Xem mẫu

  1. Họ và tên : Trần Minh Tùng Bộ môn: Kinh tế vĩ mô Lớp : KH-ĐT 03 Yêu cầu : tóm tắt sách TOÀN CẤU HÓA VÀ NHỮNG MẶT TRÁI Chương I: Lời hứa của các tổ chứa toàn cầu Các quan chứa quốc tế biều tượng giấu mặt của trật tự kinh tế thế giới đang bị tấn công ở mọi nơi. Và hầu như các cuộc họp lớn nào của IMF, WB và WTO bao giờ cũng có cảnh xung đột và bạo loạn. Thực ra bạo loạn và chống đối ở các nước phát triển không có gì mới, cái mới ở đây là nó đã lan sang các nước phát triển. Những sự phản đối này đã làm cho các nhà nằm quyền phải tự vấn lương tâm ngay cả tổng thống Pháp một chính khách rất bảo thủ cũng thừa nhận toàn cầu hóa không mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn. Thật khó hiểu toàn cầu hóa(TCH) đã mang tới tăng trưởng nhanh hơn nhờ mở của quốc tế giúp cho hàng triệu người có cuộc sống tốt hơn.TCH đã giảm đi tình trạng cô lập của một nước mở ra cơ hội tiếp cận tri thức cho nhiều người ở các nước phát triển.Ngay cả khi TCH có những mặt trái thì luôn đi kèm với nó là những lợi ích. Nhưng ở các nước đang phát triển TCH đã không mang tới lợi ích như đã hứa hẹn.Cái hố ngăn cách giữa người giàu và nghèo ngày càng tăng thêm bất chấp lời hứa hẹn xóa đói giảm nghèo của TCH trong thập kỷ trước đây số người tăng nghèo thêm 100 triệu trong khi thu nhập thế giới tăng 2.5 %. Nếu như TCH không thành công trong việc giảm nghèo thì nó cũng không thành công trong việc đảm bảo ổn định đó là các cuôc khủng hoảng ở chân Á, Mỹ La Tinh đe dọa đến kinh tế toàn cầu và TCH đã đem đến sự nghèo đói chưa từng có cho các nước chuyển đổi từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường. Những người phản đối TCH chỉ trích các nước phương tây là đạo đức giả và họ hoàn toàn đúng các nước phương tây đã ép buộc các nước nghèo xóa bỏ hàng rào thương mại nhưng chính họ lại giử lại hàng rào cho chính họ. Các ngân hàng phương tây đã thu được nhiều lợi nhuận từ việc nới lỏng kiểm soát thị trường vốn ở châu Á và Mỹ La Tinh bằng dòng tiền đầu cơ chảy vào và ra sau một đêm. Vòng đàm phán 1
  2. Uruquay đã tăng cường quyền sở hửu trí tuệ trong lỉnh vực y tế và vòng đàm phán này phản ảnh quá mức lợi ích của nhà sản xuất thuốc mà quên mất lợi ích của người sử dụng ở các nước nghèo. Nếu như lợi ích của toàn cầu hóa không nhiều như người ta hứa hẹn thì cái giá phải trả cho nó là quá đắt đó là vấn nạn về môi trường, tham nhũng, thất nghiệp, rối loạn xã hội và đặc biệt là bạo loạn. Thực ra thì những vấn đề này không có gì mới mẽ cái mới ở đây là sự phản đối mạnh mẽ ngày càng tăng chống lại các chính sách TCH, những người chống đối TCH nhìn các bộ trưởng tài chính và thương mại với một con mắt khác khác đến nổi đôi khi người ta tự hỏi có phải chúng ta cùngđang nói về một hiện tượng hay không? Một hiện yượng mà cùng một lúc đi kèm với những lời tán dương và lời lăng mạ. Lời tán dương ở đây là TCH đã cắt giảm chi phí vận chuyển đáng kể và xóa bỏ những hàng rào nhân tạo cho các dòng hàng hòa, tư bản và tri thức tự do luân chuyển. TCH đã đưa tới sự quan tâm nhiều hơn của các tồ chức liên chính phủ như Liên Hợp Quốc, Tồ chức lao Động Quốc Tế và WHO. Lới lăng mạ ở đây có lẽ nhằm vào ba tổ chức đang điều phối TCH là IMF, WB và WTO và tôi chỉ tập trung vào 2 tổ chức đó là IMF va WB vì chúng luôn ở trung tâm của các vấn đề trong hai thập kỷ qua bao gồm các cuộc khủng hoảng và chuyển đổi kinh tế. IMF và WB đều dược hình thành trong thế chiến thứ II tại Bretton Woods , New Hampshire tháng 7- 1944 nhằm tái thiết châu âu sau chiến tranh và cứu thế giới khỏi khủng hoảng kinh tế trong tương lai. Trong đó WB đảm bảo nhiệm vụ tái thiết và phát triển còn IMF thì có trọng trách có vẽ khó khăn hơn là đảm bảo ổn định kinh tế toàn cầu Qua thời gian giờ đây IMF đã thay đổi rất nhiều, nó thành lập dựa vào niềm tin là thị trường hoạt động không hoàn hảo và buộc các nước theo đuổi chính sách tiền tệ-tài khóa mở rông thì giờ nó quay sang ủng hộ thuyết thị trường tự do và chỉ chấp nhận cho các nước khác vay nếu các nước này thực hiện chính sách tiền tệ-tài khóa thu hẹp và sự thây đổi lớn này xảy ra vào năm 1980 khi tổng thống Mỹ và Anh cổ vũ cho thị trường tự do. Và cũng trong năm 1980 WB đã mở rộng hoạt động cho vay với tên gọi là các khoản cho vay điều chỉnh cơ cấu và chỉ được cho vây nếu có sự chấp nhận của IMF. Và sau khi bức tường berlin sụp đổ đã mở ra nhiệm vụ mới cho IMF là chuyển đổi kinh tế thị trường ở các nước Liên Xô cũ và Đông Âu. Hơn một nửa thế kỷ sau khi thành lập rõ ràng IMF đã thất bại trong sứ mệnh của mình cụ thể là trong một phần tư thế kỷ qua các cuộc khủng hoảng xẩy ra nhiều hơn và ngày càng khốc liệt 2
  3. hơn. Khá nhiều chính sách mà IMF áp đặt, đặt biệt là tự do hóa thị trường tài chính quá sớm đã góp phần vào quá trình bất ổn toàn cầu và nó đã thất bại trong cả nhiệm vụ nguyên thủy và sứ mệnh mới của mình. Và thảo thuận Bretton Woods cũng kêu gọi thành lập một tổ chứa quốc tế thứ 3 là WTO để kiểm soát thương mại toàn cầu để nhằm tránh những chính sách thương mại kiểu “hại hàng xóm” và tổ chức này khác với 2 tổ chứa trên là không đặt ra các quy định mà tạo một diễn đàn dàm phán thương mại giữa các bên với nhau và đảm bảo thỏa thuận được thực hiên. Những ý tưởng thành lập các tổ chứa này đều tốt nhưng dần qua thời gian bị biến dạng hoàn toàn khác. Những tư tưởng của Keynes bị thay thế bởi tư tưởng thị trường tự do một phần gọi là “đồng thuận Washington” và nhiều ý tưởng cũa đồng thuận này nhằm đối phó với các nước Mỹ La Tinh nơi mà các chính phủ thường xuyên bị thâm hụt ngân sách lại được áp dụng cho các nước khác. Trong nhiều trường hợp chính sách kiểu đồng thuận này phù hợp với Mỹ La Tinh lại chẳng phù hợp với các nước trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển hay các nước chuyển đổi. Cụ thể là bắt một nước trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển mở cửa cho hàng hóa nhập khẩu, việc này có thể bóp chết các ngành công nghiệp non trẻ hay kiểu thắt chặt tiền tệ đẩy lãi suất lên cao khiến cho thất nghiệp cao hơn hay tồi tệ hơn là tự do hóa chẳng đêm lại tăng trưởng mà còn làm cho nghèo đói tăng thêm và một luận điểm kinh tế tồi nửa đó là tự do hóa thị trường tài chính và IMF đã thất bại trong tất cả các lỉnh vực mà nó tham gia: phát