Xem mẫu
- 1
ochLời giới thiệu
Trong nền kinh tế hàng hoá, có nhiều doanh nghiệp, nhiều đơn vị tổ chức kinh tế
hoạt động kinh doanh trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Có ngành tạo ra
sản phẩm hàng hoá cho xã hội như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, có ngành chỉ
làm nhiệm vụ lưu thông phân phối, lại có ngành chỉ làm nhiệm vụ lưu thông phân
phối, lại có ngành chỉ thuần tuý cung cấp dịch vụ (vận tải, bưu chính viễn thông).
Ngân hàng (NH) là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. NH
bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài
chính nói riêng, trong đó NH thương mại (NHTM) thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về
quy mô tài sản,thị phần, số lượng các NH. Hoạt động của NHTM trong lĩnh vực tiền
tệ tín dụng và dịch vụ NH và được coi là một loại định chế tài chính đặc biệt của nền
kinh tế thị trường. Người ta cho rằng NHTM ra đời trong điều kiện nền kinh tế hàng
hoá phát triển tới một trình độ nhất định, đồng thời qua quá trình tồn tại và phát triển
hàng nhiều thế kỷ, hệ thống NHTM ngày càng được hoàn thiện, NHTM trở thành một
trong những định chế không thể thiếu của nền kinh tế thị trường, hoạt động của
NHTM đã và sẽ góp phần to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy
nghiên cứu họat động của NHTM và tác động của nó tới tăng trưởng kinh tế giúp
chúng ta có thể nhìn nhận những đóng góp cũng như những mặt còn yếu kém của hệ
thống NH nói chung và NHTM nói riêng tới nền kinh tế Việt Nam (VN), từ đó đưa ra
những khuyến nghị và giải pháp nhằm đối mặt với những thách thức của quá trình hội
nhập kinh tế thế giới hiện nay.
A. Tổng quan chung về NHTM
I. Định nghĩa:
Đầu tiên NHTM là một loại NH trung gian. Ở mỗi nước có một cách định nghĩa
riêng về NHTM. Ví dụ: Ở Mỹ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các
dịch vụ tài chính và họat động trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: NHTM là những
xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí
thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết
khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản kí thác để
cho vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: NHTM là hội trách nhiệm hữu hạn thiết
lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ công
hối phiếu, chiết khấu hoặc các hình thức vay mượn khác.
Ở VN Pháp lệnh NH ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước VN xác định: NHTM
là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi
từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Như vậy, NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có những đặc thù riêng trong
hoạt động kinh tế - tài chính. NHTM có đặc điểm giống như các doanh nghiệp khác
trong nền kinh tế, cũng sử dụng các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao động,
đối tượng lao động (tiền vốn) làm yếu tố đầu vào, để sản xuất ra những yếu tố đầu
ra dưới hình thức dịch vụ tài chính mà khách hàng yêu cầu.
II. Vị trí, vai trò của NHTM trong hệ thống tài chính cũng như trong nền kinh
tế nói chung đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa
1. Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế
- 2
Nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền, khoản tiền đó chưa được sử dụng một
cách triệt để và họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình từ đó nảy sinh nhu cầu cho
vay vốn, bên cạnh đó tồn tại những chủ thể cần vốn để thực hiện họat động kinh
doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng
nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. NHTM với vai trò trung gian của mình, nhận
tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay
vay.
Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của
nền kinh tế để sản xuất kinh doanh.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái
phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao
mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty.
2.Chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán:
NHTM làm trung gian thanh toán trên cơ sở những hoạt động đi vay để cho vay.
Khi làm trung gian thanh toán, NHTM mở tài khoản tiền gửi, nhận vốn tiền gửi vào tài
khoản và thanh toán theo yêu cầu khách hàng. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các
khoản chi trên tài sản của khách hàng là tiền đề để NH thực hiện chức năng này. NH
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và
nhập vào tài khoản tiền gửi, tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo yêu cầu
khách hàng.
Chức năng thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế:
+ Khi làm trung gian thanh toán, NH tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền
quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) như vậy mọi công việc
thanh toán của xã hội tập trung vào NH, nên việc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ trở
nên thuận tiện, nhanh chóng an toàn và tiết kiệm chi phí, do đó góp phần tăng tốc độ
lưu thông hàng hoá, luân chuyển vốn và tái sản xuất xã hội.
