Xem mẫu

  1. SỰ THỤ THAI Sự mang thai bắt đầu khi một tế bào sinh dục nam duy nhất (tinh trùng) kết hợp với một tế bào giới tính nữ (trứng hay noãn) để tạo thành một tế bào mới và duy nhất (được biết như một hợp tử). Trứng và tinh trùng đều khác với mọi tế bào trong cơ thể con người, vì chúng chỉ mang một nửa tính di truyền so với những tế bào khác, phần lớn tế bào đều có hàng ngàn gien và được sắp xếp trên các dải mô gọi là các nhiễm sắc thể, trong hầu hết tế bào có 23 đôi hay tổng số 46 nhiễm sắc thể, nhưng chỉ có 23 nhiễm sắc thể trong mỗi trứng và mỗi tinh trùng bình thường, khi trứng và tinh trùng kết hợp, đòi hỏi phải có 46 nhiễm sắc thể được tạo thành cho một tế bào con người mới xuất hiện. Vì một nửa nhiễm sắc thể của người mẹ và một nửa nhiễm sắc thể còn lại của người cha do đó con người mới ra đời giống cả hai nhưng không hoàn toàn giống một trong hai người. Hơn nữa, các gien mang nhiễm sắc thể từ trứng này sang trứng khác và từ tinh trùng này sang tinh trùng khác. Ðây là lý do tại sao người anh và người chị thường nhìn khác nhau đến như vậy. Nhưng trước khi chúng ta có thể nhận thức được đặc tính di truyền tạo ra mỗi đứa trẻ như thế nào, chúng ta phải biết về trứng và tinh trùng nhiều hơn nữa cùng với cách chúng tìm đến và kết hợp với nhau như thế nào. Trứng Trứng có 3 chức năng trong thai kỳ. 1. Trứng chứa yếu tố di truyền mà người mẹ đóng góp cho đứa trẻ. 2. Trứng giữ " kế hoạch bậc thầy" đối với thai kỳ. Kế hoạch này xác định tiến trình và thời gian phát triển của đứa bé trong suốt thai kỳ. 3. Trứng cung cấp chất dinh dưỡng cho hợp tử trong vài ngày đầu sau khi thụ tinh. Sau đó bào thai sẽ nhận được chất dinh dưỡng qua dây rốn và nhau thai (sẽ được bàn luận sau). Vì trong vài ngày đầu cả nhau thai lẫn dây rốn chưa xuất hiện. Trứng nằm trong buồng trứng phụ nữ. Bé gái được sinh ra với buồng trứng đã hoàn thành. Không ai biết chính xác buồng trứng một bé gái sinh ra trung bình có bao nhiêu trứng, nhưng con số tạm tính cũng khoảng bốn trăm nghìn trứng, nhưng những trứng này còn non nớt và hoàn toàn nằm trong buồng trứng. Những trứng chưa hoạt động cho đến tuổi dậy thì, lúc ấy buồng trứng mới bắt đầu hoạt động và phóng thích trứng. Trung bình phụ nữ bình thường sẽ sản xuất bốn trăm đến năm trăm trứng trưởng thành trong suốt cuộc đời. Thông thường mỗi tháng một lần một trứng sẽ rụng từ một trong hai buồng trứng. Quá trình này được gọi là phóng noãn (rụng trứng). Trứng sẽ rụng vào khoảng giữa chu kỳ kinh. Nếu phụ nữ có chu kỳ kinh hai mươi tám ngày đều đặn, trứng sẽ rụng vào khoảng ngày thứ mười bốn. Nhưng đa số phụ nữ không có chu kỳ kinh đều đặn như trên nên việc tính ngày trứng rụng khó chính xác. Tinh 1
  2. trùng và trứng sẽ phải kết hợp với nhau trong khoảng từ 12 đến 24 giờ, còn không, trong vòng 48 tiếng, trứng sẽ phân rã. Tinh Trùng Tinh trùng là một tế bào sinh dục nam trưởng thành, một trong những tế bào nhỏ nhất trong cơ thể nam giới. Mỗi một tế bào có chiều dài khoảng 0,05mm. Tinh trùng bình thường có 3 đoạn. Ðoạn trên cùng là đầu chứa 23 nhiễm sắc thể, phần đóng góp của người cha vào hợp tử. Ðoạn giữa cung cấp lực để tinh trùng di chuyển. Ðoạn cuối là đuôi quất tới lui để tinh trùng ngoi lên. Tinh trùng được sản sinh trong các tiểu quản chứa tinh dịch của tinh hoàn. Phải mất khoảng bảy mươi đến bảy mươi tư ngày, từ khi được tạo ra, tinh trùng mới trưởng thành. Trong sáu mươi ngày đầu chúng được chứa trong các tiểu quản chứa tinh dịch, khoảng mười hai ngày chót của giai đoạn tạo tinh, chúng ở trong mào tinh. Tinh trùng sống ở mào tinh khoảng vài tuần thì phải được phóng thích ra, còn không chúng sẽ chết, được hấp thu lại vào cơ thể, và thay thế tinh trùng mới. Sau khi thành niên, đàn ông sinh tinh liên tục, nhưng khó ước lượng tinh trùng trung bình do đàn ông tạo ra là bao nhiêu trong suốt cuộc đời, rõ ràng phải tới hàng tỉ vì mỗi tần xuất tinh có đến 300 triệu tinh trùng được phóng ra. Tinh trùng mang theo nó sự di truyền của người cha, nó cũng quyết định giới tính của đứa bé, một cặp nhiễm sắc thể bình thường 23 cặp sẽ quyết định giới tính cho một cá thể. Tinh trùng mang nhiễm sắc thể hoặc là X (nữ) hoặc là Y (nam) trong khi đó trứng luôn mang nhiễm sắc thể X, hợp tử có hai nhiễm sắc thể X sẽ trở thành bé gái. Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y hợp tử sẽ có một X của mẹ và một Y của cha và sẽ thành bé trai. SỰ THỤ TINH Qúa trình trứng và tinh trùng phối hợp để tạo thành hợp tử được gọi là thụ tinh hoặc thụ thai, thụ tinh chỉ xảy ra khi tinh trùng xâm nhập vào bao ngoài của trứng cho phép phối hợp hai mươi ba nhiễm sắc thể ở trứng và tinh trùng. Trình tự đó xảy ra ở vòi trứng (thường thường khoảng một phần ba ống bên ngoài). Tuy nhiên sự thụ tinh không xảy ra nếu tinh trùng không vượt qua đoạn đường dài và nhiều may rủi từ âm đạo đến vòi trứng. Tinh trùng bơi nhanh nhất cũng mất 1giờ 30 phút. Cơ thể phụ nữ cũng tạo nên một chướng ngại vật, như môi trường âm đạo có độ axít cao, và chất này giết chết một số tinh trùng. Sự khó tìm thấy cổ tử cung nếu kết cấu của chất nhầy ở đây không hợp cách, một số tinh trùng khác bị chết bởi các kháng thể của phụ nữ (một loại kháng thể khác tương tự sinh ra để chống lại sự viêm nhiễm). Khoảng nửa số tinh trùng tới được vòi trứng nhưng do bơi sai hướng, nghĩa là vào ống không chứa trứng, nên ngay cả việc tới đúng chỗ nhưng vẫn không thành công. Tinh trùng cũng có thể bị kẹt ở các mao (đám nhô lên như tóc mịn). Cuối cùng, một khi đã xảy ra sự thụ tinh, một 2
