Xem mẫu
- Quế thanh, Quế quỳ
Vì nghĩa giao bang, hiếu trung đôi đàng ;
Thân ngọc vàng đem vùi cát bụi,
Cho rảnh nợ Ô Ly, ngậm ngùi kẻ ở người đi .
Hàn Phương (Bài ca Nam ai)
Tháng 6 năm Bính Ngọ 1306, nàng công chúa Huyền Trân, con vua Trần Nhân Tông, em vua Trần Anh Tông, rời Thăng Long lên đường đi Champa kết
duyên với vua Chế Mân. Nàng được phong làm Hoàng hậu Paramesvari. Sính lễ của vua Chăm dâng vua Trần là vùng đất Uli, tức Ô Lý hay Ô Rí, còn
gọi Việt Lý (sách Tàu chép Niao Li), đổi thành hai châu Thuận và Hóa, làm bàn đạp cho cuộc Nam Tiến, đã sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt mà không mất
một mũi tên, không tốn một viên đạn.
Huyền thoại kể tiếp khi vua Chế Mân qua đời hơn một năm sau, triều thần Đại Việt sợ
công chúa phải bị thiêu với chồng, liền phái quan Hành khiển Trần Khắc Chung và quan
An phủ sứ Đặng Văn đưa thuyền vào lập mưu cứu vớt. Sự kiện nầy chưa thấy có cơ sở
chính xác, cần phải được tìm hiểu sâu rộng hơn : Hoàng hậu Pamavesvari là bà vợ thứ ba,
có đủ điều kiện lên hỏa đàn không ? Nếu bà phải bị thiêu thì liệu phái bộ Đại Việt có đủ
thì giờ vào kịp để cứu không ? Ai tin được mưu mô đưa bà ra biển cầu khấn linh hồn vua
chồng trước khi lên hỏa đàn để dễ thoát chạy ? Đáng tin hơn là, sau khi gởi phái bộ thái
tử Chế dà da (Sri Jaya) ra Thăng Long báo tin, triều đình Champa đã quyết định đưa trả
công chúa Huyền Trân về lại kinh đô Đại Việt với một đoàn 300 thủy binh hộ tống, sau
nầy được cho quay về quê quán, trong mục đích xin hoàn lại vùng đất Uli (một ý chí gây
tranh chấp trong nhiều năm giữa Đại Việt và Champa, để lại trong lịch sử trên tuổi Chế
Bồng Nga). Dù sao, sau thời gian dài đăng dẳng một năm, nàng (và một đứa con ?) mới
về đến kinh đô Đại Việt làm người đời thêu dệt một mối tình tuyệt diệu giữa viên quan và
bà hoàng hậu góa chồng trẻ tuổi. Quan hệ tình cảm giữa quan hành khiển và nàng công
chúa phải chăng đã thắm thía trước khi nàng đi lấy chồng ? Nếu vậy thì đôi uyên ương đã
biết hy sinh đời mình cho lợi ích đất nước và bây giờ chỉ nối lại cuộc tình duyên sớm tạm
bị ngừng. Nhưng đứng về phía người Chăm làm sao không khỏi oán hờn một viên quan
ngoại quốc dám tư thông với bà hoàng hậu nước họ, xúc phạm đến danh dự một vương
triều (2) ! Dù sao, cuộc ái ân nầy, nếu đã xảy ra, như tuồng cũng không đi đến một kết
thúc thỏa mãn vì sau nầy một đằng Trần Khắc Chung bị lăng nhục (Hưng Nhượng
Vương Trần Quốc Tảng đã mắng : họ tên không tốt, có lẽ nhà Trần mất vì người nầy
chăng ? - khắc là thắng, chung là tàn, khắc chung là thắng xong thì tàn lụi - ) phải ẩn nấu
(1)
, đằng kia dấu vết Huyền Trân đã được tìm ra ở chùa Nộn Sơn, xã Hồ Sơn, Huyện
Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Thời ấy, sinh ra làm công chúa là chuẩn bị một cuộc sống vàng son trong cung cấm.