+ Do thực hiện chức năng này, NH có điều kiện huy động tiền gửi cho khách hàng
tới mức tối đa, mở rộng cho vay và đầu tư, đẩy mạnh hoạt động của NH, đồng thời
NH còn góp phần giám sát kĩ luật hợp đồng kinh tế, tài chính và thanh toán theo đúng
quy định của pháp luật.
3. Chức năng tạo tiền:
Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, NHTM có khả năng tạo
ra tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, NH sử dụng số
tiền vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để
thanh toán chuyển khoản cho khách hàng ở NH khác và chỉ thực hiện nghiệp vụ cho
vay NH mới bắt đầu tạo tiền. Vậy là từ một tài khoản tiền gửi ban đầu, thông qua cho
vay bằng chuyển khoản trong hệ thống NHTM, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với
lượng tiền ban đầu.
Khối lượng tiền do NHTM tạo ra có ý nghĩa lớn, tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của quá trình sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của
xã hội.
B. Hoạt động của NHTM
I.Các loại hình NHTM ở VN:
1.Chia theo hình thức sở hữu và góp vốn:
- 3
- NHTM NN: là NHTM thuộc sở hữu của Nhà nước, được thành lập bởi 100% vốn
ngân sách nhà nước cấp
- NHTM CP: Là NHTM được thành lập dưới hình thức một công ty cổ phần , vốn
của nó được huy động thông qua phát hành các cổ phiếu
- NHTM liên doanh: Là NHTM được thành lập dưới hình thức góp vốn liên doanh
giữa các đối tác sở hữu khác nhau
- Chi nhánh NHTM nước ngoài là NHTM được thành lập theo pháp luật và thuộc
sở hữu của nước ngoài, được chính phủ VN cấp giấy phép hoạt động và tuân thủ theo
pháp luật của VN
- NHTM 100% vốn nước ngoài
2.Chia theo tính chất hoạt động:
-Hoạt động chuyên doanh và đa năng:
+NHTM chuyên doanh): chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ NH. VD: chỉ cho
vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp…
+NHTM đa năng: là NH cung cấp mọi dịch vụ NH cho mọi đối tượng.. Đây là xu
hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các NHTM
-Hoạt động bán buôn và NH bán lẻ:
+ Hoạt động NH bán buôn: Cung cấp các dịch vụ cho các NH, các công ty tài chính,
cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn
+ Hoạt động NH bán lẻ: Cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho các doanh nghiệp, hộ
gia đình, các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ
Hệ thống NHTM tại VN hiện nay: 5 NHTM Nhà nước,(NH Ngoại thương chuyển
sang mô hình cổ phần), 1 NH chính sách xã hội, 6 NH liên doanh, 38 NHTMCP, 47 chi
nhánh NH nước ngoài.
II. Hoạt động kinh doanh của NHTM
1. Mục tiêu hoạt động: Các NHTM hoạt động đều nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận, an toàn kinh doanh và không ngừng gia tăng doanh thu.
2. Đặc thù hoạt động nói chung:
* Vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng thời
cũng là đối tựơng kinh doanh của NHTM.
* NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn tự có của NHTM
chiếm một tỷ lệ rất thấp.
* Hoạt động kinh doanh của NHTM có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực
hoạt động và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau.
* Hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động chứa nhiều rủi ro, bởi lẽ nó tổng
hợp tất cả các rủi ro của khách hàng, đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh doanh NH
có thể gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế hơn bất kỳ rủi ro của loại hình doanh
nghiệp nào vì tính chất lây lan có thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế
* Hoạt động kinh doanh của NHTM diễn tiến liên tục trong mỗi loại hình nghiệp
vụ và các sản phẩm của NHTM có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ.
* Cấu trúc tài chính của NHTM: Cấu trúc tài chính của NH phản ảnh cấu trúc tài
sản, cấu trúc nguồn vốn và cả mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn của NH.
