Xem mẫu
- 1
Sự lãnh đạo của Đảng – nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng tháng Tám
Đinh Thế Thuận
Trường Sĩ quan chính trị -
BQP
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ
nghĩa đế quốc trong hơn 80 năm, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ
chuyên chế suốt 1000 năm và 5 năm thống trị của phát xít Nhật trên lãnh thổ
Việt Nam, cho ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhân dân Việt
Nam từ thân phận nô lệ trở thành người tự do, người làm chủ vận mệnh dân tộc
mình.
Bàn về ý nghĩa của cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà
giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng:
lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và
nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc”.1
Thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Tám là kết quả hội tụ của nhiều
nhân tố, cả khách quan và chủ quan, các nhân tố này có quan hệ mật thiết, gắn
bó hữu cơ với nhau, trong đó sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết và khôn khéo của
Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố đóng vai trò quyết định. Điều này thể hiện
rõ trên ba nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng đã có đường lối lãnh đạo cách mạng đúng đắn, trong
đó xác định rõ phương châm chiến lược, nhiệm vụ, động lực và phương
pháp tiến hành cách mạng.
Ngay trong Hội nghị thành lập Đảng, các đại biểu đã thống nhất thông qua
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi
thảo, trong đó khẳng định phương châm chiến lược của cách mạng Việt Nam là
1
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H – 2000, tr. 159
- 2
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”2. Phương châm chiến lược này đã khắc phục một cách triệt để sự khủng
hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam kéo dài hơn 70 năm chống Pháp.
Phương châm chiến lược đã đặt việc giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường
của giai cấp công nhân, dưới ánh sáng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, phù hợp
quy luật khách quan và xu thế thời đại, đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân nên ngọn cờ của Đảng đã nhanh chóng quy tụ được sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc - điều kiện tiên quyết để cách mạng thành công.
Đảng xác định tiến trình cách mạng Việt Nam gồm hai giai đoạn liên tục,
từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (dân chủ mới) tiến thẳng lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa (xây dựng xã hội cộng sản). Trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, Đảng chỉ ra hai nhiệm vụ có quan hệ khăng khít với nhau, đó là chống
đế quốc và chống phong kiến, đây là kết quả của việc phân tích khách quan,
chính xác đặc điểm cơ cấu xã hội - giai cấp và mâu thuẫn cơ bản của xã hội
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Tuy có giai đoạn do chịu ảnh hưởng quá lớn của
“khuynh hướng tả” trong Quốc tế Cộng sản, Đảng đã không phân định rõ vị trí,
vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc trong cách mạng vô sản nên chưa giải
quyết đùng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống phong kiến và nhiệm vụ
chống đế quốc, nhưng với tinh thần chủ động, sáng tạo, tôn trọng khách quan,
biết phân tích tình hình cụ thể, Đảng đã nhanh chóng chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu để tập
trung toàn lực cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám.
Khắc phục những nhận thức máy móc, giáo điều về lý luận đấu tranh giai
cấp trong khẩu hiệu: “trí phú địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ”, Đảng đã từng
bước phân tích rõ đặc điểm cơ cấu xã hội giai cấp, từ đó xác định đúng động
lực của cách mạng Việt Nam với nòng cốt là khối liên minh giữa “ thợ thuyền và
dân cày nghèo” dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời đoàn kết rộng rãi các lực
lượng tiến bộ trong hàng ngũ trung, phú nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc.
Bằng việc đổi mới tư duy kịp thời, phù hợp với đặc điểm tình hình và nhiệm vụ
2
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H – 1995, tr. 1
- 3
cách mạng, lực lượng cách mạng Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh trưởng
thành, đủ sức làm lên cơn chấn động Đông Dương vào tháng 8 năm 1945.
Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo: “dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo
lực phản cách mạng”, Đảng nhận định không thể buộc kẻ thù từ bỏ mục tiêu
xâm lược, nếu không sử dụng bạo lực cách mạng để đập tan ý chí xâm lược ấy.
Ngay sau khi thành lập, Đảng đã nhanh chóng phát triển lực lượng trong quần
chúng, kết hợp nhiệm vụ giáo dục, tuyên truyền vận động với tổ chức và rèn
luyện quần chúng trong đấu tranh cách mạng. Thắng lợi của tổng khởi nghĩa
tháng 8/1945 là kết quả 15 năm đấu tranh lâu dài, bền bỉ của quần chúng dưới
sự lãnh đạo của Đảng, được tập dượt qua ba cao trào cách mạng rộng lớn, tạo
thành lực lượng chính trị hùng hậu có lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Thứ hai, Đảng đã nhận định đúng tình hình, dự báo chính xác xu thế
vận động khách quan của cách mạng thế giới, chủ động tạo ra thời cơ và
tận dụng tốt thời cơ để giành thắng lợi quyết định.
Chiến tranh thế giới II kết thúc, thắng lợi thuộc về phe Đồng minh, ngày
9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, phát xít Nhật đi gần
đến chỗ thất bại hoàn toàn, chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang
cực độ, Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào
Đông Dương tước vũ khí quân Nhật. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện,
vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với
quân Đồng minh.