triển, chống khủng hoảng và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thi trường. Nằm sau những vấn đề của các tổ chức quôc tế chính này là cơ cấu quản trị của chúng, chúng không chỉ bị điều khiển bởi các nước công nghiệp giàu có mà còn bởi giới tư bản thương mại và tài chính cho nên những chính sách này sẽ thiên về lợi ích của các nhóm này. Và vần đề là ai là đại diện cho một quốc gia. Tại IMF là các bộ trưởng tài chính và WTO là các bộ trưởng thương mại nhưng những người phải còng lưng ra trả nợ lại là các người nông dân hay các doanh nhân hay người tiêu dùng phải trả giá cao hơn do hàng rào thương mại hay gánh nặng cho trợ cấp xuất khẩu cho một số ít người. Không còn sự lụa chọn nào khác thể hiện sự bất bình họ đã nổi loại và đường phố không phải là nơi thảo luận hay hoạch định chính sách mà là những nhượng bộ. Tại sao như thế bản thân toàn cầu hóa là không tốt hay xấu nó đủ sức mang lại vô số điếu tốt những nước Đông Á đã thu được rất nhiều lợi ích bất chấp cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997. Ngày nay khi chi phí giao thông, liên lạc giảm xuống và sự dở bỏ hàng rào dịch chuyển (trừ nhân công) nhưng không may ta không có một chính phủ chịu trách nhiệm với người dân mỗi nước mà thay vào đó là các tổ chức quốc tế nơi mà có một vài cá nhân các bộ trưởng tài chính, 3
  4. thương mại có mối quan hệ chặc chẽ với các lợi ích thương mại tài chính trong khi có vô số người bị ảnh hưởng bởi các quyết định của họ và đã đến lúc cần thay đổi một sự thay đổi không chỉ giúp tăng trưởng bền vững mà còn chia sẻ công bằng hơn Chương 2: Những lời hứa bị phá bỏ. Ethiopia cuộc chiến giữa quyền lực chính trị và sự đói nghèo: Khi tôi đến Ethiopia vào năm 1997 thì Meles zenawi thủ tướng của Ethiopia đang tham gia vào cuộc tranh luận nảy lửa với IMF và IMF đã dừng chương trình cho vay của nó vì cho rằng lo ngại về tình trạng ngân sách của nước này. Ethiopia có 2 nguồn tài trợ chính đó là thuế và viện trợ nước ngoài và khi nguồn tài trợ này chấm dứt thì đất nước này sẽ gặp khó khăn và IMF cho rằng ngân sách chỉ được coi là bền vững nếu như chính phủ tiêu trong khoản thuế thu được rõ ràng ta thấy lập luận này của IMF là không logic. Một nước như Thụy Điển viện trợ cho Ethiopia xây dựng trường học thì theo lập luận này Ethiopia nên cất vào dự trữ, đây không phải là mục tiêu của các nước viện trợ cái mà họ muốn đó là một ngôi trường được ra đời đón các em học sinh nghèo ở đây đi học IMF lo ngại rằng các nguồn tài trợ là không ổn định để dựa vào điều này thật kỳ quặc và tôi đã kiểm chứng rõ ràng các nguồn tài trợ ổn định hơn nguồn thu từ thuế. Bên cạch việc sử dụng nguồn viện trợ như thế nào tôi còn nhận ra một vấn đề khác là trả nợ sớm và IMF cho rằng mọi việc phải được báo cáo với nó nếu không nó sẽ ngừng cho vây. Một điểm đáng chú ý nửa đó là vấn đề liên quan đến vấn đề tự do hóa thị trường tài chính IMF không những muốn Ethiopia mở của thị trường tài chính mà còn muốn chia nhỏ ngân hàng quốc doanh của nước này. Điều này không hợp với trình độ phát triển của nước này. Ethiopia hoàn toàn đúng khi chống lại yêu cầu này vì họ đã có được bài học từ nước láng giềng là Kenya. Khi mở của thị trường tài chính đã làm 14 ngân hàng của nước này phá sản trong 2 năm 1993-1994 và lãi suất không giảm mà còn tăng và nông dân không thể tiếp cận nguồn tín dụng này để mua hạt giống và phân bón và tệ hơn là nạn đói có thể sẽ hoành hành. Bị chính phủ Ethiopia từ chối IMF đã dừng chương trình cho vay của nó và tôi đã dùng tất cả các mối quan hệ của mình để IMF và WB nối lại chương trình cho vay này và cuối cùng sau rất nhiều nổ lực IMF đã cho vay trở lại. Sự tranh cải về vấn đề Ethiopia đã cho tôi biết nhiều đều về 4
  5. cơ chế làm việc của IMF, dường như tổ chức này không bao giờ nghe người khác IMF luôn cho rằng nó là một “nhà cung cấp” độc quyền những tư vấn “đúng đắn”. IMF làm cho người ta nghi ngờ rằng quyền lực chính trị và lợi ích đặc biệt đang tác động vào các chính sách của tổ chức này. Đối với IMF thật khó cho việc thấu hiểu mọi vấn đề của thế giới và điều này cũng dễ hiểu. Vì IMF luôn dùng “1 liều chữa bách bệnh” và có lẽ mọi vấn đề đều xuất phát từ nhân sự của tồ chức này nơi mà các nhân viên chỉ được giảng dạy về thị trường cạch tranh hoàn hảo không có thất nghiệp tự nguyện và cung luôn bằng với cầu. Các nhà kinh tế ở IMF không thể lờ đi sự tồn tại của thất nghiệp và họ cho rằng thất nghiệp không phải do thị trường mà đo yếu tố khác là công đoàn và đòi hỏi lương cao. IMF thường lờ đi những tác động ngắn hạn của những chính sách mà nó tư vấn và tin rằng trong dài hạn sẽ tốt hơn là đêm đến tăng trưởng và mang lợi ích cho tất cả. IMF cho rằng bất kỳ một tác động trong ngắn hạn là sự đau đớn cần thiết nhưng theo tôi có thể tránh được phần lớn các đau đớn nếu chính sách được thiết kế tốt. Một ví dụ khác nửa đó là Botswana một quốc gia chỉ có 1.5 triệu dân và là một nước nông nghiệp với mức thu nhập dưới 100USD/người/năm nhưng vẩn tăng trưởng 7.5%/năm (1961-1997). Một thuận lợi của đất nước này là có nhiều kim cương nhưng không như các quốc gia châu phi khác nạn tham nhũng và tranh giành xảy ra khắp nơi. Botswana có một bộ mấy chính trị ổn định kiểm soát tốt nguồn tài nguyên này. Một lý do nữa dẫn đến thành công của nước này là họ lựa chọn các nhà tư vấn rất kỹ. Một thập kỷ trước đây khi Botswana gặp cuộc khủng hoảng với tên gọi là khủng hoảng thanh khoản và muốn IMF giúp đỡ thì phải thực hiện theo yêu cầu của IMF là thực hiện chính sách tài khóa thu hẹp có thể là cuộc khủng hoảng tồi tệ thêm và Botswana đã nhận biết sự bất ổn ở 2 khu vực là nông nghiệp và kim cương Botswana đã thận trọng lập ra một quỹ dự phòng cho các cuộc khủng hoảng này và họ đã vượt qua cuộc khủng hoảng này mà không cần sự giúp đỡ của IMF và từ đó trở đi họ không còn quay qua nhờ IMF giúp đỡ nữa. Ethiopia và Botswana là điển hình thành công ở châu phi Tôi nhận biết sự tương phản này khi đến Kenya vào 1960 một nước có xuất phát điểm rất tốt nhưng khi tôi quay trở lại nền kinh tế của nước này đã suy sụp trong một thời gian dài. Nạn tham nhũng hoanh hành là lỗi riêng của Kenya nhưng củng một phần do nghe theo IMF. IMF không thích lắng nghe những nước khách hàng về các chủ đề như chiến lược phát triển. Lập trường của IMF như lập trường của một nhà lảnh đạovà chỉ đối thoại với bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương còn những người khác thì khỏi và IMF luôn nói rằng nó luôn đàm phán chứ 5