Nàng Huyền Trân đã chịu từ giã lâu đài điện ngọc để dấn thân vào một gia đình xa lạ,
một xứ sở không cùng phong tục, tập quán, một chốn được xem như là rừng sâu nước
độc. Không nói đến mối tình riêng tư của nàng, không cần biết nàng tình nguyện hay bắt
buộc ra đi và cuối đời của nàng diễn biến ra sao, cử chỉ can đảm của nàng đáng được tôn
trọng. Bài ca Nam bình (tác giả là Võ Chuẩn hay Tôn Thất Quế ?) nói lên sự hy sinh cao
cả, định mệnh đắng cay của nàng công chúa và lòng biết ơn của dân tộc :
Nước non ngàn dặm ra đi, cái tình chi ?
Mượn màu son phấn đền nợ Ô Ly.
- Đắng cay vì đương độ xuân thì, độ xuân thì !
Cái lương duyên, hay là cái nợ duyên gì ?
Má hồng da tuyết, quyết liều như hoa tàn trăng khuyết.
Vàng lộn theo chì !
Khúc ly ca, sao còn mường tượng nghe gì !
Thấy chim hồng nhạn bay đi, tình lai láng như hoa quỳ …
Dặn một lời Mân Quân, nay chuyện mà như nguyện,
Đặng vài phân, vì lợi cho dân,
Tình đem lại mà cân, đắng cay muôn phần !
Ở Huế còn thấy có nhiều đền miếu tưởng để thờ cúng nàng Huyền Trân nhưng có người
tìm ra những đền miếu nầy thật ra thờ phụng bà chúa Ngọc, hiện thân của thần Uma, vợ
thần Siva, tức là Thiên Y Ana, trừ phi người ta muốn đồng hóa hai bà với nhau. Nhân dân
một phần nào đã trách nàng công chúa họ Trần không biết sống đúng tam cương ngũ
thường là hệ thống Nho giáo một thời chế ngự phong tục nước ta ? Ngày nay hệ thống
đạo đức nầy hết còn được đề cao và không thể quên ơn nàng nên những người yêu Huế
mới xướng lên một phong trào xây dựng tượng đài kỷ niệm nàng công chúa họ Trần.
Riêng trong tờ Nhớ Huế xuất bản ở Thành phố Hồ Chí Minh, từ 2001 đến nay, đặc biệt số
12, đã có trên dưới 10 bài đề cập đến vấn đề nầy. Thật ra, vào thời nhà Trần, việc công
chúa Huyền Trân đẹp duyên với vua Chăm đã được bàn tán xôn xao, mặc dù vị vua ấy
không phải là một người tầm thường. Từ năm 1283, trước cuộc tấn công Champa của
Toa Đô với 5 ngàn quân, 250 chiến thuyền và 100 thuyền biển, sau còn thêm 15 ngàn
quân nữa, thái tử Bổ Đích tức Sri Harijit Po Devada Svor (hay Po Devitathor), sách Tàu
chép Pou Ti, con vua Indravarman V và hoàng hậu Gaurendraksmi, là người có tài thao
lược, được cử ra chỉ huy quân đội kháng chiến. Điều khiển 2 vạn quân Champa, được Đại
Việt yểm trợ ngăn chặn đường bộ quân Nguyên, chàng chống cự lại được quân xâm lăng
trong nhiều năm liền và sau đó quân Nguyên bỏ mộng xâm lược Champa.
Thái tử trở thành anh hùng dân tộc và năm 1288 lên ngôi nối nghiệp cha, lấy hiệu Jaya
Sinhavarman III, từ đấy ta gọi Chế Mân (thay vì Chế Man, Chế phiên âm chữ Sri ra tiếng
Việt, Man là vần cuối tên vua). Năm 1301, trong chuyến vào thăm hữu nghị đất Champa,
sau 9 tháng được đón tiếp nồng hậu, Thượng hoàng Trần Nhân Tông hứa gả cho vua
Chăm một cô con gái của mình. Mặc dầu đã có một vợ cả con một đại vương Java là
Vương phi Bhaskaradevi, một thứ phi con gái một tiểu vương Yavadvipa ở Mã Lai là
"Nữ vương Tapasi", Chế Mân luôn nuôi dưỡng tinh thần thông gia với các nước láng
diềng nên trong 5 năm liền kiên nhẫn đàm phán. Năm 1306, vua Chăm phái Chế Bồ Đày
điều khiển một sứ bộ đem ra Đại Việt sính lễ gồm có vàng, bạc, bảo vật, hương liệu, thú
quý và cốt yếu nhất, ngay ngày cưới, vùng đất Uli. Đặt tinh thần đất nước lên trên tình
cảm gia đình, anh em ruột thịt, vượt qua những lời dị nghị chống đối cuộc hôn nhân dị
chủng, vua Trần Anh Tông nhận lời gả em mình là công chúa Huyền Trân cho vua Chế
Mân (1).