  3. lớp phủ bảo vệ hình thành quanh hợp tử và ngăn chặn tinh trùng khác đi vào. Tất cả số tinh trùng khác còn lại trong vòi trứng sẽ bị hủy tại đây. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI VÀ BÀO THAI Thai kỳ có thể được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn chúng ta vừa thảo luận được xem như là thời kỳ đầu kéo dài khoảng chừng hai tuần đầu của thai kỳ. Từ hai đến tám tuần lễ (hai tháng) bé phát triển như một phôi thai thời kỳ phôi. Giai đoạn còn lại (từ tuần thứ chín đến khi sinh) gọi là thời kỳ bào thai và sinh vật phát triển được gọi là bào thai. Thời kỳ phát triển phôi (tuần lễ thứ hai đến thứ tám) Trước khi được sinh ra thai nhi phát triển qua nhiều giai đoạn. Ví dụ: Não và tim bắt đầu phát triển trước đường tiêu hóa, bộ xương và các cơ. Những chi tiết như tóc và mi mắt xuất hiện chậm hơn nhiều. Nếu có một yếu tố nào làm ảnh hưởng đến giai đoạn phát triển, đặc biệt thuốc uống hay bức xạ thì sự tổn thương sẽ xảy ra. Ví dụ: Ngón tay, ngón chân được hình thành từ tuần lễ thứ sáu đến thứ tám của thai kỳ. Nếu có điều gì đó can thiệp vào sự phát triển của chúng thì chúng sẽ không sửa chữa được sau này. Phần lớn các giai đoạn phát triển các cơ quan quan trọng diễn ra trong 12 tuần đầu vì thế phôi đang phát triển có thể bị tổn hại nghiêm trọng bởi thuốc uống hay bệnh hoạn trong thời gian này. Một khi các bộ phận và các hệ bộ phận ở đúng vị trí, chúng ít khi bị tổn hại. Ðó là điều tại sao bệnh sởi Ðức bộc phát trong suốt 12 tuần đầu có thể dẫn đến những sự bất thường nghiêm trọng. Ở tuần thứ tám, phôi bắt đầu tượng hình, mặc dù còn nhỏ xíu nhưng cánh tay, chân có các ngón, mắt và tai bắt đầu hình thành. Có điều, nó chưa thể tự sống, nghĩa là chưa thể sống ngoài môi trường tử cung. Thời kỳ bào thai (tuần lễ thứ chín đến khi sinh) Chúng ta bắt đầu nói về thời kỳ phát triển cơ thể thai nhi khi được ba tháng. Khi phần lớn các cơ quan đã được hình thành, thời kỳ bào thai dành hết hoàn toàn cho sự tăng trưởng và hoàn chỉnh các bộ phận. Bào thai có thể phát triển và sống được (có khả năng sống ngoài tử cung) khoảng 24 đến 26 tuần lễ (180 ngày sau khi thụ thai), Mặc dù các kỹ thuật tân tiến có thể giúp bào thai sinh non sống sót, nhưng phần lớn trẻ sinh quá non bị chết. Bào thai lớn nhanh, đặc biệt ba tháng cuối thai kỳ. Lúc sáu tháng, bào thai có chiều dài trung bình từ 25 đến 30cm và cân nặng từ 454g hoặc 681g cân Anh. Thai nhi lên cân nhanh khoảng 900g mỗi tháng và tiếp tục lên để trẻ sinh ra bình quân cân nặng từ 2,7kg đến 3,8kg, chiều dài khoảng 52,5cm. Trọng lượng trên 2,2 kg được coi là bình thường. Sự phát triển các cơ quan sinh dục 3
  4. Các cơ quan sinh dục được phát triển trong thời kỳ đầu bào thai. Cho tới khi điều này xảy ra, tất cả phôi đều có hình dạng giống nhau. Chúng cũng có cơ quan sinh dục gọi là tuyến sinh dục và sau đó trở thành tinh hoàn ở nam và buồng trứng ở nữ. Nếu bào thai có cặp nhiễm sắc thể nam XY (đã nói ở trước, một chất gọi là kháng nguyên HY sẽ bắt đầu sản sinh trong tuần thứ bảy của thai kỳ. Chất kháng nguyên HY sẽ tạo ra tuyến sinh dục trung tính trước đó để tạo thành tinh hoàn. Tinh hoàn này bắt đầu sản xuất hóc môn nam testosterons. Testosterons cũng làm hệ sinh sản nam và cơ quan sinh dục ngoài phát triển. Với dương vật có thể thấy vào khoảng tuần mười hai của thai kỳ. Nếu những ảnh hưởng của hóc môn nam không hiện diện ở thời điểm này, đứa bé sẽ phát triển đặc tính thể lý của bé gái mặc dù nó có cặp nhiễm sắc thể XY. Nếu bào thai có cặp nhiễm sắc thể XX, các tuyến sinh dục chưa phân biệt sẽ phát triển thành buồng trứng. Từ tuần lễ thứ mười bốn, cơ quan sinh dục ngoài sẽ là của bé gái. Cảm nhận bào thai chuyển động Có một sự kiện xảy ra trong thời kỳ, thường là nỗi quan tâm lớn cho cha mẹ. Ðôi khi vào khoảng bốn tháng rưỡi người mẹ sẽ cảm thấy bào thai máy động. Ðầu tiên, đơn giản chỉ là một cảm giác mơ hồ được biết như một sự máy động. Tuy nhiên không lâu sau đó bào thai sẽ cử động khá mạnh làm cho có cảm giác như bị thúc và có thể thấy được ở bụng người mẹ, nhất là từ tháng thứ năm trở đi. Nhưng tới cuối thai kỳ, những cử động đó không còn thấy rõ nữa (mặc dù chúng vẫn còn) vì bào thai di chuyển xuống dưới hơn. DẤU HIỆU VÀ TRIỆU CHỨNG Làm sao phụ nữ biết là mình có thai? Chỉ có một cách chắc chắn là khám thai hay vùng tiểu khung. Hầu hết phụ nữ nghi mình có thai khi không thấy kinh mặc dù có nhiều nguyên nhân khác có thể gây mất kinh và một vài phụ nữ tiếp tục có kinh trong vài tháng đầu của thai kỳ. Tuy vậy, việc mất kinh là dấu hiệu khá chính xác để chỉ hiện tượng này. Những hiện tượng sớm về việc có thai có thể phát triển từ 6 đến 12 tuần lễ, những sự thay đổi này hầu như xuất hiện khi người phụ nữ có thai khoảng 3 tuần (nghĩa là 1 tuần sau chu kỳ kinh đáng ra phải có, và 5 tuần sau kỳ kinh cuối khởi đầu). Những hiện tượng được gây ra do những thay đổi các mức nội tiết tố, một phần của thai kỳ. Một phụ nữ có thể phát triển một vài triệu chứng hoặc không có triệu chứng nào cả, cũng có thể người đó có tất cả các triệu chứng sau: 1- Ngực phát triển và căng. 2- Ốm nghén. (buồn nôn và ói không nhất thiết phải vào buổi sáng) 4