  6. không ép buộc với các “khách hàng” của mình. Nhưng các cuộc đàm phán này là đàm phán một bên và tất nhiên quyến lưc luôn nằm trong tay của tổ chức này. Và sự mất cân đối quyền lực này không thể tránh khỏi mâu thuẫn đã không mấy tốt đẹp này và IMF luôn bóp chết mọi thỏa thuận mà chính phủ khách hàng đưa ra về chính sách kinh tế. Khi ta đọc một thỏa thuận điển hình giữa IMF và một nước đang phát triển thì ta có thể thấy sự thiếu tin tưởng lẫn nhau. IMF quản lý bằng các chỉ số kinh tế vĩ mô còn chính phủ các nước phải thực hiện các điều khoản cho vay trong môt khoảng thời gian nhất định.IMF thường tiến hành cho vay nhiều đợt và mỗi đợt , ràng buộc mỗi đợt phải tiến bộ hơn đến những yêu cầu mà nó đặt ra. IMF lý luận rằng các ràng buộc là cần thiết đễ tăng khả năng trả nợ nhưng tôi thấy trong một vài trường hợp chứng làm giảm khả năng trả nợ. khi những ràng buộc làm kinh tế cũa các nước đi vay lâm vào khủng hoảng trầm trọng hơn. Và một số ràng buộc đã đi sang lĩnh vực chính trị đó là điều khoản với Hàn Quốc đó là làm cho NHTW của nước này độc lập hơn và không có một bằng chứng nào cho thấy NHTW độc lập hơn thì tăng trưởng nhanh hơn cả. Có vô số lý do giải thích sự thất bại của việc áp đặt điều kiện đó là khái niệm kinh tế cơ bản về tính thây thế, lý do khác nữa là đó là những điều kiện áp đặt sai lầm như tự do hòa thị trường tài chính ở Kenya hay chính sách tài khóa thu hẹp ở Đông Á và một trường hợp khác nữa đó là sự áp đặt sẽ bị loại bỏ khi một chính phủ khác lên nằm quyền và một số lại dính dáng đến chính trị. Có vô số than phiền không chỉ chống lại ở bản thân những điều kiện và cách áp đặt mà còn cả nguồn gốc hình thành nên chúng, đó là cái mà người ta thường gọi là “one size fits all”. Thậm chí các nước không hề vây nợ của tồ chức này cũng bị ảnh hưởng đó là điều khoản thỏa thuận khi hình thành tổ chức này “đảm bảo khả năng chuyển đổi của đồng tiền cho mục đích thương mại trong khi các nước nhỏ phải nghe theo thì các nước lớn lại phớt lờ chúng. Có 2 lý do để IMF nên tham khảo ý kiến rộng rãi trong nước mà nó tư vấn: một la, người ở trong nước thường biết nhiều về nền kinh tế của chính họ hơn các chuyên gia IMF và hai là, Minh bạch và công khai những việc chính phủ của mình làm cho người dân ở nước sở tại và người dân coi đó là quyền chứ không phải là một ận huệ Chương 3: Quyền tự do lựa chọn? 6
  7. Chính sách tài khóa khắt khổ, tư nhân hóa và tự do hóa thị trường là ba trụ cột trong các vần đề kiểu đồng thuận Washington. Những chính sách này được xây dựng để đối phó với những vần đề ở Mỹ La Tinh và chúng đã thực sự có hiệu quả đáng kể nhưng vần đề là các chính sách này lại được tiền hành quá mức và quá nhanh nên dẫn tới kết quả không mong muốn và thường gây thiệt hại rất lớn cho nhiều nước chưa chủng bị tốt dể tiến hành những chính sách này. Tự nhân hóa . Nói chung ở nhiều nước phát triển và không phát triển thì thường là chính phủ không có kỹ năng để điều hành các công ty nhà nước tốt nhất nên vấn đề tư nhân hóa là cần quan tâm nhưng IMF và WB thì thường tiếp cận vần đề này một cách tiêu cực là phải tư nhân hóa cho thật nhanh và càng nhanh thì càng tốt và kết quả là hàng loạt các thất bại ra đời. IMF thì thường giả định một cách rất đơn giản là thị trường sẽ đáp ứng mọi nhu cầu nhưng trong thực tế thì chính phủ sinh ra để cung cấp các dịch vụ mà thị trường thất bại chẳng hạng như tình trạng độc quyền, thị trường bảo hiểm niên kiêm ở Châu Âu... Không chỉ tác động đến người tiêu dùng bởi thất bại thị trường tư nhân hóa còn tác dụng đền người lao động.Tư nhân hóa không tạo ra các công ty mới mà tái cơ cấu lại các công ty nhà nước hoạt động không hiệu quả và kết quả là ban quản trị mới này sẽ cắt giảm lượng công nhân có năng suất lao động thấp dẫn đến tình trạng thiếu việc làm ảnh hưởng đến người lao động nói riêng và xã hội nói chung đã làm tệ nạn xã hội tăng nhanh do thiếu việc làm. Do dó tư nhân hóa phải là một chương trình toàn diện đi đôi với việc cát giảm việc làm là tăng việc làm mới. Và cuối cùng là vấn đề thường xảy ra nhất chính là nạn tham nhũng trong quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước. Nếu ở một nước mà bộ máy quản lý đã tham nhũng thì ta sẽ thấy rỏ ràng là chính phủ đó không thể quản lý tốt vấn đề tư nhân hóa. Họ nghĩ rằng tại sao lại không bán các công ty nhà nước với giá rẽ hơn thị trường để kiếm chát mà phải bán đúng giá thị trường đêm về cho ngân sách quốc gia, mà họ không có chút gì vào túi riêng và bằng chứng rõ ràng nhất chính là nước Nga mà ta sẽ được biết ở chương sau. Tự do hóa 7
  8. Tự do hóa tức là chính phủ không can thiệp vào thị trường tài chính,thị trường vốn và các rào cản thương mại, hai khía cạch đầu tiên đã được IMF chấp nhận rằng nó thường góp phần gây ra khủng hoảng tài chính thì khía cạch thứ ba được coi là cái cần quan tâm nhất chí ít là từ các nhà lảnh đạo các nước phát triển. Tự do hóa thương mại được kỳ vọng là làm tăng thêm thu nhập cho tất cả các bên tham gia nhưng thường với các chương trình của IMF thì thường xảy ra tình trạng mất việc làm hàng loạt, do các ngành công nghiệp non trẻ của các nước đang phát triển không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Có lẽ những nước ở Đông Á là những nước thành công nhất, bởi vì họ tiến hành dỡ bỏ hàng rào thương mại một cách cẩn trọng khi có đủ vốn tạo thêm doanh nghiệp, tăng việc làm và các ngành công nghiệp trong nước ở các quốc gia này đủ sức cạch tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và họ đã tăng trưởng nhanh nhờ xuất khẩu. Một nguyên nhân khác cũng làm cho tự do hóa thương mại thường xuyên thất bại nữa đó là thói đạo dức giả của các nước phát triển là đẩy mạnh tự do hóa thương mại để xuất khẩu trong khi đó lại bảo họ những lĩnh vực mà các nước đang phát triển có lợi thế . Ngày nay các thị trường mới nổi không còn bị ép bởi vủ trang mà là sức mạnh khinh tế mặc dù đã có WTO là nơi để thảo luận nhưng thường là một chiều vì các nhà đàm phán thương mại Mỹ và IMF thường đòi đẩy mạnh tự do hóa thương mại mà