Mặc dầu giao hảo thân thiện bảo đảm một nền hòa bình lâu dài giữa hai nước láng giềng,
mặc dầu uy thế của Chế Mân, nhiều người trong triều đình nhà Trần cũng như trong đám
sĩ phu phản đối cuộc kết giao chính trị nầy. Vàng thau lẫn lộn ! Vàng lộn theo chì ! Từ
- đấy được truyền tụng một câu hát chế nhạo cả Trần Khắc Chung lẫn Chế Mân vì cho "lửa
rơm" cũng chẳng hơn gì "nước đục".
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vò nước đục lại vần lửa rơm.
Có những người nặng óc kỳ thị chủng tộc, cho người Chăm là dân man di không khác gì
những người mọi rợ sống trong rừng và với lời lẽ khiếm nhã than vãn thân phận nàng
công chúa.
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Mặc cho thằng Mán thằng Mường nó leo.
Dù sao, người được đề cao trong những câu hát nầy là công chúa Huyền Trân. Nàng được
ví với hột gạo trắng ngần hay với cây quế là một cây thuốc quý, hương xạ đậm đà không
kém gì mùi trầm.
Cây quế Thiên Thai mọc nơi khe đá
Trầm hương Vạn Giả hương tỏa sơn lâm
Đôi lứa mình đây như quế với trầm
Trời xui gặp gỡ sắt cầm trăm năm.
Quế có nhiều loại mang tên La Tinh chung Cinnamomum, thuộc họ Long não Lauraceae.
Trên thế giới, loại quế đứng đầu thị trường nhờ chất lượng của nó là C. zeylanicum Nees
hay Blume mà ta thường gọi là quế quan, được trồng nhiều ở nước Sri Lanka (tên cũ
Ceylan). Nó cũng còn mang tên C. verum Presl. Ở Việt Nam cũng có nhưng ít, mọc rải
rác ở vùng Bái Thượng (Thanh Hóa), Co Ba (Nghệ Tĩnh), dọc đường Nha Trang đi Ninh
Hòa và ở các vùng ẩm ướt Côn Đảo, Bà Rịa, Tây Ninh. Đứng sau cây nầy là cây quế
Trung Quốc C. cassia Blume hay Presl hay Nees et Berth (người Pháp gọi canelle de
Chine) tức quế nhục, quế đơn, quế bì, ngọc thụ của ta, rou gui của người Tàu. Nó chủ yếu
được trồng ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và mọc rải rác ở Việt Nam. Cây quế mọc
hoang và được trồng nhiều khắp vùng rừng núi nước ta, đặc biệt dọc dãy Trường Sơn, từ
bắc Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh tới Quảng Nam, Quảng Ngãi là cây quế thanh, quế quỳ C.
lourerii Nees (người Pháp có tên canelle d’Annam hay canelle royale) (*). Cây quế nầy ở
nước ta dường như được thưởng thức hơn mấy cây quế kia
Lên non đón gió tìm trầm,
Đốt lò hương xạ em lầm quế thanh.
Trong sách Cây cỏ Việt Nam, Gs Phạm Hoàng Hộ (**) kê hơn 20 cây quế, trong số ấy
thấy được khảo cứu các cây quế rành, quế trèn hay quế lá hẹp C. burmannii, quế lá tà C.
bejolghota, quế bạc C. mairei, quế Cambốt C. cambodianum.