3. Các hoạt động chính (nghiệp vụ) của NHTM:
3.1 Nghiệp vụ huy động vốn ( nghiệp vụ nợ)
- 4
Những khoản mục nguồn vốn do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên bản tổng
kết của NHTM sẽ nằm bên tài sản nợ. Đây chính là nghiệp vụ khởi đầu cho sự hoạt
động của NH.
a. Vốn pháp định (vốn chủ sở hữu, vốn tự có):
Là số vốn đầu tư ban đầu khi thành lập NH và ghi trong điều lệ hoạt động.
Để bắt đầu hoạt động chủ NH phải có 1 lượng vốn nhất định, ít nhất phải bằng
mức vốn pháp định do NHTW công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Nguồn vốn này là
điểm xuất phát để tổ chức hoạt động của NH, là yếu tố quan trọng bảo đảm các
khoản nợ. Vốn pháp định thành lập NHTM nhà nước là 3000 tỷ đồng, các loại hình
NHTM khác là 1000 tỷ đồng, cho đến năm 2010 là 3000 tỷ đồng. Nguồn hình thành và
nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ thuộc vào loại hình sở hữu, năng
lực tài chính của NH. Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước thì nguồn vốn hình thành
ban đầu là do Ngân sách nhà nước cấp 100%, nếu là NHTM CP, các cổ đông đóng góp
thông qua hình thức phát hành và mua cổ phần và cổ phiếu. Nếu NH liên doanh thì vốn
pháp định là vốn đóng góp cổ phần của liên doanh.
Nguồn vốn này còn phụ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động của NH. Vốn tự
có càng lớn, sức chịu đựng của NH càng lớn khi tình hình thị trường có biến động bất
ngờ. Tuy nhiên vốn điều lệ không phải càng lớn càng tốt vì nếu như vậy mức lợi
nhuận chia cho các cổ đông sẽ càng thấp.
Không được dùng vốn điều lệ để chia lợi tức, lập quỹ phúc lợi khen thưởng, mà
chỉ được dùng để mua sắm bất động sản, trang thiết bị, dự trữ, kí quỹ tại NHTW
hoặc đầu tư vào một thương vụ nào đó.
Trong quá trình hoạt động, NH gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức như:
nguồn từ lợi nhuận, nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…
để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hay đáp ứng yêu cầu
gia tăng thêm vốn chủ của NH do NHTW yêu cầu.
b. Nghiệp vụ đi vay của NHTM
* Vay Ngân hàng nhà nước (NHNN,NHTW): đây là khoản vay cấp bách trong chi
trả của NHTM . Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (tái cấp vốn)
và thế chấp có ứng trước có bảo đảm hoặc không bảo đảm. Các thương phiếu đã
được các NHTM chiết khấu hoặc tái chiết khấu trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền
các NHTM mang thương phiếu này đến tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ vay làm
cho thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hay tiền gửi tại NHNN)
tăng lên. Rõ rang tiền đã đi vào lưu thông bằng con đường các NHTM chuyển đổi hối
phiếu và trái phiếu lên NHTW và bị chiết khấu phần lãi phải trả cho khoản nợ vay.
Trong trường hợp chưa có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái
cấp vốn theo mức tín dụng nhất định. NHTW điều chỉnh lượng vay tiền của các
NHTM thông qua điều chỉnh lãi suất chiết khấu ( tùy vào chính sách nới lỏng cung ứng
hoặc thắt chặt cung ứng tiền tệ)
* Vay các NHTM khác: hoặc dự trữ của NHTW: Các NHTM phải ký gửi các
khỏan tiền mặt nhất định tại kho của NHTW( khoản tiền không sinh lời, còn được gọi
là dự trữ bắt buộc). Khi NH (A) thiếu hụt dự trữ hoặc buộc phải đảm bảo khả năng
thanh khoản gấp thì nó sẽ vay của NH (B) thừa dự trữ. Khoản tiền này sẽ được
chuyển từ phần dự trữ thuộc sở hữu của NH (B) tại NHTW địa phương sang bên
NH(A). Đây là nguồn cho vay sinh lãi. Thông thường các khoản vay này là các khoản
nợ ngắn, dưới 1 tuần.
- 5
Các NHTM còn có thể huy động vốn tiếp nhận- vốn mà NHTM nhận ủy thác từ
các tổ chức trong hoặc ngoài nước, từ Ngân sách nhà nước để cho vay trung, dài hạn
thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước.