  5. 3- Hay đi tiểu. 4- Mệt mỏi, cần ngủ nhiều. 5- Lên cân. 6- Phát triển bụng dưới. 7- Tăng thân nhiệt 8- Trạng thái buồn buồn. 9- Thay đổi ham muốn tình dục. 10- Thèm ăn. 11- Ăn nhiều. Một vài phụ nữ cho biết rằng họ biết có thai ngay sau khi thụ thai, nghĩa là họ cảm thấy khang khác, nhất là phụ nữ đã từng mang thai do có kinh nghiệm về những thay đổi. Nhưng cách chắc chắn nhất vẫn là thử thai và khảo sát vùng tiểu khung. NHỮNG CÁCH THỬ THAI Có nhiều cách để thử thai, gồm cả việc mua dụng cụ thử thai ở tiệm thuốc để thử lấy ở nhà. Việc thụ thai căn cứ vào sự phát triển nội tiết tố HCG trong cơ thể người phụ nữ. Hầu hết các cách sử dụng để thử (gồm cả việc thử ở nhà) là để kiểm tra sự hiện diện của nội tiết tố này trong nước tiểu, cũng có những cách thử tốn kém hơn như kiểm tra sự hiện diện của kích thích tố này qua mẫu máu, do bác sĩ hay nhà chuyên môn thực hiện. Các phương pháp thử, kể cả cách thực hiện ở nhà, có thể chính xác khoảng 97%. Nếu muốn tính ngày sinh (ngày đứa trẻ ra đời theo dự tính) họ có thể sử dụng luật Nagele bằng cách lấy ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối trừ đi ba tháng và thêm bảy ngày. Ví dụ : Nếu thấy ngày kinh sau cùng khởi sự ngày đầu tháng Giêng, bạn sẽ sinh ngày 8 tháng Mười tới. Biết được ngày sinh là điều rất quan trọng để bạn chuẩn bị (lưu ý đây chỉ là dự tính), vì việc mang thai bình thường có thể thay đổi từ 38 đến 42 tuần, có nghĩa xê xích nhau khoảng 2 tuần là bình thường. Trên thực tế, dưới 10% phụ nữ nói đúng ngày sinh, và một nửa. số trẻ sinh sớm hơn mươi ngày hoặc sau mươi ngày theo ngày dự tính. VIỆC SĂN SÓC TIỀN SINH Sau khi thụ thai, bạn nên có kế hoạch thăm thai. Người theo dõi có thể là người sẽ đỡ đẻ cho bạn sau này. 5
  6. Trong những lần khám thai, bạn sẽ được khám tổng quát, gồm vùng tiểu khung và xét nghiệm kính phết Pap. Ngày sinh con cũng được tính, rồi tiền sử chi tiết sức khỏe của bạn (và của gia đình chồng hay bạn tình) cũng sẽ được hỏi rõ. Bác sĩ lấy mẫu máu để xem có bị bệnh thiếu máu, loại máu và tính miễn dịch đối với một vài bệnh nhiễm trùng nào đó. Nếu bạn từ 35 tuổi trở lên (hoặc trong gia đình có những trường hợp khuyết tật lúc sinh), xét nghiệm này được gọi là chọc dò màng ối qua bụng. Sau lần khám thai đầu tiên, bạn sẽ được thời khóa biểu thăm thai hàng tháng và đến tháng thứ bảy sẽ khám hai tuần lần cho đến tháng cuối thai kỳ; trong tháng cuối cùng này, bác sĩ sẽ khám mỗi tuần một lần đến ngày sinh. Những lần khám này, bạn thường được cân, đo huyết áp xét nghiệm nước tiểu, đo kích thước tử cung, kiểm tra tư thế và nhịp tim của thai nhi. Trừ trường hợp có nguy cơ cao, còn không, việc khám vùng tiểu khung không cần thiết phải khám thường xuyên. Ngoài ra, bạn còn được hướng dẫn về chế độ dinh dưỡng, những thứ cần kiêng cữ như thuốc lá, rượu .v.v..., một toa thuốc bổ riêng vì sự mang thai làm tiêu hao sức khỏe người mẹ, và hầu hết phụ nữ cần bổ sung chất sắt và sinh tố. Việc bổ sung sinh tố xem chừng là điều cần thiết kể cả khỉ bạn ăn uống cân bằng dinh dưỡng. NHỮNG TRƢỜNG HỢP CÓ NGUY CƠ CAO 1- Phụ nữ mang thai trên 35 tuổi và dưới 18 tuổi thường có tỷ lệ biến chứng cao hơn những phụ nữ mang thai khác. 2- Các vấn đề sức khỏe như tiểu đường, cao huyết áp hoặc bệnh tim có khả năng gây nguy hiểm đối với người mẹ và gây hậu quả không tốt đối với thai nhi. 3- Vài số thuốc như những loại thuốc khống chế cơn động kinh có thể gây hại thai nhi. 4- Phụ nữ có tiền sử sảy thai, sanh thai chết, hoặc sinh con có khuyết tật đều có nguy cơ gặp những rắc rối cho lần mang thai sau. 5- Các tai biến, những viêm nhiễm (đặc biệt qua đường tình dục), phẫu thuật và các bệnh khác khi mang thai. 6- Ða thai (sinh đôi hoặc sinh ba). Với những nguy cơ này, bạn sẽ được chỉ định khám tăng cường và được hướng dẫn đặc biệt hơn. Trong một số trường hợp bất khả kháng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người mẹ, bác sĩ cổ thể đề nghị hủy thai. Những quan tâm về di truyền Những cặp vợ chồng trước khi dự định có con cần nghĩ đến vấn đế di truyền của mình, họ nên kiểm tra xem nếu họ hoặc thân nhân (đặc biệt cha, mẹ, anh, chị, ông, bà) có bất cứ khuyết tật nào di truyền hoặc có vấn đề về sức khỏe. 6
  7. Có đến 5% trẻ được sinh ra bị khuyết tật do (ảnh hưởng) di truyền ở bất cứ bộ phận nào của cơ thể, kể cả não, và có khi làm chết thai. Một ví dụ về khuyết tật di truyền như hội chứng Down gây đần độn và những vấn đề sức khỏe khác, những người có nguồn gốc từ những chủng tộc khác nhau. Ví dụ : người Anh, Do Thái và người Mỹ gốc Phi, có tỷ lệ nguy hiểm khác nhau đối vài rối loạn di truyền. Nếu có khả năng thừa hưởng một khuyết tật trong gia đình thì đôi vợ chồng này cần tìm đến sự cố vấn về di truyền dể tìm ra những cơ may vượt qua những gì có thể xảy ra cho trẻ sơ sinh, nhất là đã có một đứa con bị khuyết tật di truyền rõ rệt. Việc này cần tiến hành ngay với các nhà di truyền học giỏi. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG KHI MANG THAI Những thay đổi cơ thể trong suốt quá trình mang thai Sự mang thai thông thường kéo dài 38 đến 42 tuần, hay khoảng chín tháng. Ðối với mục đích để thảo luận, ta chia thai kỳ làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn là ba tháng, gọi là quý. Quý một: Ða số các ảnh hưởng gây ra ấn tượng mạnh nhất khi mang thai (ngoài sự lên cân) đều xảy ra trong quý một: Trong ba tháng đầu tiên này có các thay đổi quan trọng về mức nội tiết, đặc biệt mức đo hai nội tiết tố estrogen và progesterone. Những thay đổi này làm vú căng, hai núm vú và quầng vú sẫm màu, nhất là phụ nữ mang thai lần đầu. Phụ nữ có thai cần đi tiểu nhiều hơn bình thường và có thể bị táo bón. Táo bón là một chứng nhưng không được đề nghị cho uống những loại thuốc nhuận trường vì thuốc có thể gây nguy hiểm cho bào thai, thay vào đó người mẹ nên uống thêm chất lỏng và ăn thêm chất xơ trong khẩu phấn ăn hằng ngày. Mệt mỏi và buồn ngủ là do mức kích thích tố progesterone tăng, điều đó không có gì bất thường, vì thường lúc này họ cần ngủ từ tám đến mười giờ mỗi ngày, thêm giờ ngủ trưa. Khoảng phân nửa phụ nữ mắc chứng buồn nôn và ói, gọi là "ốm nghén". Ví dụ: Một vài phụ nữ buồn nôn khi thấy hoặc ngửi mùi thức ăn, đặc biệt mùi thức ăn đang nấu, những người khác cảm thấy đau dạ dày mỗi khi thức dậy, họ thường ăn bánh snach (như bánh quy giòn) cứ hai hoặc ba giờ họ ăn một lần giúp làm giảm cảm giác buồn nôn. Cần tránh các thức ăn chiên có mỡ và các loại thức ăn khó tiêu. Phần lớn chứng ốm nghén sẽ qua đi và biến mất vào đầu tháng tư, điều quan trọng là không nên dùng các loại thuốc như kháng acid để điều trị chứng đau dạ dày, trừ khi được bác sĩ chỉ định. Sẩy thai cũng thường xảy ra vào quý đầu. Sảy thai thường do nguyên nhân tự nhiên chứ không tại bác sĩ hay chính đương sự. Thật ra, hầu hết các nguyên nhân sẩy thai đều không được xác định, bất kỳ sự 7