Quế quan hay quế Sri Lanka C. zeylanicum là một loài cây cao 20-25m, có cành non hình
bốn cạnh, lá mọc đối, dài, cứng, hình trái xoan hay thuôn, nhẵn bóng, hoa màu trắng vàng
nhạt, quả mọng hình trứng thuôn. Nó được trồng bằng cách chiết cành, hoặc đào cây non
- mọc hoang trong rừng về nhưng chủ yếu vẫn là gieo hạt, sau 4 năm có thể tiến hành thu
hoạch. Năm 1972, nó cùng 22 cây khác được đem từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa qua
Cộng hòa Dân chủ Đức nghiên cứu tính chất sinh hóa học và sức bền của gỗ, đặc biệt về
cellulose và lignium (3). Thành phần hóa học của cây đã được khảo cứu nhiều chục năm
nay, đăc biệt phát hiện cinnamaldehyd và linalool, eugenol, benzyl benzoat ở vỏ,
terpineol ở rễ, nhưng chỉ gần đây nhờ kết hợp sắc ký khí và phối ký (GC/MS) mới biết
được rõ hơn cấu chất dễ bốc hơi của tinh dầu. (E)-cinnamaldehyd có nhiều nhất ở cành
cùng a-phellandren và limonen. Nó xuất hiện dưới dạng acetat cùng với neryl acetat và b-
caryophyllen ở cuống hoa. (Z)-cinnamaldehyd acetat thì được tìm ra ở nụ và hoa cùng
với a-humulen, d-cadinen, humulen oxyd, a-muurolol, a-cadinol. Còn trái cây thì chứa
đựng nhiều linalool bên cạnh a- và b-pinen, b-caryophyllen, d-cadinen, a-muurolol. Hóa
chất trong tinh dầu chiết xuất từ lá cây thay đổi với nơi cây mọc : a-ylangen, methyl và
ethyl cinnamat ở Sri Lanka, eugenol và benzyl benzoat ở Ấn Độ, a-pinen, a-phellandren,
p-cymen, b-carophyllen, benzyl, cinnamyl và eugenyl acetat ở Trung Hoa. Ở Brazyl, tinh
dầu lá cây chứa đựng (%) 58,7-55,1 eugenol, 29,6-38,5 safrol và dầu vỏ cây 54,7-58,4
cinnamaldehyd.
Về mặt dược liệu, quế Sri Lanka là một cây có tính chất sát trùng (5), rất có hiệu quả
chống những trùng Gram-âm và Gram-dương với 200 và 500 ppm (12). Vỏ cây chống nấm
mạnh hơn lá cây (5). Tinh dầu cây có tác dụng khử nấm, đặc biệt nấm da (9). Dầu vỏ cây
bên Ấn Độ có khả năng khử những nấm Aspergillus niger, A. fumigatus, A. nidulans, A.
flavus, Candida albicans, C. tropicalis, C. pseudotropicalis và Histoplasma capsulatum
gây bệnh trong các ống hô hấp nên có thể dùng hơi dầu để chữa bệnh nấm nầy ; hoạt chất
được xác định là cinnamaldehyd (6). Dầu cây ở Pakistan, ngoài Aspergillus niger, A.
flavus, Candida albicans, còn rất hiệu nghiệm chống những nấm Fusarium oxysporum,
Microsporum canis, Pseudallescheria boydii, Trichophyton mantagrophytes, T. simii (16).
Ở Ghana, dầu đã được dùng để ức chế một số độc tố aflatoxin trên những bao chứa đậu
phụng do các loài nấm như Aspergillus flavus, A. parasiticus, A. niger, A. candidus, A.
tamarii, A. ochraceous, Fusarum spp., Penicillum spp., Mucor sp., Trichoderma sp.,
Rhizopus stolonifer sinh ra (13). Tinh dầu cây vừa sát trùng (10) vừa chống những nấm
trong các bao dự trữ ngũ cốc, làm cho gạo có phần ngon hơn (7), vì vậy nó đã được dùng
làm gia vị và trong mỹ phẩm (4,14). Tinh dầu còn có tính chất chống đau (4), chống oxy hóa
(15)
với hiệu quả 55,94 và 66,9 % khi dùng nồng độ 100 và 200 ppm (11). Bên ta, quế và
tinh dầu quế là những vị thuốc kích thích tiêu hóa, hô hấp và tuần hoàn. Quế có tác dụng
làm co mạch, làm tăng bài tiết, tăng co bóp tử cung, tăng nhu động ruột. Người ta dùng
quế dưới hình thức rượu quế, xi rô hay rượu cất.