các nước khác cần sự trợ giúp của quỹ này nên thường chấp nhận các yêu cầu này. Bộ thương mại Mỹ thường đại điện bởi lợi ích của một nhóm cục bộ, thường buộc tội các nước vi phạm luật. Họ tự tiến hành điều tra, kết tội và đưa ra các hình phạt cho các nước mà theo nó là vi phạm luật. Những lợi ích cục bộ này có thể phá hoại uy tín của Mỹ và lợi ích quốc gia một Mặt dù một lịch trình tự do hóa thương mại có thể đêm đến lợi ích nhưng tự do hóa thị trường tài chính rắt rối hơn nhiều. Các nước phát triển dù đã có những cơ chế quản lý khá hoàn hảo đôi khi cũng gặp các trục trặc nhưng IMF lại đêm đều này đến với các nước đang phát triển những nước mà cơ chế quản lý còn yếu kém và hậu quả gay ra là khủng hoảng ngân hàng và suy thoái kinh tế. Hậu quả của tự do hóa tài chính đôi khi lớn hơn hậu quả của tự do hóa thương mại và IMF thường đưa ra lập luận đơn giản cho quan điểm của nó là thị trường tự do hoạt động hiệu quả hơn và hiệu quả cao hơn dẫn đến tăng trưởng nhanh hơn và sẽ thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. 8
  9. Vai trò của đầu tư nước ngoài: Theo như Đồng thuận Washington thì đầu tư nước ngoài đem đến tăng trưởng cho các nước và nhà đầu tư nước ngoài sẽ mang đến công nghệ kiến thức, tạo ra nhiều việc làm giúp các nước đang phát triển tiếp cận được với thị trường nước ngoài. Nói như thế không có nghĩa là đầu tư nước ngoài không có mặt trái của nó khi các doang nghiệp nước ngoài tràn vào sẽ bóp chết các doanh nghiệp nhỏ với với hy vọng phát triển nền công nghiệp bản địa. Thứ hai, là nếu như chưa có luật cạnh tranh thì các doah nghiệp này sau khi đánh bật các doanh nghiệp trong nước sẽ dùng sức mạnh độc quyền để tăng giá Ngân hàng là một lĩnh vực mà các ngân hàng nước ngoài thường chèn ép các ngân hàng bản địa vì chúng có tiềm lực tài chính mạnh hơn và đưa ra các dịch vụ hấp dẫn hơn. Nhưng các ngân hàng này không thích mở chi nhánh cho vay ở các vùng xa xôi hẻo lánh và khó thu hồi nợ chúng chỉ thích cho các tập đoàn đa quốc gia vay và các doanh nghiệp lớn trong nước còn những doanh nghiệp nhỏ thì rất khó tiếp cận nguồn tín dụng từ các ngân hàng nước ngoài này. Và một điểm đáng lo ngại nửa là ngân hàng nước ngoài ít chịu tác động điều tiết kinh tế vĩ mô thông cửa sổ chiết khấu. Tài chính không phải là vấn đề duy nhất, khi chính phủ có dính dáng đến tham nhũng thì các tập đoàn nước ngoài thường “gợi ý” thường bằng hối lộ cho các quan chức chính phủ đổi lại để chúng có đuợc các bản hợp đồn béo bở (mua với giá cao và một sản lượng lớn) gây thiệt hại cho đất nước nhưng bù lại chỉ là một số ít tiền chảy vào túi các quan chức chính phủ. Và khi các nước đang phát triển này tìm ra một nguồn tài nguyên nào đó có giá trị lớn thì thường rơi vào tình trạng mà kinh tế học gọi là “căn bệnh Hà Lan”, hay thay vì tập trung tạo của cải cho đất nước thì người ta tập trung vào tranh giành chím đoạt lợi nhuận. Tuy nhiên vai trò của đầu tư nước ngoài là rất cần thiết để các nước đang phát triển thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn và tiếp cận với công nghệ, tri thức và thị trường nước ngoài. Xác định nhịp độ Có lẽ sai lầm ngớ ngẩn của IMF là sai lầm về lịch trình và nhịp độ việc thúc đẩy tự do hóa và tư nhân hóa trước khi có các cơ chế quản lý thích hợp và khung pháp luật đầy đủ để điếu tiết thị trường sẽ làm cho một nền kinh tế đi theo các một hướng khác chệch khỏi những gì mà ta kỳ vọng. IMF thường cho rằng lợi nhuận sẽ thúc đẩy nền kinh tế đạt hiệu quả như là “một bàn tay vô hình dẫn dắt” nhưng thực tế gần đây đã xuất hiện một lý thuyết chứng minh rằng một khi thông 9
  10. tin không hoàn hảo và thị trường không hoàn hảo thì bàn tay vô hình cũng không thể hoạt động hoàn hảo và hai điều kiện của lý thuyết trên luôn được cá nước đang phát triển luôn “đáp ứng” đầy đủ, do đó cần phải có thời gian và lịch trình để các nước đang phát triển hoàn thiện về các thể chế quản lý và khung pháp luật thị trường hoạt động hoàn hảo hơn và theo như Paul Krugman nói thì “ cái gì cũng cần có thời gian thích ứng và thành Rome thì không thể xây xong trong một ngày”. Và sự phát triển thành công cần phải chú ý tới ổn định xã hội vì khi thay đổi để phát triển tốt hơn thì áp lực của thay đổi lên xã hội là rất lớn do đó khi đưa ra một chính sách thay đổi nào thì củng cần phải mềm dẻo và hài hòa với lợi ích xã hội và một đất nước không thể phát triển thành công nếu có xẩy ra bạo loạn. Kinh tế học “lọt sàng xuống nia” Một phần của khế ước xã hội là sự công bằng tức nghĩa là thành quả xã hội được chia công bằng cho cả người giàu và người nghèo. Những chính sách của IMF rất ít chú ý tới vấn đề này vì họ tin vào kinh tế học “lọt sàn xuống nia” mặt dù trong thực tế muốn giảm nghèo phải tăng trưởng nhưng điều ngược lại không đúng là tăng trưởng thì không đảm bảo mọi người đều được hưởng (công bằng). thực tế đã cho thấy lý thuyết này không đúng mà ví dụ như Đông Á Trung Quốc, Hàn Quốc… mà chương sau ta sẽ thấy vì chính phủ ở các nước này không tin vào tăng trưởng sẽ đêm lại lợi ích cho người nghèo và họ tin công bằng sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Ở những nơi khác khi chính phủ áp dụng chính sách kiểu Đồng Thuận Washington và cái mà họ đã nhận được sự bất bình đẵng ngày càng tăng người nghèo càng nghèo hơn và người giàu càng giàu thêm. Những ưu tiên và chiến lược Có nhiều điểm trong Đồng Thuận Washington không đề cập nhưng có thể mang đến tăng trưởng cao hơn và bình đẳng hơn đó là: Cải cách ruộng đất: ở các nước đang phát triển thì đất canh tác chủ yếu nằm trong tay một số ít người giàu và nông dân thì phải làm như một tá điền và chỉ được hưởng rất ít trong thành quả mà mình làm ra nên có thể thui chột động lực làm việc của họ do đó cải cách ruộng đất là cần thiết, nó sẽ làm cho đất được sử dụng hiệu quả và công bằng hơn 10