Ngày 13/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp
tại Tân Trào quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước từ tay phát xít Nhật, trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Ngày
16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi
nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau Đại hội Quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu
gọi đồng bào cả nước: “giờ quyết định vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc
đồng bào hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”3. Dưới sự lãnh đạo
3
Sđd, tr. 554
- 4
của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính
quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày (14 đến 28-8) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành
công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
Điều kiện khách quan thuận lợi chỉ xuất hiện trong vòng chưa đầy một
tháng, tính từ khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh tới trước khi quân Đồng
minh kéo vào thay thế quân Nhật ở Đông Dương. Để tận dụng được khoảng
thời gian quý như vàng ấy, Đảng đã có 15 năm gây dựng và củng cố lực lượng.
Có thể nói Đảng hoàn toàn chủ động tạo ra thời cơ cách mạng bằng cách nỗ lực
chủ động chuẩn bị nhân tố chủ quan, dự báo chính xác xu thế vận động khách
quan, thúc đẩy hai nhân tố ấy hội tụ chín mồi trong một thời cơ ngàn năm có
một để giành thắng lợi một cách chắc chắn và ít đổ máu nhất. Thành công của
việc tạo dựng và chớp thời cơ cách mạng có sự đóng góp to lớn của Lãnh tụ Hồ
Chí Minh với khả năng phân tích, tổng kết thực tiễn tuyệt vời và những dự báo
thiên tài.
Thứ ba, Đảng đã chuẩn bị chu đáo phương án bảo vệ thành quả cách
mạng với tư tưởng chỉ đạo: “thành trì vững chắc nhất của cách mạng chính
là thế trận lòng dân”.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã giáng một đòn chí mạng vào chủ
nghĩa đế quốc, chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa thực dân, nhưng kẻ thù của dân tộc không cam chịu thất bại dễ dàng
như vậy. Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn nhiều. Ngay
sau khi giành độc lập, chúng ta cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù hung hãn.
Ở miền Bắc là gần 20 vạn quân Tưởng, sau lưng chúng là bọn Việt Quốc, Việt
Cách với âm mưu thủ tiêu chính quyền cách mạng. Ở Miền Nam, trên một vạn
quân Anh cũng mượn tiếng là vào tước vũ khí của Nhật, nhưng kỳ thực là chúng
mở đường cho thực dân Pháp cướp lại nước ta. Ngoài ra, trên đất nước ta lúc
này còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ lệnh giải giáp vũ khí. Chưa bao
giờ, cùng một lúc cách mạng Việt Nam phải đối phó với nhiều kẻ thù như thời
điểm này, chúng có thể mâu thuẫn với nhau về lợi ích kinh tế nhưng đều thống
nhất với nhau trong âm mưu chống cộng sản, thủ tiêu chính quyền cách mạng,
xoá bỏ thành quả mà cuộc cách mạng tháng Tám vừa giành được.
- 5
Trong tình thế cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc” đó, Đảng đã thể hiện bản
lĩnh chính trị vững vàng, bình tĩnh, khéo léo xử lý từng việc, lãnh đạo toàn dân
từng bước tháo gỡ khó khăn, giữ vững thành quả cách mạng. Với tư tưởng: “dễ
mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”4, việc đầu tiên
Đảng quan tâm là lãnh đạo giải quyết nạn đói, nạn thất học, tiến hành tổng
tuyển cử để thực hiện quyền dân chủ, tiến hành khôi phục kinh tế nhằm cải
thiện và nâng cao đời sống nhân dân, … Những việc làm cụ thể đó có tác dụng
gấp trăm lần công tác giáo dục, tuyên truyền, nhân dân đã thực sự hiểu được giá
trị của độc lập, tự do, dân chủ và quyết tâm giữ vững thành quả đó bằng mọi giá.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, ngay cả khi chính quyền cách mạng phải sơ tán,
thậm chí Đảng phải tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật để tránh đòn
tấn công trực tiếp của kẻ thù, nhân dân vẫn một lòng theo cách mạng và đó thực
sự là cội nguồn sức mạnh, là thành trì vững chắc nhất không kẻ thù nào có thể
khuất phục.
Nhận thức rõ vai trò quyết định của Đảng trong sự thành công của cách
mạng tháng Tám, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay như sau:
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ
quốc phòng – anh ninh, coi đó là nguyên tắc bất di bất dịch của sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc.
Hai là, thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để xây dựng
đường lối bảo vệ Tổ quốc phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, trong đó luôn xác
định thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là thành trì vững chắc nhất
của Tổ quốc.
Ba là, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc, làm cho mỗi bước tăng trưởng kinh tế đều gắn với cải thiện đời sống
nhân dân và nâng cao sức mạnh quốc phòng.
Bốn là, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, luôn luôn sẵn sàng chiến
đấu.
4
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H – 2000, tr. 212
nguon tai.lieu . vn