- Quế Trung QuốcCinnamomum cassia Presl trích từ cuốn Cây thuốc Việt Nam của Viện
Dược liệu, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 1990, trang 120.
Cinnamomum cassia Presl
Quế đơn, quế bì hay quế Trung Quốc C. cassia là một loài cây có kích thước trung bình
12-17 m, lá mọc so le, dài và cứng, cuống to, hoa mọc thành chùy ở kẽ những lá phía
trên, quả hình trứng, thuôn, phía dưới có đài tồn tại hoặc nguyên hoặc hơi chia thùy
(ĐTL). Phần chiết nước chứa đựng cinzeylanin, cinzeylanon, anhydrocinzeylanin,
anhydrocinzeylanon. Có tính chất suy giảm miễn dịch, nó gồm có coumarin, t-cinnamic
acid, b-sitosterol và protocatechuic acid. Những chất nầy cũng được tìm ra trong cành
cây. Vỏ cành cây chứa cinnamic acid, coumarin, cinnamyl acetat, hydroxy
cinnamaldehyd… bên cạnh thành phần chính (62,4%) cinnamaldehyd. Chất nầy cũng là
thành phần chính của dầu vỏ cây với eugenol, coumarin, t-cinnamic acid, b-sitosterol,
…Quế đơn đem từ Việt Nam qua trồng bên Trung Hoa được kê là C. cassia
macrophyllum : số lượng dầu chiết xuất nói chung vượt hẳn quế bản xứ (%) : 2,0 (so với
1,98) ở vỏ ; 0,36 (so với 0,69) ở cành ; 1,96 (so với 0,37) ở lá ; cinnamaldehyd sản xuất
cũng lớn hơn (%) : 61,20 (so với 52,92) ở vỏ ; 77,34 (so với 64,75) ở lá. Người Trung
Hoa đánh giá quế ta tốt hơn quế họ để sản xuất thuốc chữa bệnh (19).
Về mặt dược liệu, quế Trung Quốc là một thuốc khử nấm (26), chống dị ứng (17), ung
thư dạ dày, tiêu chảy (20), làm đổ mồ hôi (18), kháng những chất gây đột biến benzopyren
và cyclophosphamid (25). Chống oxi hóa, nó kháng lại H2O2 phá hoại tế bào V-79-4 , chất
1,1-diphenyl-2-picryl hydrazyl có tính chất ngăn chận mọi hoạt động của prolyl
endopeptidase với 40 ppm (21), hơn 80% hoạt động của aldose raductase ở chuột với 0,01
mg/mL ; những nhà khảo cứu Hàn Quốc đề nghị dùng nó làm thuốc chữa bệnh đái đường
(27)
. Riêng cinnamaldehyd giảm hạ sự cấu tạo malondialdehyd và hoạt động glutathion S-
transferase ở chuột (24). Vỏ cây có tính chất hạ sốt (22), kháng ung thư (28). Trong liều thuốc
Tàu Duhuojisheng, quế đơn là một trong 15 cây thuốc đã được xác định cùng với hương
- độc hoạt Angelica pubescens và nhân sâm Panax ginseng ; hoạt chất chính được chiết
xuất là columbianetin acetat (23).
