ể m ỏi mõm mòm” – T ự tình I c ủa H ồ Xuân Hương), giận cuộc sống đã đưa những người phụ nữ vào chỗ lẻ loi cô dơn, hiu hútHọ oán h ận tr ước n ỗi đau âm ỉ, dai dẳng đốt cháy tâm can và tê tái nhất.Trong thơ Hồ Xuân Hương ta luôn b ắt g ặp nh ững hình ảnh ng ười ph ụ n ữ biết vượt lên số phận, không để nỗi đau làm mình gục ngã: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám Đâm to ạc chân mây đá m ấy hòn”     Quả thật, họ không bao giờ chịu khuất phục, luôn cựa quậy. Qua bài thơ ''bánh trôi n ước" Xuân H ương l ại càng khẳng định:                                     “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son”     Đúng là một phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ với t ấm lòng thủy chung, con s ắc, quy ết gìn gi ữ không đ ể hoàn cảnh xã hội lam hoen ố, là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh và hãnh di ện về chính mình. Và trong tâm h ồn ng ười phụ nữ luôn khao khát được hòa hợp trong một tình yêu trọn vẹn, mãnh li ệt:  “Chém cha cái kiếp lấy cồng chung” Nó thể hiện một niềm khao khát chính đáng cảu người phụ nữ ở m ọi th ời đ ại.      Đến với “Thương vợ” cảu Tú Xương nhìn với góc độ đạo lý, bà Tú đang tuân theo bổn ph ận làm v ợ nh ưng nhìn ở góc độ tình cảm, ta thấy bà làm tất cả vì chồng con mà không than thở, ở bà hi ện lên vẻ đ ẹp truy ền th ống c ủa người phụ nữ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, chịu thương, chịu khó và đ ức hi sinh âm th ầm vì ch ồng con. Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam xưa, ph ải ch ịu nhiều khổ c ực, t ủi nh ục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở…       Ngày nay thân phận người phụ nữ đã chiếm một vị trí quan trọng trong gia đình. B ởi l ẽ cái xã h ội “Tr ọng nam khinh nữ” đã bị xóa bỏ mà thay vào đó là một xã hội “công bằng, bình đ ẳng, nam nữ bình quy ền”. Nh ưng không vì thế mà người phụ nữ Việt Nam làm mất đi vẻ thuần phong mỹ tục vốn có của mình. Và v ẫn gi ữ đ ược ph ẩm ch ất,
  2. vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Viêt Nam, đảm đang tháo vác. Điều đặc biệt h ơn là họ có cá tính m ạnh mẽ hơn, dám đấu tranh triệt để vì hạnh phúc, vì quyền lợi của chính mình và phát tri ển theo ph ương châm: “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”"
  3. “Thân em như củ ấu gai Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen Ai ơi ném thử mà xem Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi” Đã từ lâu, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa đã xuất hiện nhi ều qua nh ững câu ca dao v ới nh ững vẻ đ ẹp, hình tượng khác nhau. Nhưng ở họ đều có chung đức tính truyền thống đẹp đ ẽ mà dân t ộc Vi ệt Nam đã tích lu ỹ được qua hàng ngàn năm lao động và đấu tranh. Hình ảnh đó cũng đ ược thể hi ện r ất tài tình qua hai bài th ơ T ự Tình II cua Hồ Xuân Hương Và Thương Vợ của Trần Tễ Xương. Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua hai bài thơ đó là hình t ương ng ười ph ụ n ữ Việt Nam chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống. Đó là hình ảnh bà Tú v ất v ả, gian truân ki ếm s ống, t ất b ật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Câu thơ đã nói lên m ột hoàn c ảnh làm ăn v ất v ả, lam lũ c ủa bà. Ở đây, bà Tú làm việc vất vả suốt cả năm, không kể mưa nắng trên mom sông- cái doi đ ất nhô ra đ ầy nguy hi ểm. Thấm thía nỗi vất vả, gian truân của vợ, Tú Xương đã m ượn hình ảnh con cò trong ca dao đ ể nói v ề bà Tú. Có điều hình ảnh con cà trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú X ương con t ội nghi ệp h ơn. Con cò trong thơ không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn là r ợn ng ợp c ủa th ời gian. Hình ảnh thân cò như một sự sáng tạo: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng” đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò cũng làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân của bà Tú, càng khơi d ậy c ả nỗi đau thân ph ận sâu s ắc, th ấm thía hơn: “Eo sèo mặt nước buổi đò đông” Câu thơ gợi nên một sự chen chúc, bươn chải trên sông nước của nh ững ng ười buôn bán nh ỏ, s ự c ạnh tranh đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua ti ếng l ại. Buổi đò đông đâu ph ải là ít lo âu, nguy hi ểm h ơn khi quãng vắng mà đó còn là sự chen lấn, xô đẩy chứa đầy bất trắc, nguy hi ểm. Nh ững câu th ơ đã làm n ổi rõ lên những vất vả, cực nhọc mà bà Tú và người phụ nữ Việt Nam xưa phải ch ịu đ ựng, trải qua. Còn với bài thơ Tự Tình II của Hồ Xuân Hương thì đó là sự kh ổ đau vì không làm ch ủ đ ược s ố ph ận c ủa mình: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non.” Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nh ưng dù mãnh li ệt đ ến m ấy, ti ếng tr ống cũng chỉ là âm thanh duy nhát trong đêm vắng, nếu không có nó thì đem khuya s ẽ tr ở nên vô cùng v ắng l ặng. Cái động đã đươc sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải c ủa đêm khuya. N ửa đêm là th ời gian sum h ọp của vợ chồng, là thời điểm hạnh phúc lứa đôi, ấy vậy mà lại có người phụ nữ tĩnh d ậy vào đúng th ời kh ắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ đã không ngủ được vì thiếu vắng một đi ều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi đau? Tiếng trống canh âm vang t ừ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, g ọi đ ến m ột điều đáng sợ đôí với một người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: đó là tuổi già. Tu ổi già càng đ ến g ần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng tr ống d ồn d ập c ứ xoáy sâu vào tâm con người phụ nữ, nó âm vang trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ không tài nào d ứt đ ược. D ồn d ập, h ối h ả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả th ời gian nữa, và t ự h ỏi: đây có th ật là ti ếng tr ống hiện hữu trong thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên t ừ tiếng lòng thổn thức c ủa tác gi ả, ti ếng tr ống ám ảnh về một bi kịch đang ngày càng đến gần hơn với bà: “Trơ cái hồng nhan với nước non” Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập thì cũng là lúc “h ồng nhan” ngày m ột tr ơ ra v ới đ ời. “H ồng nhan” chính là nhan sắc, gương mặt xinh đẹp của người ph ụ nữ. Đó là đi ều mà b ất c ứ ng ười ph ụ n ữ nào cũng h ết sức tự hào, coi trọng, nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng nhan” nh ư một hòn đá kéo n ặng c ả câu th ơ xuống. “Hồng nhan” để làm gì khi nữa đêm phải tĩnh giấc trong cái trống trãi, l ặng l ẽo đ ến đ ắng cay? “H ồng nhan” để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cữu mà s ẽ nhanh chóng vỡ tan theo t ừng nh ịp trống d ồn. Câu th ơ nh ư l ời đay nghiến, mỉa mai chính bản thân mình, đáng thương cho những người ph ụ nữ đ ương th ời b ị đè nén, áp b ức v ới những thủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan. Đó còn là nỗi đau vì cô qu ạnh, thi ếu vắng hạnh phúc lứa đôi, không người yêu thương, thông cảm. “Chén rượi hương đưa say lại tỉnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” Hai