  8. chảy máu nào của âm đạo ở giai đoạn sớm này đều là dấu hiệu của nguy cơ sẩy thai, nên báo với bác sĩ ngay để được hướng dẫn. Quý hai: Hầu hết các vấn đề của quý một sẽ giảm dần trong quý hai, bây giờ là sự tăng trưởng ở vùng bụng rất nhanh.Vào tháng thứ năm, họ sẽ cảm nhận được những cử động của thai nhi (thai đạp lần đầu) và họ cảm thấy thật sung sướng. Ðây là dấu hiệu cho thấy thai nhi đang phát triển tốt. Cũng vào khoảng thời gian này, nhịp tim có thể nghe được qua ống nghe tim thai. Một số vấn đề trong quý một vẫn còn tiếp diễn trong quý hai. Táo bón thường đi đôi với việc cơ quan ép lên vùng tiểu khung và các mạch máu ở trực tràng gây phát triển bệnh trĩ. Muốn sử dụng thuốc phải hỏi ý kiến của bác sĩ. Một số phụ nữ bị chứng phù (sưng), đặc biệt ở tay, chân và cả cổ chân. Vì phù có thể là dấu hiệu của chứng ngộ độc huyết, cần trình bày rõ cho bác sĩ biết những chỗ bị sưng. Vào tuần thứ mười chín (hoặc trễ hơn) của thai kỳ, vú có thể sinh sản sữa non. Sữa non là một chất lỏng, dinh dính, màu vàng nhạt, tuy không nhiều nhưng cũng đủ để nhận ra. Quý ba: Vào quý ba, tử cung trở nên rất rộng và lên cân đáng kể. Khi mang thai, phụ nữ có thể tăng khoảng 10 đến 13kg, nhất là vào quý hai và ba, phụ nữ tăng cân khoảng 1/2 kg một tuần. Vào khoảng cuối thai kỳ (hai hoặc ba tuần trước khi sinh) thai nhi xuống vị trí thấp hơn trong ổ bụng, khi đáy tử cung căng ra chuẩn bị sinh. Sự thay đổi vị trí này gọi là sự sa bụng (có lẽ vì nó làm giảm áp lực khó chịu bên trong phổi và dạ dày) và dấu hiệu mệt nhọc sẽ sớm bắt đầu. Sa bụng làm tăng sức ép ở bụng dưới, có thể gây ra một vài khó chịu mới bao gồm: đi tiểu thường hơn, táo bón và sưng cổ chân. Sự thay đổi cơ thể trong khi mang thai đáng quan tâm nhất ở quý ba là gây ra một số tác dụng phụ có thể làm khó chịu. Có điều những khó chịu này chỉ nhất thời và sẽ biến mất hoàn toàn sau khi sinh một tuần. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG TÂM LÝ VÀ TÌNH CẢM Ngƣời mẹ tƣơng lai Những thay đổi thể lý có thể tương tự nhau, nhưng những phản ứng tình cảm nơi mỗi sản phụ có thể khác nhau. Có bao nhiêu phụ nữ mang thai là có bấy nhiêu phản ứng khác nhau. Khác nhau về tình cảm chờ mong, rồi thai kỳ có được mạnh khỏe và thoải mái không, vấn đề tài chính ra sao. Nhưng ngay cả trong những điều kiện tốt nhất, phụ nữ (và đàn ông) có thể có rất nhiều cảm giác lẫn lộn về thai kỳ. Nếu sự mang thai là điều xảy ra ngoài ý muốn, người phụ nữ cảm thấy rất căng thẳng và bất ổn về tình cảm. Mỗi lần mang thai đều khác nhau và xảy ra trong những điều kiện khác nhau, vì thế phụ nữ không thể mong là có những cảm nhận giống nhau mỗi lần có thai. 8
  9. Vài tuần lễ đầu tiên của thai kỳ thường là thời điểm của những tình cảm lẫn lộn đặc biệt. Phụ nữ có thể hồi hộp khi có thai nhưng cũng có thể có nhiều ngờ vực và lo sợ nhất là lần mang thai đầu. Vài phụ nữ quá quan tâm đến nỗi họ trở nên mê tín dị đoan và từ chối việc nói chuyện có thai với bất cứ người nào khác vì sợ gặp điềm gở, thường có tới 20% trường hợp sẩy thai vào thời gian đầu này, nên hãy thủng thẳng khi nói chuyện có thai. Họ còn nghi ngại về khả năng làm người mẹ của mình. Thật sự nàng không thể mường tượng mình sẽ là một người mẹ và chồng nàng sẽ là một người cha. Khi bước vào quý hai và đặc biệt sau khi cô ta cảm thấy thai nhi cử động, một số lo lắng trước đây giảm. Nhiều tình cảm khác lại phát sinh, như sự gắn bó và kính trọng mẹ ruột của nàng, vì cả hai người cảm thấy họ có những cái chung. Vài tuần cuối của thai kỳ có thể khó khăn hơn do mệt mỏi và khó đi lại. Lúc này có thể phát sinh tình cảm bị lẻ loi buồn chán. Ngƣời cha tƣơng lai Cũng như phụ nữ, người đàn ông cũng có những tình cảm lẫn lộn. Vì người cha tương lai không phải trải qua những thay đổi cơ thể, nhưng trước tiên, việc mang thai dường như không phải là sự thật đối với họ, mặc dù họ rất quan tâm. Vào quý hai, một khi họ nghe tim thai đập và cảm nhận bào thai đang đạp, lúc ấy đối với họ dường như mới là sự thật. Nhưng người cha háo hức luôn lo lắng về những gì họ mường tượng lúc sinh con. Họ sợ không biết vợ mình có khả năng chịu đựng lúc trở dạ và sinh nở hay không. Phương pháp tốt nhất để chống lại những mối cảm xúc này là sự am hiểu thông tin bằng cách tìm hiểu sách báo hay trao đổi với những người có kinh nghiệm. Họ cần sáng suốt hơn, vì chính họ mới là người quán xuyến nhiều thứ, nhất là sau khi người vợ sinh xong còn mệt mỏi. MỐI QUAN HỆ CỦA HAI NGƢỜI VÀ BẦU KHÔNG KHÍ TRONG GIA ĐÌNH Sự mang thai thường có những tác động mạnh đến mối quan hệ của hai vợ chồng. Bên cạnh niềm vui là những sự lo lắng về tương lai, rồi những hạn chế trong sinh hoạt tình dục nhiều khi cũng trở thành vấn đề. Anh chị của đứa em sắp chào đời cũng chịu sự tác động bởi sự có thai, chúng có thể đáp ứng lại bằng niềm vui và sự nâng đỡ nhưng cũng có thể là sự lo âu nên có thể không có cảm tình với đứa em sắp chào đời. Chính vì thế, điều cần thiết là phải chuẩn bị tinh thần cho những đứa con lớn, giúp chúng hiểu để có tình cảm dịu dàng và giảm bớt sự ghen tuông. TÌNH DỤC LÚC MANG THAI Ða số phụ nữ vẫn tiếp tục giao hợp trong lúc mang thai, nhưng nhiều cặp vợ chồng có những lo lắng và thắc mắc trong thời gian này. Có thể có người phụ nữ không cảm thấy ham muốn vào những tháng cuối của thai kỳ. 9