  11. Hai là, kiểm soát khu vực tài chính vì theo nghiên cứu thì đây là một trong ba nguyên nhân chính dẩn tới khủng hoảng tài chính nhưng IMF thì không chú trọng tới vấn dề này bằng việc giảm lạm phát. Và giảm lạm phát sẽ làm cho tăng trưởng chậm hơn và thất nghiệp cao hơn. Và cuối cùng là giảm nghèo, may mắn là ngày nay giảm nghèo đã được quan tâm hơn trong tăng trưởng nhưng thực tế là một số nước tuy tăng trưởng nhưng không giảm nghèo một số khác thì lại được cả hai là vừa tăng trưởng vừa giảm nghèo. Câu hỏi ở đây chính là tác động của các chính sách mà các nước này áp dụng. một số chính sách có tác dụng tăng trưởng nhưng không giảm nghèo, một số khác lại kích thích tăng trưởng và gia tăng nghèo và vừa tăng trưởng vừa giảm nghèo. Do đó muốn có dược những lựa chọn mang tính chiến lược thì phải tìm hiều nguyên nhân và bản chất của nghèo đói. Chúng ta đã thấy tự do hóa thương mại cùng với lãi suất tăng cao sẽ làm gia tăng thất nghiệp và người nghèo gánh chịu. Tự do hóa thị trường tài chính mà không đi đôi với kiểm soát phù hợp sẽ làm cho bất ổn kinh tế và làm cho lãi suất tăng chứ không giảm như mong đợi và nông dân càng khó tiếp cận với nguồn tín dụng để mua phân bón và giống cao sản. Tư nhân hóa mà không đi kèm với luật cạnh tranh sẽ làm cho giá tiêu dùng tăng chứ không giảm hay chính sách tài khóa thu hẹp được tiến hành không đúng lúc sẽ làm cho thất nghiệp cao và vỡ tan khế ước xã hội. IMF thường đánh gái thấp thiệt hại nhưng lại đánh giá cao lợi ích từ những chương trình của nó ví dụ như việc thu học phí ở các nước nghèo, IMF cho rằng việc thu học phí sẽ không ảnh hưởng đáng kể đến số lượng hoc sinh đến trường và chính phủ thì cần khoản thu này. Và trong thực tế thì số học sinh đến trường giảm đáng kể và gây tác động lớn đến vấn đề xã hội. Nếu như IMF rất đề cao đến thị trường thì lại đánh giá rất thấp vai trò của chính phủ và họ cho rằng chính phủ là nguyên nhân chính của mọi vấn đề, thị trường mới là nơi giải quyết mọi vấn đề Do mỗi thời kỳ và mỗi nước khác nhau nên liệu các nước có thu được thành công giống như Đông Á và liệu những chiến lược thành công trong một phần tư thế kỷ trước có thể thành công trong hôm nay hay không? Các nhà kinh tế có thể không thống nhất câu trả lời. Nhưng mỗi nước phải cân nhắc kỷ những lựa chọn của mình và các tổ chức quốc tế thì chỉ có nhiệm vụ cung cấp tiền và các nước này sẽ tự mình lựa chọn và chiệu trách nhiệm về sự lựa chọn của họ và bản chất của tự do là tự chọn lựa và tự chiệu trách nhiệm 11
  12. Chương 4: CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐÔNG Á Khi đồng baht của Thái LAn sụp đổ thì không ai biết rằng đó là hồi chuông cảnh báo cho một cuộc khủng hoảng kinh tế lớn sắp xảy ra, cuộc khùng hoảng đã quét từ châu Á tới Nga , chân Mỹ La Tinh và đe dọa toàn cầu. Và thật không may những chính sách mà IMF áp đặt đã làm cho tình hình ngày càng tồi tệ hơn, IMF sinh ra là để giải quyết các cuộc khủng hoảng nhưng sự thất bại của IMF đã làm cho nhiều người hoài nghi về vai trò của nó và một số đòi cải tổ lại tổ chức này. Trước khi cuộc khủng hoảng xẩy ra thì IMF còn dự báo khu vực này tăng trưởng mạnh và tin rằng nó còn tăng trưởng rất ổn định. Nhưng khi cuộc khủng hoảng nổ ra thì IMF đã quay sang phê phán mạnh mẽ chính phủ các nước này, cho rằng bộ máy chính phủ ở các nước này thồi rửa và đầy rảy tham nhũng và cải cách toàn bộ là cần thiết. Điều làm tôi băn khoăn là nếu chính phủ các nước Đông Á này mục nát thì làm sao họ có thể làm tốt công việc trong thời gian dài như vậy họ đã tiết kiệm nhiều và đầu tư tốt, trên thế giới không có nhóm nước nào có thể làm tốt như thế. Những chính sách của chính phủ có vai trò rất quan trọng đảm bảo cho các nước này hoàn thành tốt cả hai mục tiêu trên đồng thời. Việc mọi người có xem Đông Á là một điều thần kỳ hay không không quan trọng cái chính là Đông Á đã tăng trưởng thu nhập và giảm nghèo đói chưa từng có. Trong hơn ba thập kỷ đã giúp cho hàng chục triệu người ở đây nâng cao mức sống và giảm bất công trong phân phối thu nhập. Những chính sách mà chính phủ các nước này áp dụng chỉ có một điểm giống với Đồng Thuận Washington là ổn định kinh tế vĩ mô, họ cũng xóa bỏ hàng rào thương mại nhưng tiến hành một cách từ từ sau khi đã tạo công việc làm và các doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh. Và chỉ tự do hóa thị trường tài chính dần dần chứ không như liệu pháp sốc của Đồng Thuận Washington. Khi cuộc khủng hoảng bắt đầu phương Tây không nhận thấy mức độ nghiêm trọng của nó nhưng các bộ trưởng tài chính của các nước này thì đã lo sợ thực sự. họ dường như đã thấy được điều tồi tệ ở phía trước và lo ngại rằng những chính sách của IMF sẽ ngăn cản họ ngăn chặn cuộc cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên họ cảm thấy bất lực khi chống đối tổ chức này và chỉ có Malaysia là đủ dũng cảm chống lại IMF. Tại hội nghị Hồng Kông tôi đã đề nghị các bộ trưởng ĐÔng Á đã tiến hành một sự hợp tác kiểm soát vốn nhằm hạn chế tihệt hại do các dòng vốn đầu cơ rút chạy và họ đã bàn bạc việc hợp tác này để thực hiện nhưng khi họ trở về nước thì cuộc 12
  13. khủng hoảng đã xảy ra đầu tiên là Indonexia sau đó là Hồng Kông rồi các nước trên thế giới bị đầu cơ ngoại tệ tấn công. Có hai hình mẫu trong các cuộc khủng hoảng : Thứ nhất, được minh họa bằng trường hợp của Hàn Quốc, dưới sức ép của Mỹ. Hàn Quốc đã mở của thị trường tài chính và cho phép các doanh nghiệp vay nước ngoài và các doanh nghiệp này bị ảnh hưởng mạnh bởi thị trường tài chính quốc tế. Cuối năm 1997 đã có những tin đồn rằng Hàn Quốc đang gặp khó khăn và sau đó chúng dược công khai trên báo chí thế là các ngân hàng quốc tế đã không còn cho các doanh nghiệp HÀn Quốc vay nợ gối đầu nửa và lời đồn đã thành sự thật Hàn Quốc gặp khó khăn. Thứ hai, được minh họa bằng trường hợp Thái Lan. Khi những nhà đầu cơ tin rằng đồng nội tệ sẽ bị phá giá họ sẽ chuyển toàn bộ nội tệ sang USD và khi các nhà kinh doanh ngoại tệ liên tục bán ra đồng nội tệ thì giá đồng nội tệ giảm xuống thực và tiên đoán của họ trở thành sự thật. thông thường thì NHTW sẽ bán ngoại tệ để giử tỷ giá nhưng khi hết ngoại tệ dự trữ thi đồng nội tệ rơi tư do và thế là các nhà đầu cơ chuyển ngoại tệ sang nội tệ chốt lời. Nếu như khủng hoảng có các hình mẫu quen thuộc thì phản ứng của IMF cũng vậy, nó sẽ bơm cả đống tiền vào để giử tỷ giá và tin rằng khi các nước này có đủ ngoại tệ dự trử thì chẳng có lý do gì để các nhà đầu cơ tấn công tỷ giá cả nhưng khoản tiền này còn có chức năng khác là cho cung cấp tiền cho các doanh nghiệp vay nợ nước ngoài trả nợ thế là đã giúp các chủ nợ quốc tế thu hồi được nợ xấu. còn một hệ quả nửa đó là giúp các người giàu trong nước đêm tài