Quế thanh, quế quỳ hay quế Thanh Hóa C. loureirii là loài cây cao 12-20m, cành mọc có
bốn cánh, dẹt, nhẵn, lá hơi hình trứng đầu hẹp lại, hơi nhọn, hoa màu trắng mọc thành
chùy ở kẽ lá hay đầu cành, quả hạch hình trứng, lúc đầu xanh lục, khi chín ngả màu nâu
tím, mặt quả bóng (*). Như quế quan, trồng quế thanh có ba cách : gieo hạt, chiết cành
(quế mỏng, kém giá trị) hay bới cây hoang về. Sau 5 năm, có thể bắt đầu thu hoạch
nhưng theo kinh nghiệm, cây quế càng lâu năm (20-30 năm hay lâu hơn) càng tốt. Lúc
trước bên ta quế thanh được xếp thành 4 hạng : quế phiến thuộc hạng tốt nhất, thứ đến
quế tâm thẻ tương đối nhỏ hơn,, sau là quế bao tức quế vụn và sau cùng quế nhọn là vỏ
các cành nhỏ. Theo giáo sư Đỗ Tất Lợi, việc bóc vỏ quế tiến hành vào các tháng 4-5 và
9-10, lúc quế lắm nhựa, dễ bóc, tránh bóc sót lòng bị coi là kém giá trị. Phần vỏ lấy từ
cách mặt đất 0,20-0,40 cm đến 1,20 m gọi là quế hạ căn coi là kém. Từ 1,20 m trở lên
đến chỗ quế chia cành thứ nhất gọi là quế thượng châu được coi là quế tốt nhất. Vỏ bóc ở
những cành quế to gọi là quế thượng biểu. Vỏ bóc ở cành nhỏ gọi là quế chi. Một cây quế
trung bình cho 30 kg quế tốt và 10 kg quế vừa. Tại Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh, quế hái
xong phải đem ủ. Nếu ủ không tốt, quế cũng mất giá trị. Quế được cho ngâm nước một
ngày, rửa sạch, để khô, cho vào sọt với lá chuối khô, đậy kỹ, buộc chặt. Mùa nóng ủ 3
ngày, mùa lạnh 7 ngày. Lúc hơi nước bốc ở quế lên ướt là lúc quế vừa chín. Quế được lấy
ra, lại đem ngâm nước 1 giờ rồi cho ép giữa phên nứa cho đến khô. Từ khi ủ cho đến khi
được quế thường phải 15-16 ngày (mùa nóng) đến 1 tháng (mùa lạnh), có khi 2 tháng tùy
theo cây to, nhỏ. Sau đó quế được quấn vải, cho vào ống kẽm hay hòm gỗ lót kẽm, dưới
có mật ong để giữ độ ẩm vừa, như vậy mới khỏi khô dầu, bảo vệ được hương vị.
Quế Thanh Hóa tương đối ít được nghiên cứu về mặt khoa học. Như các loại quế khác,
chất chiếm phần lớn tinh dầu là t-cinnamaldehyd, những acid mỡ nhiều nhất là (%)
dodecanoic (58,0) và decanoic acid (37,5). Trong vỏ cây có chút ít vitamin B (6,2 ppm),
nhiều tannin là chất tetrahydro flavandiol trùng hợp. Cành cây chứa đựng những sterol :
sitosteol , campesterol, stigmastanol. Chất mỡ chiết xuất từ hột cây (37%) đem kết tinh
trong aceton cống hiến một tinh thể a,a-dilauryl-b-monocarpin. Một công tác khảo cứu
đầy đủ nhất được thực hiện trên rễ, vỏ và gỗ cây. Trong rễ được phát hiện gần 30 hóa
chất : 10 monoterpen, 6 sesquiterpen, 8 chất thơm bên cạnh b-sitosterol, palmitic acid,
stearic acid và những hydrocarbon. Vỏ cây chứa đựng cinnamaldehyd, cinnamic acid, a-
fenchen, a và b-pinen, camphen, linalool, camphor, cinnamyl acetat, coumarin, eugenol,
…Còn trong gỗ cây thì có b-pinen, cineol, a-copaen, linalool, a-terpinol, camphor,
eugenol, … Quế thanh nằm trong số các cây thuốc có tính chất chống u khối (30). Theo tài
liệu cổ, quế có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, hơi có độc, vào hai kinh can và thận. Có tác
dụng bổ mệnh môn tướng hỏa, trị cố lãnh trầm hàn, dùng chữa chân tay co quắp, lưng gối
tê mỏi, bụng quặn đau, kinh nguyệt bế, tiểu tiện bất lợi, trên nóng dưới lạnh, ung thư.