  10. Một số khác sợ việc đưa mạnh dương vật vào hoặc sức nặng cơ thể của bạn tình có thể đè bẹp bào thai, nhưng phổ biến là lo lắng nguy cơ gây viêm nhiễm. Cũng có một số cảnh báo cần được nhắc nhở khi giao hợp lúc mang thai: 1- Nếu người phụ nữ có tiền sử xảy thai hoặc xuất huyết âm đạo trong thời gian mang thai. 2- Cuối cùng kỹ thuật làm tình mà tất cả phụ nữ có thai nên tránh, đó là hành động thổi mạnh không khí vào âm đạo trong khi giao hợp bằng miệng (kích thích bộ phận sinh dục nữ bằng miệng). VẪN LÀM VIỆC KHI ĐANG MANG THAI Ngày nay, hầu hết phụ nữ đều ra ngoài làm việc để kiếm tiền, và trong số này có khoảng 80% mang thai ít nhất là một lần trong đời làm việc của họ. Nhiều phụ nữ thắc mắc là khi có bầu thì họ sẽ làm việc được trong bao lâu, nhưng chẳng thể đơn giản trả lời được vì nó phụ thuộc vào sức khỏe và bản chất công việc của mỗi người. Trong đa số trường hợp, để cho toàn vẹn, cần nghỉ làm ngay cho đến khi sinh đẻ xong. Những đối xử bất công cần được pháp luật can thiệp. SỨC KHỎE LÚC MANG THAI Sự dinh dƣỡng Những phụ nữ khi mang thai cần nhiều chất đạm, sinh tố, chất khoáng và tổng nhu cầu nhiệt lượng nhiều hơn phụ nữ bình thường (từ 2000 đến 2400 calo). Một chế độ ăn uống dinh dưỡng cung cấp cho một ngày vào khoảng 2000 đến 2400 calo thường bao gồm: Sữa Thực phẩm gốc thịt Trái cây chín Bánh mì và các loại thức ăn chứa tinh bột khác Các chất béo và dầu mỡ Những chất khoáng khác nhau như chất sắt và chất vôi (canxi), cũng đặc biệt quan trọng trong thời gian thai nghén. Chúng hỗ trợ người phụ nữ chống lại sự mệt mỏi, co thắt cơ bắp, thiếu máu, nhức đầu và tăng cường dinh dưỡng cho thai nhi. Tập thể dục Việc tập thể dục giúp ổn định trọng lượng cơ thể và góp phần giữ gìn sức khỏe tổng quát, sự sảng khoái tinh thần. Nếu bạn đã tập thể dục đều đặn, bạn không có lý do gì ngưng tập khi mang thai. Thuốc men 10
  11. Nhiều loại thuốc như aspirin, các chất kháng acid, thuốc chống xung huyết, hoặc thuốc nhuận trường được dùng quá thông dụng đến nỗi chúng ta không nghĩ đến khả năng gây nguy hiểm của chúng. Nhưng những thuốc này đều cần cẩn trọng trong thời kỳ có thai vì chúng đều có thể gây nguy hiểm cho sự phát triển của bào thai. Trên thực tế nhau thai có cung cấp một sự bảo vệ nào đó giúp lọc bớt những chất nguy hiểm khỏi dòng máu người mẹ trước khi tới bào thai, nhưng khả năng này có giới hạn. Nhiều loại thuốc đi qua nó tới được bào thai và gây ra những tổn hại, nhất là não. Rƣợu Người ta ước tính rằng cứ 1.000 trẻ sinh ra do người mẹ uống rượu, dù chưa phải là nghiện, thì có đến 78 đến 690 trẻ bị những khuyết tật hoặc các vấn đề về sức khỏe. Ảnh hưởng của rượu tỉ lệ với lượng mà người mẹ đưa vào cơ thể, nghĩa là người mẹ càng uống nhiều, nguy cơ cho bé sơ sinh càng lớn. Hút thuốc Nhiều người trong chúng ta thừa nhận rằng phụ nữ không nên sử dụng thuốc lá trong khi có thai, nhưng hầu hết chúng ta không nghĩ rằng thuốc lá như là thuốc uống, mặc dù chúng có chứa chất gây nghiện (nicotin) - Chúng ta thường hiểu thuốc lá là một nguy cơ đối với sức khỏe nhưng không phải cho thai nhi đang phát triển mà cho phổi chúng ta. Sự thực, hút thuốc lá trong khi mang thai rất nguy hiểm, ảnh hưởng rõ rệt nhất là sự phát triển của thai nhi. Ðứa bé được sinh ra do người mẹ hút thuốc thường cân nhẹ hơn trẻ em bình thường ít nhất khoảng 200g. Chúng cũng ngắn hơn và đầu nhô hơn. Những tác động này có thể kéo dài và thậm chí là vĩnh viễn. Hút thuốc còn có thể ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ của con cái. Hút thuốc xem chừng còn làm gia tăng sự sẩy thai, làm trẻ chết lúc sinh, nhất là những phụ nữ còn bị những chứng bệnh khác như cao huyết áp. Chất cafêin Nhiều loại thực phẩm và thuốc chứa chất cafêin khác nhau được nhiều người tiêu thụ số lượng đáng kể mỗi ngày, nhiều loại nước ngọt đặc biệt như nước giải khát cô ca, sôcôla và trà cũng có chất cafêin. Nhiều nghiên cứu cảnh báo việc phụ nữ có thai dùng quá nhiều các thực phẩm chứa cafêin, vì nó có thể gây dị dạng ở thai nhi. CÁC LOẠI THUỐC BẤT HỢP PHÁP Người ta còn biết ít về tác dụng của đa số các loại thuốc bất hợp pháp đối với bào thai đang phát triển, cả hai loại thuốc gây nghiện như heroin và methadone được biết là cực kỳ nguy hiểm và đôi khi làm chết trẻ sơ sinh. Giống như rượu. Những loại thuốc này luôn có mối quan hệ với vấn đề tăng trưởng, những 11