sản ra nước ngoài với một tỷ giá có lợi. Và thường thì đi kèm theo khoản viện trợ này là một số điều kiện áp đặt bao gồm lãi suất cao, cắt giảm chi tiêu chính phủ, tăng thuế. Và biện luận cho những áp đặt của mình thì IMF cho rằng các quốc gia này không những phải hoàn trả số tiền này mà còn phải thực hiện đúng đề sớm khôi phục kinh tế, các quốc gia nhân viện trợ từ nó không còn cách náo khác là phải chấp nhận từ bỏ một số chủ quyền kinh tế để nhận lấy khoản viện trợ này. TẠI SAO NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA IMF LẠI SAI LẦM Tôi tin rằng tự do hóa thị trường tài chính là nguyên nhân quan trọng dẩn tới khủng hoảng, tôi đi đến kết luận này sau khi đã quan sát hàng 100 cuộc khủng hoảng và những số liệu phân tích được từ những cuộc khủng hoảng này cho thấy tự do hóa thị trường tài chính là yếu tố tác động đến khủng hoảng lớn nhất. Ngay cả những nước có hệ thống ngân hàng phát tiriển mạnh cũng gặp rất nhiều khó khăn khi tâm lý nhà đầu tư quay 180 độ và dòng vốn đột ngọt đổi chiều làm cho hệ 13
  14. thống tài chính của các nước gặp phải bị tổn thương nghiêm trọng. Thật mỉa mai là khi cuộc khủng hoảng bắt đầu thì bộ tài chính Mỹ và IMF lại thúc đẩy mạnh mẽ hơn các chính sách mà bằng chứng cho thấy có hại chứ không có lợi của nó vì nó cho rằng thứ nhất, tự do hóa thị trường tài chính sẽ làm đa dạng hóa nguốn vốn đầu tư và sẽ làm cho thị trường tài chính ổn định hơn điều này thật vô lý, những số liệu cho thấy luồng vốn di chuyển cùng chiều với chu kỳ kinh doanh khi kinh tế suy thoái luồng vốn là rút chạy khỏi, khi nền kinh tế tăng trưởng nóng thì nó chảy vào làm tăng áp lực lạm phát và điều này cho thấy khi các nước rất cần nó thì nó bỏ chạy khi không cấn thì nó lại đến. Điếu này được Keynes lý giải trong Lý thuyết tổng quát về lao động, tiền tệ và lãi suất là do “tâm lý bầy đàn”. Và lập luận thứ hai, là kiểm soát thị trường tài chính sẽ giảm hiệu quả kinh tế và các nước muốn tăng trưởng tốt phải xóa bỏ các kiểm soát này. VÒNG MỘT CỦA NHỮNG SAI LẦM Không mấy nghi ngờ chính sách của IMF và bộ tài chính đã làm tăng khả năng xảy ra khủng khoảng hơn. Dường như IMF đã chẩn đoán sai vấn đề đó là sự khác nhau giữa các cuộc khủng hoảng ở Mỹ La Tinh và Đông Á. Ở Mỹ La Tinh khủng hoàng xảy ra do chính phủ các nước này chi itêu bừa bãi và nới lỏng chính sách tiền tệ dẩn tới thâm hụt ngân sách và gia tăng lạm phát. Còn ở Đông Á thì hoàn toàn khác chính phủ các nước này có ngân sách thặng dư và nền kinh tế lạm phát thấp trong khi các doanh nghiệp nợ nần nặng nề thế nhưng IMF lại đêm những chính sách có phần được thành công ở Mỹ La Tinh vào áp dụng cho các nước ở Đông Á Chính sách thắt chặt kiểu Hoover: Trong hơn 50 năm qua khi đối diện với khủng hoảng kinh tế thì cách ứng phó là tìm cách tăng tổng cầu bằng hai cách là chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng. thế nhưng IMF đã theo đuổi chính sách trái ngược hoàn toàn. Khi xảy ra cuộc khủng hoảng các nước Đông Á đang ổn định về kinh tế vĩ mô và khủng hoảng ở đây có 2 hàm ý. Thứ nhất,sự sụp đổ của thị trường ngoại hối, chứng khoán và sự vở của bong bóng bất động sản dẫn đến đầu tư và tiêu dùng giảm đua Đông Á đến suy thoái. Thứhai, sự suy giảm doanh thu thuế làm mất cân bằng ngân sách. Giờ đây IMF đã thừa nhận sai lấm và IMF cho rằng nó chỉ muốn các nước này đảm bảo cân bằng ngân sách. Chính sách tự hại mình 14
  15. IMF đã mắt phải sai lầm lớn nhất trong cuộc khủng hoảng Đông Á là sự lan truyền từ nước này sang nước khác. Bằng cách cổ vủ cho chính sách thắt lưng buộc bụng IMF đã làm trầm trọng thêm sự lan truyền suy thoái kinh tế từ nước này sang nước kia. IMF đã nói với các nước rằng, khi đối phó với suy thoái phải giảm thâm hụt thương mại và có gắng thặng dư thương mại. và chỉ có hai cách : thứ nhất, là tăng cường xuất khẩu nhưng điếu này khó có thể thực hiện được và không thể thực hiện nhanh chóng vì thị trường tài chính đang rối loạn không thể cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất được. Cách thứ hai là giảm nhập khẩu bằng cách giảm thu nhập, nghĩa là tạo ra sự suy thoái kinh tế và trong thực tế là cách thứ hai đã được hiện thực hóa và hậu quả của nó thật rõ ràng suy thoái kinh tế càng thêm trầm trọng hơn và làm hại các nước láng giềng vì các nước láng giềng bị cắt giảm xuất khẩu và họ củng tìm cách giảm thâm hụt thương mại và thế là suy thoái đã nhanh chóng lan truyền từ các nước Đông Á đến Nga và các thị trường mới nổi như Brazil. Và đây có thể coi là thất bại lớn nhất và đau buồn nhất của IMF vì nó đã phản bội sự tồn tại của tổ chức này Bóp chết nền kinh tế với chính sách lãi suất cao Khi IMF đến Đông Á nó đã bắt các nước tăng lãi suất cao theo tiêu chuẩn thông thường và cho rằng nếu một nước có lãi suất cao sẽ hấp dẫn nguốn vốn chảy vào và các nguốn vốn này sẽ bảo vệ tỷ giá và ổn định tiền tệ. Nhưng ở Đông Á không như thế ví dụ ở Hàn Quốc các doanh nghiệp ở nước này có tỷ lệ nợ cao trên vốn cổ phần nên rất nhảy cảm với lãi suất một sự gia tăng lãi suất chẳng khác nào đưa các doanh nghiệp này đến bờ vực phá sản và làm cho số ngân hàng đối diện với nợ xấu tăng lên. Tình trạng xấu đi của khu vực doanh nghiệp và ngân hàng đã làm cho tổng cầu giảm đi và làm cho chich sách thu hẹp trở nên trầm trọng hơn. VÒNG HAI CỦA NHỮNG SAI LẦM: LÚNG TÚNG TRONG TÁI CƠ CẤU Hệ thống tài chính: hệ thống tài chính có thể coi là bộ não của nền kinh tế vì nó giúp phân bổ các nguốn lực đến nơi sử dụng hiệu quả nhất. Nếu hệ thống tài chính bị sụy đổ các doanh nghiệp không thể vay nợ được để duy trì sản xuất chứ đừng nói đến mở rộng sản xuất. Và như thế sẽ tạo thành một cái vòng luẩn quẩn giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Ngân hàng giảm cho vay doanh nghiệp thu hẹp sản xuất và lợi nhuận doanh nghiệp giảmvà một số doanh nghiệp phá sản và các ngân hàng càng giảm cho vay vòng xoáy này sẽ làm cho nền kinh tế thêm tồi tệ. 15