Người âm hư dương thịnh, phụ nữ có thai không dùng được. Đông y coi quế là một vị
thuốc bổ, có nhiều công dụng, có khi chữa cả đau mắt, hoi hen, bồi bổ cho phụ nữ sau
sinh nở, bệnh đau bung đi tả nguy hiểm đến tính mệnh. Tuy nhiên cần thận trọng trong
việc dùng quế (*).
- Quế với trầm là hai tiên nữ trong rừng sâu. Người xưa đã không lầm khi ví công chúa
Huyền Trân với cây quế. Trong cuộc đời long đong, chắc nàng đã hơn một lần khóc thầm
nơi vương triều đất khách hay trong chốn tĩnh mịch chùa chiền. Cuối thế kỷ 18, nhà
ngoại giao Hi Doãn Ngô Thời Nhiệm hình dung những giọt mắt u sầu của nàng đã hóa
thành tiếng mưa đêm mùa xuân trên cành mai cũng là cây quý
Huyền Trân sái tận u sầu lệ
Hóa tác xuân mai dạ vũ thanh.
Vietsciences- Võ Quang Yến
Trích Nghiên cứu và Phát triển 4-5(47-48) (2004) 92-101
Tham khảo
(*)
Đỗ Tất Lợi, Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội
(1986) 850-6
(**)
Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Mekong Printing (1991) 424-37
1- Georges Maspero, Le royaume de Champa, Ecole Française d’Extrême-Orient,
Paris (1988) 177-191
2- Nguyễn Văn Huy, Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam, Thông Luận
(4)(2003) 29 ; (6) (2003) 23
Cinnamomum zeylanicum
3- H. Goetze, G. Schultze-Dewitz, Structure and physicochemical and strength
properties of the wood of tropical southeast Asian tree species, Holztch.
13(3) (1972) 167-72
4- B. Cheng, X. Yu, Cultivation of Ceylon cinnamon and chemical components
of ist essential oil, Zhongcaoyao 14(3) (1983) 134-7
5- P.J. Raharivelomanana, G.P. Terrom, J.P. Bianchini, P. Coulanges, Study of the
antimicrobial action of various essential oils extracted from Malagasy
plants. II : Lauraceae, Arch.Inst. Pasteur Madagascar, 56(1) (1989) 261-71
6- H.B. Singh, M. Srivastava, A.B. Singh, A.K. Srivastava, Cinnamon bark oil, a
potent fungitoxicant against fungi causing respiratory tract mycoses, Allergy
50(12) (1995) 995-9
7- R. Tiwari, V. Dixit, Organoleptic properties of rice treatad with the essential
oil of Cinnamomum zeylanicum, Ind. Perf. 39(2) (1995) 67-9
8- M.B. Gewali, S. Manandhar, S. Thapa, A.H. Banskota, J.K. Shrestha, Studies on
polygalacturonase from Aspergillus niger, J. Nepal Chem. Soc. 16 (1997) 18-22
- 9- M. Mastura, M.A.N. Azah, S. Khozirah, R. Mawardi, A.A. Manaf, Anticandidal and
antidermatophytic activity of Cinnamomum species essential oils, Cytobios
98(387) (1999) 17-23
10- S.C. Chao, D.G. Young, C.J. Oberg, Screening for inhibitory activity of
essential oils on selected bacteria, fungi and viruses, J. Essent. Oil Res. 12(5)
(2000) 639-49
11- G.K. Jayaprakasha, L.J.M. Rao, K.K. Sakariah, Volatile constituents from
Cinnamomum zeylanicum fruits stalks and their antioxidant activities, J.
Agri. Food Chem. 51(15) (2003)4344-8
Cinnamomum verum
12- I.A. El-Kady, S.S.M. El-Maraghy, M.M. Eman, Antibacterial and
antidermatophyte activities of some essential oils from spices, Qatar Univ.