  12. đứa trẻ được người mẹ nghiện sinh ra thì chính chúng cũng bị nghiện thuốc và chúng phải cai nghiện giống như người lớn. Ngoài những tác dụng của các loại thuốc bất hợp pháp này thì điều quan trọng là nếu phụ nữ dùng kim để chích thuốc chung với nhiều người khác còn có nguy cơ nhiễm vi rút gây ra bệnh AIDS, một bệnh gây chết người chưa có thuốc chữa. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ Ðiều quan trọng là biết trước những nguy cơ do tiếp xúc với các hóa chất độc hại của môi trường, như chất chì đã được biết từ lâu là nó có tác dụng ngầm vào tiến trình sinh sản. Ngoài ra còn có nhiều loại hóa chất được dùng thông dụng trọng gia đình, nơi làm việc và nghề nông mà chúng ta biết rất ít. Nhiều hóa chất được biết là gây hại cho súc vật đồng thời cũng có hại cho hệ sinh sản của con người. Hầu hết các hóa chất sau khi qua nhau thai đểu gây hại ít nhiều cho bào thai, phụ nữ làm việc trong một vài ngành nghề như: phòng thí nghiệm, gây mê, hàn xì được đánh giá là có tỉ lệ sẩy thai và trẻ sinh ra bị dị dạng cao. Sau đây là một ít cách đề phòng cơ bản mà phụ nữ mang thai có thể làm theo để giảm các nguy cơ có liên quan đến hóa chất độc hại. Ở nhà 1. Tránh dùng hoặc tiếp xúc với hóa chất mạnh (như thuốc diệt côn trùng và thuốc tẩy). 2. Rửa thật cẩn thật tất các loại rau trái. 3. Tránh tiếp xúc với các thành viên khác trong gia đình mà công việc của họ có liên quan đến hóa chất. 4. Trong khi có thai nên uống nước đóng chai hoặc đun sôi. 5. Tránh ở vùng ngoài trời, vùng vừa mới phun thuốc trừ sâu. Ở nơi làm việc 1. Những nghề có nguy cơ cao (ví dụ: làm tóc và mỹ phẩm, săn sóc sức khỏe, giặt ủi và hấp tẩy). 2. Xin xét thuyên chuyển công việc nào mà bạn sẽ không còn tiếp xúc với hóa chất. 3. Xin nghỉ hộ sản càng sớm càng tốt nếu bạn làm việc ở ngành nghề có nguy cơ cao. LÀM MẸ LÀ NIỀM HẠNH PHÚC CỦA BẠN Mang thai là niềm hạnh phúc của bạn và chồng bạn. Ðứa con mà các bạn hằng mơ ước sẽ. phát triển trong bụng mẹ khoảng chín tháng. Sự kiện đáng yêu này sẽ mang lại cho các bạn niềm hạnh phúc 12
  13. nhưng đồng thời người mẹ cũng có thể gặp một số khó khăn. Người ta thường chia cả quá trình có thai thành ba giai đoạn:  Ba tháng đầu: Trứng đã được thụ tinh làm tổ và lớn dần, các cơ quan, bộ phận của thai nhi được hình thành trong thời kỳ này. Có thai là một yếu tố hoàn toàn mới mẻ cho cơ thể người mẹ, đồng thời với sự xuất hiện của bào thai các chất nội tiết trong cơ thể người mẹ cũng thay đổi, vì vậy bạn thường nhận thấy ốm nghén hay một số dấu hiệu khác.  Ba tháng giữa: Trong thời kỳ này thai nhi đã có đủ tất cả các bộ phận và bắt đầu có những chuyển động. Cơ thể người mẹ cũng đã quen dần với sự thay đổi của việc mang thai nên ốm nghén giảm đi và cân nặng của người mẹ tăng lên cùng với sự phát triển của thai nhi.  Ba tháng cuối: Thai nhi tiếp tục phát triển và thường chuyển động thay đổi tư thế. Kích thước thai lớn dần gây chèn ép cho cơ thể người mẹ. KHI CÓ THAI BẠN NÊN TỰ CHĂM SÓC SỨC KHỎE NHƢ THẾ NÀO? Khi có thai bạn NÊN:  Ði khám thai sớm khi bạn biết mình có thai; Nên đi khám thai ít nhất là ba hoặc bốn tháng trong thời gian mang thai: một lần vào ba tháng đầu, một lần vào ba tháng giữa và một hoặc hai lần vào ba tháng cuối ; Nếu có điều kiện bạn nên đi khám thai nhiều hơn. Những lần khám thai giúp cho bạn biết thai nhi có phát triển bình thường không, và người mẹ có bệnh gì hoặc có khó khăn gì cần phải xử trí không. Khám thai cũng giúp cho bạn biết bạn sẽ đẻ thường hay sẽ cần những can thiệp đặc biệt (như mổ đẻ). Vì vậy trong những lần đi khám thai vào ba tháng cuối bạn nên hỏi ý kiến bác sĩ hoặc nữ hộ sinh để chọn nơi sinh thích hợp. (Nếu bạn được dự báo là sẽ đẻ khó thì bác sĩ hoặc nữ hộ sinh sẽ hướng dẫn bạn nên sinh ở một cơ sở y tế có đủ các phương tiện cấp cứu).  Tiêm vac xin phòng uốn ván hai lần. Mũi thứ nhất cần được tiêm càng sớm càng tốt (thường tiêm khi bạn đi khám thai lần thứ nhất). Mũi thứ hai cách mũi thứ nhất ít nhất một tháng và muộn nhất là trước khi đẻ một tháng (thường tiêm khi bạn đi khám thai lần thứ hai hoặc thứ ba). Tiêm vắcxin sẽ giúp cho bản thân bạn và cả con bạn tránh được một căn bệnh rất nguy hiểm trong hoặc sau khi sinh là uốn ván. Vắcxin không có tác hại gì đối với thai nhi cũng như đối với bản thân bạn.  Nên nhớ rằng bạn cần ăn uống đầy đủ không những cho bản thân mình mà còn vì sự phát triển của con bạn. Vì vậy bạn nên uống nhiều nước và ăn đủ thức ăn, đặc biệt là những thức ăn cần thiết (cung cấp năng lượng như: gạo, ngô, khoai, sắn, bánh mỳ; phát triển cơ thể như: thịt, cá, sữa và trứng; và bảo vệ cơ thể như: hoa quả, rau xanh, gan, cá, trứng). Bạn không nên kiêng ăn những thức ăn mà bạn vẫn thường ăn trước khi có thai. 13
  14.  Khi có thai nhu cầu sắt của người phụ nữ thường cao gấp đôi hoặc gấp ba bình thường, vì vậy phụ nữ có thai thường hay bị thiếu máu. Ðể tránh thiếu máu, bạn cần ăn các loại thức ăn có nhiều chất sắt như: thịt nạc, gan, rau xanh và uống viên sắt theo chỉ dẫn của bác sĩ và nữ hộ sinh.  Mỗi đêm nên ngủ ít nhất là 8 tiếng. Nghỉ ngơi đủ để bạn cảm thấy thoải mái, ví dụ như mỗi ngày nằm nghỉ một giờ vào buổi trưa.  Tắm rửa thường xuyên để giữ gìn thân thể sạch sẽ.  Ðể tạo điều kiện cho nuôi con bằng sữa mẹ sau này, bạn nên tự chăm sóc vú từ khi đang có thai bằng cách lau rửa đầu vú nhẹ nhàng hàng ngày. Một số ít phụ nữ có núm vú ngắn dẹt hoặc lõm vào trong. Nếu bạn có núm vú lõm như vậy thì nên bóp và kéo núm vú nhẹ nhàng dần dần ra phía ngoài. Bạn nên làm như vậy vài phút mỗi ngày để con bạn sau này bú mẹ được dề dàng hơn.  Tập thể dục đều đặn, nhẹ nhàng, ví dụ như đi bộ nửa giờ mỗi ngày.  Mặc quần áo rộng rãi, thoải mái, đi giầy dép thấp.  Tiếp tục có quan hệ tình dục nếu bạn còn ham muốn, nhưng bạn nên chọn những tư thế mà bạn cảm thấy thoải mái. Khi có thai bạn KHÔNG nên :  Nhấc hoặc mang vác những vật nặng có thể gây sẩy thai. Mọi người trong gia đình nên giúp đỡ phụ nữ có thai làm những việc nặng.  Dùng thuốc tây y, hoặc thuốc đông y không có ý kiến của bác sĩ, nữ hộ sinh hiểu biết về thai nghén có thể có hại cho thai, đặc biệt là trong ba tháng đầu.  Thụt rửa sâu trong âm đạo có thể sẽ gây ra những viêm nhiễm bên trong.  Không nên giao hợp nếu như bạn thấy có những dấu hiệu sau: ra máu hoặc chất dịch màu hồng ở cửa mình, khi đã có cơn co dạ con, hoặc khi đã ra nước ối.  Uống rượu có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng cho đứa trẻ.  Hút thuốc lá hoặc hít thờ không khí có khói thuốc lá có thể gây đẻ thiếu cân.  Các chất ma túy có thể gây sẩy thai, dị dạng thai nhi hoặc thai chết lưu  Tiếp xúc với những chất hóa học như thuốc nhuộm tóc thuốc trừ sâu hoặc thuốc diệt cỏ sẽ có hại cho thai nhi và chính bản thân bạn. NHỮNG DẤU HIỆU THƢỜNG GẶP KHI MANG THAI 14