  16. Gây ra khủng hoảng rút tiền gửi ngân hàng: chiến lược tái cơ cấu ngân hàng của IMF bằng cách phân các ngân hàng ra làm ba loại: những ngân hàng quá ốm yếu cần đóng cửa, những ngân hàng ốm yếu nhưng vẫn còn cứu được, và các ngân hàng khỏe mạnh. Các ngân hàng này phải đáp ứng được tỷ lệ nhất định giữa vốn chủ sở hửu và dư nợ tín dụng cùng các tài sản khác và IMF đòi các ngân hàng này nhanh chóng đáp ứng tiêu chuẩn này và các ngân hàng chỉ có hai cách để thực hiện điều này một là,tăng vốn nhưng cách này rất khó thực hiện trong nền kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng như Đông Á cách thứ hai, là giảm cho vay nợ. ĐIều này làm cho các doanh nghiệp rơi vào hoàn cảnh hết sức khó khăn và cơ cấu ngân hàng lại đêm đến kết quả ngược lại. Ở Indonexia 16 ngân hàng đã đóng cửa và thông báo có thể đóng cửa các ngân hàng khác thế là những người gửi tiền đổ xô đi rút tiền ở các ngân hàng tư nhân để đêm sang ngân hàng quốc doanh và đại suy thoái là không thể tránh khỏi với đất nước này. Tái cơ cấu doanh nghiệp Ở Đông Á vấn đề sở hửu chưa rõ ràng nên khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản thì việc thất thoát tài sản là không thể tránh khỏi. Và chính sách đẩy lãi suất lên cao của IMF đã làm cho các doanh nghiệp khó khăn hơn và kết hợp với lợi ích cục bộ đã làm cho tốc độ tái cơ cấu diễn ra hết sức chậm chạp. và sự chậm trể này đã gây nhiều thiệt hại cho xã hội Malaysia và Trung Quốc: là hai nước không đi theo chỉ dẫn của IMF. Thủ tướng của Malaysia đã hành động theo cách riêng của mình đó là cố định tỷ giá, giảm lãi suất và ra sắc lệnh rút tất cả các dòng tiền gửi ở nước ngoài về. Và chính phủ cũng áp đặt giới hạn chặt chẽ trong chuyển vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi Malaysia trong vòng 12 tháng. Và những quyết dịnh này vấp phải một sự phản đối kiệt liêt từ các nhà kinh tế của phố Wall và họ cho rằng kinh tế của nước này sẽ càng trầm trọng thêm đầu tư nước ngoài suy sụp thị trường chứng khoán trược dốc và một số méo mó của kinh tế sẽ hình thành. Nhưng thực tế kết quả hoàn toàn khác và nhóm chuyên gia của WB đã khuyên nước này nên áp dụng thuế chuyển tiền ra nước ngoài thay cho kiểm soát vốn để hạn chế sự dịch chuyển của dòng vốn vào ra làm xáo trộn nền kinh tế. và mọi thứ được tiến hành như đã định sau một năm đã dở bỏ thuế, trong một năm Malaysia đã tái cơ cấu các ngân hàng và doanh nghiệp. và kiểm soát vốn giúp phục hồi nhanh hơn, suy thoái ít nghiêm trọng hơn và nợ nước ngoài ít hơn. Kiểm soát vốn giúp lãi suất thấp và ít doanh nghiệp phải rơi vào cảnh phá sản. Và thực tế là đầu tư nước ngoài tăng lên chứ không giảm bởi vì Malaysia đã ổn định hơn 16
  17. Trung quốc thì khác đi theo con đường riêng của mình và đối phó với suy thoái kinh tế bằng con đường chính thống là thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng.. Trong khi ra quyết định kinh tế Trung Quốc rất chú trọng đến những ảnh hưởng mang tính hệ thống của chính sách vĩ mô như họ nhân ra rằng cần tiếp tục tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp và tài chính và các mối liên hệ giũa kinh tế và ổn định xã hội. Trung quốc và Malaysia đã đi theo con đường ngược hoàn toàn với IMF và kết quả đạt được là thời gian suy thoái ngắn và phục hồi nhanh Hàn quốc, Thái Lan và Indonesia: Thái lan sau ba năm khi khủng hoảng nổ ra nước này vẩn còn suy thoái, GDP thấp hơn 2.3% với trước khủng hoảng. Các doanh nghiệp tái cơ cấu chỉ đạt 40%. Hàn Quốc thì khác chính phủ chủ động hơn trong tái cơ cấu doanh nghiệp và giử tỷ giá thấp giúp nước này tích lũy ngoại tệ tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Nên nền kinh tế phục hồi nhanh hơn. Riêng Indonesia được đánh giá riêng vì nước này bị ảnh hưởng bởi sự kiện chính trị và bất ổn xã hội và bản thân nó xuất phát một phần tư IMF. Lý giải những sai lầm:có rất nhiều lý giải cho các sai lầm của IMF lý giải đầu tiên là cho thất bại này chính là tính kiêu ngạo của nó. Và một lý giải khác nủa là âm mưu làm suy yếu Đông Á hay là mưu đố kiếm lợi của phố Wall hay các trung tâm kinh doanh tiền tệ. Theo tôi thì nó đã thể hiện tư tưởng và những lợi ích của cộng đồng tài chính. Một chiến lược thay thế: theo tôi để đối phó với cuộc khủng hoảng này là giử cho nền kinh tế đạt mức toàn dụng lao đông nhất và để đạt đươc nó thì phải thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng và tùy theo nước. Và phải duy trì dòng vốn ổn định và tạm dừng thanh toán nợ và phải có điều khoản phá sản đặt biệt nhằm giải quyết nhanh những khó khăn do biến động kinh tế vĩ mô. Và chính phủ phải tham gia vào hoạt đông tái cơ cấu tài chính, thiết lập mối quan hệ rõ ràng trong sở hữu giúp các doanh nghiệp tham gia trở lại thị trường tín dụng. Chương 5: Ai Đánh mất nước Nga Vào cuối năm 1989 cuộc chuyển đổi kinh tế lớn nhất mọi thời đại đã bắt đầu. Nga thử nghiệm chuyển đổi kinh tế sau bảy thập kỷ theo chủ nghĩa cộng sản và bắt đầu thời kỳ mới là kinh tế thị trường nhưng những gì diễn ra thật kinh khủng. 17
  18. Thách thức và cơ hội: trước đây có rất ít nước chuyển đổi thành công. Trung Quốc thì chuyển đổi từ năm 1970 và còn lâu mới đạt được nền kinh tế thị trường đầy đủ. Đài Loan là một ví dụ thành công nhất về chuyển đổi. Cả hai quốc gia này khi bắt đầu chuyển đổi gặp phải thách thức lớn là thay đổi nền tảng xã hội và hình thành các thể chế trong nền kinh tế thị trường nhưng thay vì trải qua cuộc khủng hoàng kinh tế kéo dài thì họ gặt hái được nhũng thành công ấn tượng, tốc độ tăng trưởng gần hai con số. Ở Nga thay vì học hỏi những bài học kinh nghiệm từ hai nước này thì các nhà tư vấn chỉ phớt lờ cho qua mà chỉ rao giảng kinh tế học giáo khoa một phiên bản quá ư sơ xài của kinh tế học thị trường. Trước 1989 mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều do chính phủ lập kế hoạch( sản xuất cái gì? sản xuất bao nhiêu?), không có khài niệm sở hữu rỏ ràng và giá cả do sắc lệnh chính phủ quy định chứ không phải giá thị trường, thường là quy định quá thấp. Những khi sang nên kinh tế thị trường thì giá cả, sở hữu tư nhân và lợi nhuận, cùng với cạnh tranh là các thành tố tạo ra đông lực điều tiết kinh tế. nhưng người ta cũng nhận thấy vai trò của thể chế. Và thể chế quan trọng nhất chính là hệ thống pháp luật nhằm giúp cho thị trường hoạt đông có hiệu quả nhất. Ví dụ: trướng khi thành lập thị trường chứng khoán, bạn phải ban hành những quy định điều tiết. Tương tự trong thời kỳ cũ thì nông dân không cần lo đầu vào và đầu ra nhưng khi sang kinh tế thị trường thì nông dân cẩn phải sản xuất những gì thị trường cần và sản xuất bao nhiêu là hiệu quả nhất vv…và