Sci. J. 13(1) (1993) 63-9
13- R.T. Awuah, K.A. Kpodo, High incidence of Aspergillus flavus and
aflatoxins in stored groundnut in Ghana and the use of a microbial assay to
assese the inhibitory effects of plant extracts on aflatoxin synthesis,
Mycopathologia 134(2) (1996) 109-14
14- P.P. Joy, J. Thomas, S. Mathew, Cinnamon (Cinnamomum verum Presl) for
flavor and fragrance, PAFAI J. 20(2) (1998) 37-42
15- J.N. Dhuley, Anti-oxidant effects of cinnamon (Cinnamum verum) bark
and greater cardamon (Amomum subulatum) seeds in rats fed high fat diet,
Ind. J. Exp. Biol. 37(3) (1999) 238-42
16- Atta-Ur-Rahman, M.I. Choudhary, A. Farooq, A. Ahmed, M.Z. Iqbal, B. Demirci,
F. Demerci, K.H.C. Baser, Antifugal activities and essential oil constituents of
some species from Pakistan, J. Chem. Soc. Pakistan 22(1) (2000) 60-5
Cinnamomum cassia
17- T. Nohara, Y. Kashiwada, T. Tomimatsu, I. Nishioka, Studies on the
constituents of Cinnamomum cortex. Part VII. Two novel diterpenes from
bark of Cinnamomum cassia, Phytochem. 21(8) (1982) 2130-2
18- C. Cai, X. Guan, Determination of the soluble calcium contents in two
groups of Chinese traditional drugs, Zhongcaoyao 15(2) (1984) 61-2
19- Z. Zhu, Y. Feng, H. Fang, G. Liu, N. Li, Q. Hu, H. Chen, Y. Wang, Source
utilization of macrophyllous cassia bark tree (Cinnamomum cassia var.
macrophyllum) and its comparison with indigenous cassia bark tree (C.
cassia) of China, Zhongcaoyao 16(7) (1985) 316-20
20- Z.P. Zhu, M.F. Zhang, Y.Q. Shen, G.J. Chen, Pharmacological study on
spleen-stomach warming and analgesic action of Cinnamomum cassia Presl,
Zhongguo zhongyao zazhi 18(9) (1993) 553-7, 514-4
- 21- K.H. Lee, H.J. Lee, H.I. Park, E.O. Hong, K.S. Song, Screening of prolyl
endopeptidase inhibitors from natural products, Yakhak Hoechi 41(2) (1997)
153-60
22- M. Kurokawa, C.A. Kumeda, J.I. Yamamura, T. Kamiyama, K. Shiraki,
Antipyretic activity of cinnamyl derivatives and related compounds in
influenza virus-infected mice, Pharm. 348(1) (1998) 45-51
23- H. Wang, Z. Suixu, L. Zhang, P. Sun, Quality standard of Duhuojisheng oral
solution, Zhongguo Yaoxue Zazhi 34(3) (1999) 185-7
24- J. Choi, K.T. Lee, H. Ka, W.T. Jung, H.J. Park, Constituents of the essential
oil of the Cinnamomum cassia stem bark and the biological properties, Arch.
Pharm. Res. 24(5) (2001) 418-23
25- N. Sharma, P. Trikha, M. Athar, S. Raisuddin, Inhibition of benzo[a]pyrene-
and cyclophosphamide-induced mutagenicity by Cinnamomum cassia, Mut.
Res. 480-1(2001) 179-88
26- H. Sun, Study on antifungal effects of some Chinese medicines and their
essential components, Zhonguo Zhongyao Zazhi 26(2) (2001) 99-102
27- M.K. Kim, S.Y. Kim, H.S. Lee, Rat lens aldose reductase inhibitory activities
of oriental medicinal plants, Agric. Chem. Biotech. 45(2) (2002) 84-8
28- H. Ka, H.J. Park, H.J. Jung, J.W. Choi, K.S. Cho, J. Ha, K.T. Lee,
Cinnamaldehyde induces apoptosis by ROS-mediated mitochondrial
permeability transition in human promyelocytic leukemia HL-60 cells, Cancer
Letters 196(2) (2003) 143-52
29- S.E. Lee, H.J. Hwang, J.S. Ha, H.S. Jeong, J.H. Kim, Screening of medicinal
plant extracts for antioxidant activity, Life Sci. 73(2) (2003) 167-79
Cinnamomum loureirii
30- K. Sakuma, Antitumor health foods from natural products, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP 11279058 A2 19991012 (1999) 9 tr.
nguon tai.lieu . vn