  15. Khi có thai bạn có thể gặp những dấu hiệu thông thường như sau: Trong ba tháng đầu  Mất kinh  Buồn nôn và nôn  Mệt mỏi hoặc chóng mặt  Căng vú, quầng vú đậm màu dần  Ði tiểu nhiều lần  Chán ăn hoặc kém ăn  Sợ ăn hoặc thèm ăn một thức ăn gì đó  Tăng tiết nước bọt  Tăng cân ít hoặc sút cân nhẹ  Buồn ngủ Trong ba tháng giũa  Ðau lưng.  Ra nhiều khí hư (trong suốt hoặc trắng đục).  Hồi hộp, đánh trống ngực.  Sau tháng thứ tư, tăng khoảng 2kg mỗi tháng.  Ðôi khi có những đám da bị xạm đi.  Cảm giác thai bắt đầu máy từ tháng thứ tư, thứ năm Trong ba tháng cuối :  Căng tức vùng bụng dưới.  Thấy rõ thai cử động.  Hay bị chuột rút, nhất là ở chân.  Táo bón.  Giãn tĩnh mạch (nổi gân xanh ờ chân, tay hoặc cổ).  Vú tiết sữa non (chất dịch màu vàng).  Có những vết rạn trên da bụng. 15
  16.  Cảm giác tức thở.  Phù nhẹ ở mắt cá và bàn chân.  Thỉnh thoảng có cơn co dạ con tự nhiên không gây đau (bạn chỉ cảm thấy bụng cứng nhẹ từng cơn).  Ði tiểu nhiều lần.  Tăng khoảng 6kg trong 3 tháng cuối. Cả quá trình có thai tăng khoảng 9 - 12kg. NHỮNG CẢM GIÁC KHÓ CHỊU TRONG KHI MANG THAI VÀ CÁCH XỬ TRÍ Trong khi có thai bạn có thể gặp phải một số cảm giác khó chịu nhưng không nghiêm trọng hoặc nguy hiểm. Bạn có thể tự mình xử trí phần lớn những điều phiền toái này. Sau đây là những cảm giác khó chịu thường gặp và cách xử trí :  Buồn nôn và nôn: ăn ít một và ăn làm nhiều bữa thay vì ăn những bữa quá no.  Hồi hộp đánh trống ngực: Tránh ăn những thức ăn có nhiều gia vị, ăn ít một và ăn làm nhiều bữa. Không đi nằm ngay sau khi ăn xong.  Táo bón: Uống nhiều nước, ăn nhiều rau và hoa quả, tập thể dục nhẹ nhàng vào buổi sáng.  Trĩ: Tránh ngồi lâu, nên ăn nhiều hoa quả và rau.  Khí hư: Nếu khí hư có màu xanh hoặc vàng và có chùi khó chịu, cần điều trị tại phòng khám hoặc bệnh viện.  Ðau lưng: Cố gắng giữ cho lưng thẳng khi ngồi và đứng; tập thể dục nhẹ nhàng.  Chuột rút: Làm giãn cơ từ từ bằng cách duỗi thẳng chân và hướng ngón chân về phía thân mình đồng thời nhẹ nhàng xoa bóp bắp chân (xem hình dưới đây).  Phù ở mắt cá và bàn chân: Tránh mặc quần áo chật, đi giầy dép chật hoặc đeo đồ nữ trang chật. Khi nằm hoặc ngồi nên để chân ở tư thế cao. Nếu đột ngột phù to bạn nên đi khám.  Khó thở: Nếu khó thở kéo dài, bạn nên đi khám ở một cơ sở y tế.  Hoa mắt, chóng mặt: Nằm xuống hoặc ngồi xổm úp mặt vào đùi trong vài phút. Nên đứng lên từ từ khi bạn đang nằm hoặc ngồi. Nếu hoa mắt chóng mặt nặng hoặc kéo dài, bạn nên đi khám.  Ðau bụng: Ngồi hoặc nằm xuống khi có đau. Nếu đau kéo dài, bạn nên đi khám ở cơ sở y tế.  Khó chịu khi đi tiểu: Uống nhiều nước và đi tiểu thường xuyên. Nếu kèm theo đái buốt, bạn nên đi khám ở cơ sở y tế.  Giãn tĩnh mạch chân: Ðể chân lên cao khi ngồi; tránh đứng lâu (xem hình dưới đây). 16
  17. NHỮNG BIẾN CHỨNG NẶNG TRONG KHI MANG THAI Một số biến chứng nặng có thể gây ra do có thai. Trong một số trường hợp khác, người phụ nữ có thể bị bệnh từ trước và khi có thai bệnh trở nên trầm trọng hơn. Ðiều quan trọng là bạn và gia đình bạn cần biết những dấu hiệu của các biến chứng nặng và biết cần phải làm gì. Nếu bạn có một trong những dấu hiệu sau đây, bạn cần đi đến bệnh viện hoặc cơ sở y tế NGAY LẬP TỨC vì có thể bạn hoặc con bạn đang gặp nguy hiểm và cần đƣợc cấp cứu :  Ðau bụng nhiều.  Ra máu từ cửa mình.  Không thấy cử động của thai sau tháng thứ tư.  Ðau đầu nhiều, nhìn mờ, cảm giác ruồi bay trước mắt.  Có cơn ngất (bất tỉnh) hoặc co giật.  Sốt cao.  Chảy nhiều nước từ cửa mình (rỉ ối hoặc vô ối) Nếu bạn có một trong những dấu hiệu sau, bạn cần đi đến bệnh viện hoặc cơ sở y tế CÀNG SỚM CÀNG TỐT vì một biến chứng nặng có thể đang hình thành.  Nhợt màu ở lợi, mặt trong mí mắt, móng tay trắng nhợt, thường xuyên cảm thấy mệt, mạch đập nhanh và thở hổn hển.  Hoa mắt chóng mặt.  Phù ở tay và đặc biệt là ở mặt.  Nôn nhiều hoặc nôn liên tục.  Khí hư có mùi khó chịu, màu xanh, trông như bọt hoặc lợn cợn như bột, ngứa cửa mình.  Tăng cân quá nhiều.  Không tăng cân, hoặc sụt cân sau tháng thứ tư. NHỮNG DẤU HIỆU CHUYỂN DẠ Mọi người trong gia đình cần chuẩn bị trước cho việc sinh nở và những phương tiện đi lại (cần dự kiến trước những khả năng khác nhau để đưa sản phụ trong trường hợp cần cấp cứu) Khi bắt đầu chuyển dạ, bạn có thể thấy những dấu hiệu sau:  Ðau bụng từng cơn ngắn, cách quãng, đau tăng dần. 17