câu thơ vẽ nên một khung cảnh rất thật và cũng chứa chan bao nỗi ni ềm tác gi ả. M ột ng ười ph ụ n ữ mà phải ngồi uống rượu một mình, cô đơn với đêm khuya, với vầng trăng l ạnh. Câu th ơ là ngo ại c ảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng với người. Khi muốn quên s ầu là lúc ng ười ta ở trong tâm tr ạng cay đ ắng nhất, khi xung quanh không có ai để có thể chia sẽ nỗi ni ềm và ta ch ỉ còn bi ết quên đi n ỗi ni ềm trong men r ượu, một mình. Nhưng liệu chén rươu có thể làm quen đi bảo nỗi cô đ ơn, t ủi nh ục trong lòng hay H ồ Xuân H ương u ống rượu mà như uống đi bao giọt sầu mà người uống chẳng đổ đi được khi mà có th ể l ặng l ẽ, âm thầm nu ốt vào c ổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà trở lại chính trong tâm trí mình. Ở đây c ảnh tình Xuân H ương đ ược thể hiện chứa đựng bi kịch. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không đ ược trọn v ẹn.Trăng v ốn là bi ểu t ượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho ước mơ và hi vọng. Nhưng h ạnh phúc c ủa H ồ Xuân H ương l ại xót xa đ ến mức “khuyết chưa tròn”- một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đ ời còn dang d ở, éo le v ới nh ững tr ắc tr ở trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể bi ết tr ước ngày mai trăng s ẽ khuyết tiếp hay tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hi ện trong đó m ột n ỗi cô đ ơn, tr ống v ắng. Và
  4. bóng xế đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác gi ả: nỗi lo s ợ tr ước tu ổi xuân đang m ất đi. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Xuân Hương đang m ất đi mà tình duyên chuă đ ược tr ọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và đ ặc sắc, miêu t ả chính xác và vô cùng sinh đ ộng ngoại cảnh mà cũng bộ lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm t ư đang hi ện h ữu trong bà. Nhưng dù có vất vả, đau xót, chán chường đến mức nào, thì người ph ụ nữ Vi ệt Nam x ưa v ẫn là nh ững con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn là ở tình yêu th ương , lòng nhân h ậu, m ột lòng, một dạ vì chồng, vì con: “Nuôi đủ năm con với một chồng” Câu thơ là gánh nặng gia đình đặt lên vai bà Tú, vất vả quanh năm ch ẳng nề hà nh ư v ậy là đ ể nuôi c ả nhà. Đông con, nuôi lũ con đông ấy đã đành, bà còn phải nuôi chồng. Năm con v ới m ột ch ồng là sáu ng ười. M ột ph ải gánh sáu, thế là nặng, phải gánh và gánh được, thế là đảm đang. Nh ưng nuôi đ ủ v ẫn hi ểu là v ừa đ ủ, v ừa đ ủ nuôi, không thiếu nhưng cũng chẳng thừa. Vất vả quanh năm đến vậy mà cũng ch ỉ vừa đ ủ nuôi ch ồng, nuôi con, v ậy mới thật là vất vả, đã gắng hết sức rồi. Vậy mới thật là đảm, nặng đ ến th ế mà cũng gánh xong, khó th ế mà cũng chu toàn. Câu thơ thể hiện sự vất vả, gian lao đức tính chịu th ương, ch ịu khó, hết lòng vì ch ồng, vì con c ủa bà Tú nói riêng và của người phụ nữ Việt Nam nói chung. Còn với Tự Tình II, dù đớn đau đến mức nào thì trong sâu thẳm trái tim bà, dù y ếu ớt đ ến đâu cũng loé lên ánh lửa khát khao, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đ ấu tranh thay đ ổi cu ộc s ống c ủa mình: “Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.” Một hình tượng thiên nhiên dữ dội, đầy cựa động như tính cách buớng b ỉnh, không ch ịu khu ất ph ục đi ều gì của chính tác giả vậy. Ở đây, Hồ Xuân Hương, sự buồn tủi bao giờ cũng gợi nên nh ững ph ản ứng tích c ực, bà không buông xuôi, đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách thay đổi vận m ệnh, cho dù nh ững c ố g ắng đó m ới ch ỉ dừng lại trong suy nghĩ. Hai câu thơ tưởng như chỉ miêu tả cảnh vật xung quanh, nh ưng chính nh ững đ ặc đi ểm cuả cảnh vật đó đã được dùng để bộc lộ tâm trạng của con người. Hàng loạt nh ững đ ộng t ừ m ạnh đ ầy s ắc thái biểu cảm như xiên, đâm được đảo lên đầu câu. Những sinh vật bé nh ỏ, hèn m ọn, còn hèn m ọn h ơn c ả “n ội c ỏ hoa hèn” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải m ọc xiên, mà là “xiên ngang m ặt đ ất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, nó phải “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đ ảo ng ữ trong hai câu dã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng là sự phẫn uất của tâm trạng. Ch ỉ nh ững c ảnh v ật bình thường không có gì đặc biệt như rêu và đá, nhưng qua cách nhìn đấy b ất mãn, ấm ức c ủa tác gi ả, chúng tr ở nên vô cùng sống động. Cự động, nổi loạn, phá phách, muốn đ ập tan nh ững gì gò bó đ ẻ d ược t ự do vùng v ẫy giữa đất trời, thiên nhiên hoà hợp với con người, đặc điểm thiên nhiên cũng chính là n ỗi ni ềm nhân v ật. Và ta cũng thấy được tâm trạng của Hồ Xuân Hương phẫn uất trước những t ục l ệ phong kiến, cũng nh ư nh ững s ố ph ận h ẩm hiu đang tàn nhẫn ra tay bóp chết hạnh phúc của bà; nh ững uất hận ấy bị đè nén, gò ép trong lòng bà đ ến m ức không chịu nổi chỉ chực vỡ oà ra, bà khao khát muốn đập tung t ất c ả, muốn đ ập đ ổ m ọi th ứ, mu ốn t ự do bi ết nhường nào. Nhưng dù sao, bà cũng chỉ là một người phụ nữ phong ki ến, m ột thân ph ận nữ nhi cô đ ộc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì cũng chỉ trong giới hạn ngôn t ừ. Bà không thể làm gì h ơn đ ược n ữa.............. M ặc dù vậy, ta phải công nhận đay là một cách suy nghĩ vô cùng mới m ẻ, m ột t ư t ưởng đi trứoc th ời đ ại, m ột tính cách hoàn toàn khác biệt so với người phụ nữ lúc bấy giờ. Đó là một bản lĩnh, m ột cá tính Xuân H ương đáng trân tr ọng: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con” Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán l ắm rồi nỗi đời éo le, bạc b ẽo. Xuân đi r ồi xuân l ại, tạo hoá chơi một vòng luẩn quẩn. Từ xuân mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, v ừa là tu ổi xuân. Mùa xuân đi r ồi, mùa xuân trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn hoa cỏ, lá cây, nh ưng v ới con ng ười tu ổi xuân qua là không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” mang hai ý nghĩa khác nhau. T ừ l ại th ứ nh ất nghĩa là thêm lần nữa, từ lại thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở l ại của mùa xuân l ại đ ồng nghĩa v ới s ự ra đi c ủa tu ổi xuân. Ngh ệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: Mảnh tình-san s ẻ-tí con con. M ảnh tình đã bé l ại còn san s ẻ ra thành ít ỏi, chỉ còn tí con con nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ đ ược vi ết ra có th ể là tâm trạng c ủa ng ười mang thân đi làm lẽ. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình là một th ứ đ ược chia năm xẻ b ảy, nh ận d ược duy nh ất m ột mảnh tí con con. Hạnh phúc của bà chẳng những không trọn vẹn mà còn nh ỏ bé, ít ỏi đ ến m ức đ ộ t ội nghi ệp. Tình duyên như thế có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục, đắng cay. Cách dùng t ừ gi ản đ ơn mà v ẫn vô cùng đ ộc đáo đã cực tả nỗi niềm của tác giả. Hồ Xuân Hương ngang tàng, thách thức đ ầy nổi loạn trên là th ế, nh ưng cu ối cùng tất cả vẫn chỉ chìm vào vô vọng trong sự bất lực tột cùng và chán ch ường, m ệt m ỏi. Nh ững c ố g ắng vùng vẫy của bà chỉ là vô ích, bởi phận của bà vốn đã là một bi kịch và mãi mãi ch ỉ là bi k ịch mà thôi. Có l ẽ trong gi ờ phút ấy, bà đã muốn buông xuôi, muốn bỏ mặc cho tất cả s ố phận đ ưa đ ẩy, bà đã m ất h ết hi v ọng............ “Gi ọt nước mắt em..........âm thầm buông rơi, đêm sầu đơn côi...........trong tim em ôm tr ọn m ột n ỗi sàu b ơ vơ................đành khóc vậy thôi............... Liệu H ồ Xuân H ương có th ể v ượt qua t ất c ả đ ể tr ở l ại là m ột ng ười ph ụ nữ yêu đời mạnh mẽ, không sợ gì cả như ngày nào? Đó vẫn là câu hỏi còn d ở dang c ủa ng ười ph ụ n ữ đem thân đi làm lẽ, phận người mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn mà ch ỉ nh ỏ nhoi nh ư mảnh g ương v ỡ......... Câu th ơ diễn đat sâu sắc đỉnh điểm, bi kịch của Hồ Xuân Hương và cũng là của ng ười ph ụ nữ thời b ấy gi ờ. Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã h ội xưa, đ ồng th ời là k ết tinh c ủa nh ững đức tính tốt đẹp của ngưòi phụ nữ Việt Nam qua hàng thế k ỉ. Trong cả hai bài th ơ là hình t ượng ng ười ph ụ n ữ Vi ệt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng ở họ toát lên sự đ ấu tranh m ạnh m ẽ, v ượt lên s ố
  5. phận để làn tốt bổn phận của một người phụ nữ trong gia đình, m ột ng ười ph ụ nữ dám v ượt lên trên đ ớn đau đ ể tìm hạnh phúc mà mình hằng khao khát. Đề: Vẻ đẹp của nhà nho chân chính Phải nói rằng có những nhà thơ, nhà văn mà bóng dáng của họ gi ờ ch ỉ là niềm hoài c ổ, dĩ vãng xa x ưa. Nh ưng ngược dòng thời gian, vẻ đẹp tâm hồn của những con người ấy vẫn mãi toả sáng, vĩnh h ằng. Chúng ta càng th ấm thía hơn điều đó khi đến với”bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát và “bài ca ng ất ng ưỡng” cuă Nguy ễn Công Trứ- hai tác phẩm thấm đẫm vẻ đẹp nhân cách của nhà nho chân chính. Trước hết, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác ph ẩm đều là s ự th ể hi ện quan đi ểm c ủa mình v ề con đường danh lợi. Tuy nhiên mỗi người lại có một cách bộc lộ khác nhau về ước mơ th ời đ ại ấy. Cao Bá quát chán ghét thốt lên rằng: “Bãi cát dài bãi cát dài ơi Đi một bước như lùi một bước Mặt trời đã lặn chưa dừng được Lữ khấch trên đường nước mắt rơi” Phẳi chăng do quá lận đạn với dường danh lợi nên ông đx không m ấy khất khao khi nh ắc đ ến nó? V ới ông dường như sự nghiệp đậu đạt làm quan là quá gập ghềnh, trắc trở. Nói di ều ấy không có nghĩa Cao Bá Quát không có tài mà ngược lại, ông là một người có học vấn uyên thâm. Nguyên ngân ch ủ y ếu làm m ất đi m ột nhân tài đất nước như ông cũng là vì sự suy thoái cử xã hội, s ự khủng hoảng của thời đ ại. V ới cách s ử d ụng hình t ượng bãi cát đầy tính gợi hình, và hình ảnh người đi trên bãi cát vô cùng tinh t ế, Cao Bá Quát đã miêu t ả r ất thành công sự mệt nhọc, vất vả của người đi trên con dường danh lợi. Con dường ấy dài lắm, khó đi l ắm đến nỗi gi ọt n ước mắt của những người trí thức phải tuôn rơi. Giọt nước mắt đó là tiếng khóc cho s ự v ất v ả, m ệt m ỏi, gi ọt n ước m ắt khóc thương cho biết bao năm đèn sách không là gì cả mà h ơn nữa, đó là ti ếng khóc c ủa th ời đ ại, ti ếng lòng bi thương cho một xã hội suy đồi. Còn đến với Nguyễn Công Trứ, ta l ại cảm nh ận m ột suy nghĩ khác: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” May mắn hưon Cao Bá Quat, Nguyễn Công Trứ rất thành công trong sự nghiệp c ủa mình, nh ưng không vì th ế mà ông đề cao con đường làm quan. Dường như có một s ự tương đồng nho nh