vv… Và khi thực hiện chuyển đổi thì lựa chọn nhịp độ cải cách là rất quan trọng. Có hai cách đó là liệu pháp sốc và cải cách từng bước và sau 10 năm thực hiện thì cải cách từng bước đã được thừa nhận là đúng đắn còn liệu pháp sốc tỏ ra rất dẽ thất bại và thất bại có thể dự báo trước được. Lý thuyết về kinh tế giải thích sự thất bại của kinh tế kế hoạch tập trung rất rõ: chính phủ không thể nào biết hết được nền kinh tế cần gì và cần boa nhiêu, không có sở hữu tư nhân và động lực lợi nhuận sẽ không có khuyến khích vật chất. chế độ bao cấp tràn lan và giá cả cứng nhắc làm méo mó nền kinh tế. Vì vậy thay kinh tế tập trung bằng kinh tế thị trường là xu hướng tất yếu. Câu chuyện “cải cách”: sai lầm đầu tiên bắt đầu là sự thả nổi giá cả sau một đêm vào năm 1992 đã tạo ra lạm phát quét sạch các khoản tiết kiệm và ồn định kinh tế vĩ mô là uư tiên hàng đầu. Thế là hai trụ cột tự do hóa và ồn định hóa đã được thực hiện và giờ là trụ cột thứ ba tư nhân hóa nhưng lạm phát đã lấy hết các khoản tiết kiệm của các nhà đầu tư và khi có đủ tiền mua lại các 18
  19. doanh nghiệp nhà nước thì với việc ổn định kinh tế vĩ mô đã làm cho lãi suất tăng cao nên trụ cột thứ ba có vẽ khó thực hiện. Vậy là chiến lược cải cách cấp tiến đã thất bại tổng sản phầm quốc nội GDP đã giảm hơn 54% hơn cả mức giảm trong giai doạn chiến tranh thế giới II. Nông nghiệp đình đốn, đầu tư vào khu vực công nghiệp chế tạo dừng hẳn và chỉ thu hút được một số dự án vào đầu tư khai thác tài nguyên vì định giá thấp. Chương trình ổn định hóa tự do hóa và tư nhân hóa đã không tạo tiền đề cho tăng trưởng như mong đợi mà tạo tiền đề cho suy thoái. IMF tin rằng Nga sẽ nhanh chóng phục hồi và họ có lý do để lạc quan vì năm 1997 nước Nga đã có dấu hiệu phục hồi nhưng nó đã không tồn tại bao lâu vì vào năm 1998 cuộc khủng hoảng ở Đông Á nổ ra và làm cho các nhà đầu tư do dư đầu tư vào các thị trường mới nồi vì rủi ro cao nên đồi hỏi lợi tức cao đã gián tiếp làm cho GDP của nước Nga giảm mạnh trở lại. trong khi đó chính phủ vay nợ quá nhiều Cuộc khủng hoảng 1998: Do suy thoái kinh tế ở Đông Á đã làm cho nhu cầu dầu mỏ giảm và giá dầu đã giảm tới hơn 40% và đây lại là nguồn thu chính của chính phủ và với mức giảm giá này thì chi phí khai thác và vận chuyển đã cao hơn nên việc phá giá đồng Rúp là không tránh khỏi. rõ ràng đồng Rúp đã bị đánh giá quá cao nên hàng nhập khẩu tràn vào ồ ạt và hàng nội địa không thể cạnh tranh được. Các lảnh đạo công ty thu hẹp sản xuất nhưng không thể xa thải công nhân vì không có hệ thống bảo hiểm xã hội và công nhân chỉ làm việc nữa vời và tất nhiên mức lương cũng thế. Nhưng đối với các tầng lớp doanh nhân mới thì đó là một lợi thế họ chỉ dùng ít tiền hơn để mua xe hơi và hàng xa xĩ được nhập khẩu từ bên ngoài. Nhưng IMF và các nhà cải cách không muốn phá giá vì họ sợ lạm phát và IMF sẵn sàng bỏ hàng tỷ USD để giữ tỷ giá. Trong khi đó niềm tin vào đồng rúp đã bị xóa mòn và họ nhanh chóng chuyển sang ngoại tệ và chính phủ thậm chí phải trả cho khoản vay nợ bằng đồng rúp tới 150% và đồng USD tới 50% cao hơn rất nhiều so với tín phiếu kho bạc của Mỹ. Và thị trường cho rằng xác suất vở nợ của chính phủ là rất cao. Những tuần trước cuộc khủng hoảng IMF khuyên chính phủ vay nợ bằng USD vì lãi suất thấp hơn vay nợ bằng đồng rúp nên tiết kiệm nhưng đây là một lời khuyên hết sức sai lầm vì lãi suất khác nhau giữa trái phiếu USD và Rúp là sự phản ánh kỳ vọng của sự phá giá. Và Nga sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi phải trả nợ cho khoản vay bằng USD nếu như đồng Rúp bị phá giá. 19
  20. Kế hoạch cứu giúp: Khi khủng hoảng nổ ra IMF đã lảnh đạo cứu giúp với tổng gói là 22.6 tỷ USD được huy động từ ba nguồn là IMF, WB và chính phủ Nhật Bản. kế hoạch cứu giúp của IMF là giữ tỷ giá nhưng giữ tỷ giá nền kinh tế sẽ thiệt hại và khi không giữ được thì số tiền bỏ ra thật lãng phí. Theo tính toán của các nhân viên WB thì chi tiêu của chính phủ Nga trong trời gian qua thì số tiện cứu giúp này là không đủ. Và vì nước Nga là nước giàu tài nguyên nến biết cải cách hợp lý thì sẽ không cần số tiền này còn nếu làm không đúng thì số tiền này sẽ không đêm tới điều gì khác biệt cả. Mặc cho sự phản đối tử chính các nhân viên của mình WB cũng phải cho vay dưới áp lực của chính quyền Bill Clinton và WB chỉ cho vay và giải ngân từ từ còn IMF thì cho vay thẳng một lần đổ hàng tỷ USD cho Nga. Sự cứu giúp thất bại: Ba tuần sau khi cho vay, Nga đơn phương tuyên bố ngừng thanh toán nợ và phà giá đồng Rúp. Tuyên bố này đã đẩy nhanh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Lãi suất ở các thị trường mới nổi tăng lên mức đỉnh làm cho các nước khác không thể thu hút được nguồn vốn và cuộc suy thoái kinh tế bắt đầu lan sang cac nước Mỹ La TInh và nhăm nhe nước Mỹ. Bằng việc cho Nga vay đã làm cho Nga thêm nợ nần mà chẳng giải quyết được việc gì và người cuối cùng gánh vác sai lầm này chính là những người dân đóng thuế. Nhưng nó cũng có một mặt tích cực đó là đồng Rúp bị phá giá làm thức đẩy sản xuất thế hàng nhập khẩu. Gia tăng nghèo đói và bất bình đẳng: theo thống kê vào năm 1989 ở Nga chỉ có 2% nghèo đói nhưng năm 1998 con số này đã là 23.8%. Nhưng một số ít người lại giàu lên trông thấy qua việc họ đi xe Mercedes, mua hàng xa xĩ, và tại nhiều khu nghỉ mát ở châu âu người giàu của Nga đã thay thế cho người Ả Rập. Một nước có mức thu nhập 4730 usd/năm nhưng lại kẹt xe Mercedes là dấu hiệu của một nền kinh tế ốm yếu. Sự chuyển đổi đã làm cho một số ít người giàu lên nhờ thừa hưởng tài sản thừa kế và quét sạch các khoản tiết kiệm của tầng lớp trung lưu vì lạm phát và Nga có tỷ lệ bất bình đẳng cùng cấp với các nước bất bình đẳng nhất thế giới đó là nền kinh tế ở Mỹ La Tinh dựa tren di sản nửa phong kiến. Những chính sách sai lầm dẫn đến thất bại như thế nào? Ta đã thấy rõ chính sách Đồng thuận Washington” đã đống góp vào thất bại này như thế nào rồi tư nhân hóa sai lầm không đêm tời tăng trưởng như mà đêm tới sự thất thoát tài sản hơn là đầu tư mới. Tốc độ cải cách quá nhanh như thả giá cả sau một đêm đã đem đến lạm phát tăng nhanh. Tự do hóa thị trường tài chính trước khi xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp đã làm cho dòng vốn dễ dàng chảy ra ngoài hơn là thu 20
nguon tai.lieu . vn