  18.  Có thể đau mỏi vùng thắt lưng  Ra chất nhầy hồng ở cửa mình. Khi có một trong những dấu hiệu trên đây, bạn nên đến trạm xá, nhà hộ sinh, Trung tâm Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em và Kế hoạch hóa gia đình hoặc bệnh viện, nơi đã được bác sĩ hoặc nữ hộ sinh giúp bạn lựa chọn trong những lần khám trước đây để sinh con. Xin bạn đừng quá lo lắng mà hãy bình tĩnh và tự tin ? Sau vài giờ đau bụng chuyển dạ, hầu hết các bà mẹ đều sinh con an toàn. SAU KHI SINH BẠN NÊN TỰ CHĂM SÓC BẢN THÂN MÌNH NHƢ THẾ NÀO? Sau khi con bạn ra đời cơ thể bạn cần có một thời gian để hồi phục và trở lại bình thường. Thời gian này thường kéo dài khoảng sáu tuần lễ và được gọi là thời kỳ hậu sản. Trong một vài tuần đầu bạn sẽ thấy có chất dịch (gọi là sản dịch) chảy ra từ cửa mình. Sản dịch thường có màu đỏ trong vòng 4 ngày ngay sau sinh. Sau đó sản dịch chuyển sang màu hồng cho đến khoảng ngày thứ 9 sau sinh: Từ khoảng ngày thứ 10 trở đi sản dịch chuyển sang màu nâu sẫm, sau đó càng ngày càng nhạt màu và ít đi rồi hết hẳn thường sau hai hoặc bốn tuần sau khi sinh. Nếu bạn cho con bú hoàn toàn thì thường sẽ có kinh sau tháng thứ sáu hoặc muộn hơn, nhưng nếu bạn không cho con bú hoặc cho con bú không hoàn toàn thì kinh nguyệt sẽ trở lại từ bốn đến sáu tuần sau sinh. Trong thời kỳ hậu sản :  Bạn nên giữ sạch vùng sinh dục hậu môn bằng cách rửa nhẹ nhàng bằng nước sạch và xà phòng 3-4 lần một ngày và dùng băng vệ sinh hoặc vải màn sạch.  để thấm sản dịch. Nhưng bạn không nên thụt rửa sâu hoặc đặt bất kỳ vật gì trong âm đạo để tránh nhiễm trùng.  Khi còn có sản dịch bạn không nên giao hợp để tránh nhiễm trùng.  Bạn nên ăn đủ chất dinh dưỡng và uống nhiều nước để hồi phục cơ thể sau khi sinh và để có đủ sữa cho con bú. Không nên ăn uống quá kiêng khem.  Nên tranh thủ ngủ càng nhiều càng tốt khi bé ngủ.  Tập thế dục nhẹ nhàng 15-20 phút mỗi ngày để hồi phục sức khỏe.  Ði khám lại từ 7 đến 10 ngày sau khi sinh để chắc chắn rằng bạn và con bạn đã hồi phục sau khi sinh và phát hiện những biến chứng nếu có. Ðây cũng là dịp bạn có thể hỏi bác sĩ và nữ hộ sinh bất cứ điều gì bạn còn bạn khoăn về cho con bú, quan hệ tình dục, kế hoạch hóa gia đình, tiêm phòng cho bé, chế độ ăn uống nghỉ ngơi hoặc những câu hỏi khác về sức khỏe của bạn cũng như con bạn. 18
  19. Bạn cần đến bệnh viện ngay nếu có một trong những dấu hiệu sau :  Ngất hoặc bất tỉnh.  Ra máu không giảm đi mà ngay càng tăng lên hoặc màu sản dịch chuyển sang đỏ tươi, hoặc có những cục máu đông.  Sốt.  Đau bụng dữ dội hoặc đau tăng dần lên.  Nôn và tiêu chảy.  Máu hoặc chất dịch chảy ra từ cửa mình có mùi hôi khó chịu.  Ðau, sưng, đỏ và có thể có chảy dịch từ vết khâu (nếu bạn bị cắt khâu tầng sinh môn lúc đẻ hoặc phải mổ đẻ).  Có nước tiểu hoặc phân chảy ra từ âm đạo.  Ðái buốt.  Nhợt màu ở lợi và mặt trong mí mắt, móng tay trắng nhợt, mệt mỏi, mạch đập nhanh, thở hổn hển và hoa mắt chóng mặt. HÃY NUÔI CON BẠN BẰNG SỮA MẸ Tất cả trẻ nhỏ cần được nuôi bằng sữa mẹ bởi vì sữa mẹ giàu dinh dưỡng và các kháng thể, nó giúp trẻ lớn nhanh và chống lại bệnh tật. Bạn nên bắt đầu cho con bú ngay lập tức hoặc trong vòng nửa giờ sau khi sinh. Sữa non là thức ăn rất tốt cho trẻ sơ sinh vì nó chứa rất nhiều kháng thể là chất giúp trẻ chống lại bệnh tật. Trẻ cần được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ trong bốn tháng đầu có nghĩa là bạn không cần thiết phải cho trẻ uống thêm nước, sữa hộp hoặc bất kỳ thức ăn gì khác. Bạn nên cho bé bú bất cứ lúc nào khi bé đòi bú. Con bạn cần được bú mẹ cho đến 18 hoặc 24 tháng, bạn đừng cai sữa khi bé chưa được 12 tháng. Trẻ em không được nuôi bằng sữa mẹ dễ bị mắc các bệnh nhiễm trùng (như tiêu chảy hoặc viêm phổi) và dễ bị suy dinh dưỡng hơn; do đó có nguy cơ chết cao hơn rất nhiều so với trẻ được nuôi bằng sữa mẹ. XIN BẠN ĐỪNG QUÊN  Ðăng ký tên em bé ở trạm y tế phường, xã sau khi sinh để cháu được tiêm và uống thuốc phòng theo lịch của địa phương. Tiêm và uống thuốc phòng giúp trẻ tránh được một số bệnh nguy hiểm như lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt và sởi. Bạn sẽ nhận được Phiếu Tiêm Chủng (trong đó có lịch tiêm chủng) khi đưa con đi tiêm mũi đầu tiên. 19
  20.  Cho bé ăn dặm (tức là những thức ăn khác ngoài sữa mẹ) khi bé được 4 đến 6 tháng. Bạn nên cho bé ăn thêm từ lỏng sau đặc dần. Thức ăn của bé phải có đủ các thành phần: bột gạo, đậu, thịt, cá, tôm, cua, trứng, dầu mò, rau xanh và quả chín... để bé không bị suy dinh dưỡng hoặc thiếu Vitamin A (Hay nói cách khác là để con bạn lớn lên khỏe mạnh và có đôi mắt tinh).  Trừ những ngày quá lạnh, bạn nên đưa bé ra ngoài trời mỗi ngày ít nhất 30 phút, ánh nắng mặt trời sẽ giúp bé chóng lớn.  Cân em bé hàng tháng để theo dõi xem cháu có phát triển bình thường không ÁP DỤNG KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH LÀ LỢI ÍCH CỦA BẠN Ðẻ thưa sẽ giúp bạn có đủ thời gian để hồi phục sức khỏe của bản thân mình đồng thời cũng giúp bạn có những đứa con khỏe mạnh. Một nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy trẻ đẻ cách nhau dưới 19 tháng có tỉ lệ chết cao gấp hơn 4 lần so với trẻ đẻ cách nhau từ 3 đến 5 năm. Một số phụ nữ nghĩ rằng họ sẽ không có thai trong suốt thời kỳ cho con bú. Không đồng vậy đâu, có rất nhiều phụ nữ đã phải đi nạo hút thai trong thời kỳ cho con bú do sự nhầm lẫn này. Hãy thận trọng, chỉ khi mang đủ ba điều kiện. sau bạn mới không có thai :  Bạn đang ở trong thời kỳ dưới 6 tháng sau khi sinh và  Bạn chưa có kinh trở lại và  Bạn cho con bú hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn. Nhưng khi một trong ba điều kiện này không còn nữa thì khả năng có thai của bạn tăng lên rất nhiều. Bạn cần phải áp dụng một biện pháp tránh thai để tránh có thai ngoài ý muốn và bảo vệ sức khỏe của bạn cũng như con bạn. Có rất nhiều biện pháp tránh thai bạn có thể áp dụng mà không ảnh hƣởng đến sữa của bạn :  Thuốc uống tránh thai chỉ có Progestin (như Exluton).  Thuốc tiêm DMPA (Depo-provera).  Vòng tránh thai.  Triệt sản nam và triệt sản nữ.  Bao cao su. Những người cung cấp dịch vu Kế hoạch hóa Gia đình như: cộng tác viên dân số, các dược sĩ, nhân viên ở các phòng khám Kế hoạch hóa gia đình, Trung tâm Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em và Kế hoạch hóa gia đình sẽ giúp bạn chọn một biện pháp tránh thai thích hợp. 20
nguon tai.lieu . vn