ỏ trong suy nghĩ c ủa hai nhà nho lớn khi Nguyễn Công Trứ cũng camt thấy bị gò bó, ép buộc chốn quan trường. Đi ều ấy đ ược thể hi ện sâu s ắc qua từ “vào lồng”. Có lẽ rằng sống trong thời đại đó thì cái đíh phấn đ ấu cuối cùng c ủa nhà nho là m ột ch ức quan. V ới họ, học là để thi cử, dèn sách là để được vinh danh. Nhưng chúng ta không nên quá phê phán l ối suy nghĩ ấy b ởi đó là mục đích sống của cả một thế hệ. Nếu nhue không đi theo con đ ường ấy, h ọ s ẽ ch ẳng có m ột l ối r ẽ nào khác cả. Không dừng lại ở đó, cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều để lại m ột dáu ấn riêng qua Tác ph ẩm c ủa mình để khẳng định phong cách . Với Cao Bá Quát, phong cách nhà nho chân chính th ật s ự to ả sáng kho ông có quan niệm sống vô cùng tiến bộ. Con đường danh lợi gập ghềnh đến thế thì bạn hãy tự thoát ra. Một b ước đi đ ể đ ường đ ời thay đ ổi, đ ể không còn phải vất vả bon chen, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Đâu phải ch ỉ có làm quan m ới là con đ ường duy nhất đi tới thành công, hãy chọn cho mình một lối rẽ riêng, không xô bồ, chen l ấn.Đ ừng đ ể vòng xoáy danh l ợi nhấn chìm những con người tài giỏi vào hố sâu, dũng cảm bước ra kh ỏi vòng xoáy ấy m ới là quy ết đ ịnh sáng su ốt nhất. Cao Bá Quát đã có một quan niệm rất đúng đắn, vượt qua thời đại đ ể h ướng con ng ười t ới m ột cu ộc s ống hạnh phúc hơn. Đó cũng là bước đi đầu tiên để làm thay đổi xã h ội, thoát kh ỏi s ự lũng đoàn, suy đ ồi. T ừ đó, Cao Bá Quát đã trở thành một biểu tượng của nhà nho chân chính, rất khác bi ệt so v ới các th ế h ệ tr ước. Cũng là m ột nhà nho chan chính, vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Công Trứ thể hi ện qua phong cách, b ản lĩnh cá nhân c ủa ... “Đô môn giải tổ chi niên mình. Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng Kìa núi nọ phau phau mây trắng Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi Gót tiên đủng đỉnh một đôi gì Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.” Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình vô cùng “ngất ngưởng”. Ông luôn làm nh ững đi ều khác thường, không giống người trong khi mình là một vị quan trên muôn dân. Không nh ững thế, ông còn khoe khoang t ự đ ại v ề thành tích, công lao của mình, rồi coi mình cao hơn người khác. Hơn thế nữa, Nguy ễn công tr ứ còn có m ột cu ộc s ống vô cùng tự do,phóng khoáng. Vượt lên cả những lời đồn thổi t ầm thường, ông s ống mà không đ ể ý đ ến xung quanh. Một cuộc sông đúng với cho\ính mìn, sống thật với b ản thân. Nh ưng ông mãi s ống trong lòng nhân dân v ới m ột hình ảnh vô cùng tốt đẹp, rất đáng kham phục. Cũng bởi vì ông đã công hién r ất nhi ều cho công cu ộc xây d ựng đất nước, có những tháng ngày sống hết mình vì nhân dân. Cành đáng trân trọng h ơn n ữa đó là ông đã dám th ể hiện cái “tôi” cá mhân của mình. Một cái tôi bản ngã – vượt lên thời đại. M ột nhà nho chân chính là ng ười dám nói, dám thể hiện bản lĩnh của mình trước thiên hạ. Và ông đã làm đ ược đi ều đó, x ứng đáng v ới v ị trí c ủa mình trong đất nước. Đúng vậy, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua 2 tác ph ẩm “ Bài ca ngăn đi trên bãi cát” và “ Bài ca ng ất ngưỡng” được thể hiện rất thành công. Tuy mỗi người có một phong cách riêng nhưng nó đều đã trỏ thành m ột
  6. nốt nhấn thời đại, trở thành điểm sáng thẩm mĩ trong lòng người đ ọc b ởi ấy là vẻ đẹp bi ểu t ượng c ủa con ng ười Việt Nam trong thời đại dĩ vãng, xa xưa.
nguon tai.lieu . vn