* Vay trên thị trường tiền tệ: Giống như các doanh nghiệp khác, các NH cũng
vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ: kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu…trên thị
trường vốn.
Khả năng huy động vốn của hình thức này tùy thuộc vào: mức độ chấp nhận của
thị trường với nó như một phương tiện thanh toán trong lưu thông, sự khuyến khích
hay không của NHTW và hiệu quả của việc sử dụng vốn vay được.
* Vay từ công ty mẹ: thay vì phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ thì các công ty mẹ
của NH sẽ thay thế làm việc đó dưới hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty.
NH sẽ không phải chịu rang buộc về dự trữ, lãi suất và thủ tục. Tức là ở đây, công ty
mẹ vay của thị trường rồi NH sẽ vay của công ty mẹ.
c. Nghiệp vụ ký thác:
Ký thác là tiền của NH nhận của khách hàng bất luận dù phải trả lãi hay không với
quyền sử dụng tiền đó cho họat động kinh doanh của mình và bổn phận làm nghĩa vụ
ngân quỹ cho người ký gửi , đặc biệt phải có trách nhiệm hoàn vốn theo quy định.
Hình thức ký thác sơ khai ban đầu là bảo quản tiền vàng.
Khách hàng ký thác tại NH vì 2 mục đích chính: để hưởng các lợi ích của các
phương tiện mà NH cung cấp cho họ và hưởng lãi suất.
Tiền gửi khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng nguồn tiền của NHTM. Để có thể gia tăng tiền gửi trong môi
trường cạnh tranh, và nguồn tiền gửi ngày càng có chất lượng cao, các NHTM đã đưa
ra và thực hiện nhiều hình thức huy động vốn khác nhau.
*Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào
NH để NH thực hiện chức năng trung gian thanh toán, tức là người gửi có quyền rút ra
bất cứ lúc nào họ muốn. Nó tạo ra khả năng tiện lợi giúp cho khách hàng không phải
thanh toán bằng tiền mặt mà thay vào đó là thanh toán bằng séc. Lãi suất của khoản
tiền này rất thấp hoặc bằng không, thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các
dịch vụ NH với mức phí thấp. Các NH có thể kết hợp tài khoản tiền gửi từ nhân dân
( tài khỏan séc), hoặc tài khoản tiền gửi từ thương nhân- tài khoản vãng lai (chi trội
trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán).
*Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Nhiều khoản thu
bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian
xác định. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền , NH đã đưa ra hình thức
gửi tiền có kì hạn. Người gửi tiền không được sử dụng các hình thức thanh toán đối
với tiền gửi thanh toán để áp dụng với tiền gửi loại này. Khi cần chi tiêu, người gửi
phải đến NH để rút tiền ra. Tiền gửi có kỳ hạn phụ thuộc vào lãi suất của NHTM, lãi
suất các loại hình khác và thu nhập của người dân. Tuy không thuận lợi bằng tiền gửi
thanh toán nhưng tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của
kì hạn.
*Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập
tạm thời nhàn rỗi. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với NH họ đều có thể gửi
tiết kiệm nhằm thực hiện mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm.
Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các NH đều cố gắng khuyến khích dân
- 6
cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy
động hay đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh .
Ví dụ : NH có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều sổ tiết kiệm cho mỗi lần
gửi, mỗi kì hạn khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và
dịch vụ được nhưng có thể dùng để thế chấp vay vốn nếu NH chấp nhận.
* Tiền gửi của các NH khác:
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể
gửi tiền tại NHTM khác.
3.2. Nghiệp vụ quản trị và sử dụng vốn:
a. Nghiệp vụ thanh khoản - vốn ngân quỹ
NHTM luôn dự trữ một phần tài sản dưới hình thức dự trữ gồm tiền mặt và số dư
trên tài khoản ở NHTƯ. Số tiền này được dự trữ với hai mục đích:
* Do pháp định: là số tiền nằm trong kho của NHTƯ dưới dang dự trữ của
NHTM. Các điều kiện chung về dự trữ pháp định được áp dụng cho tất cả các tổ chức
nhận tiền gửi và cho tất cả các tài khoản giao dịch. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ do
NHTƯ quy định nhằm nâng cao khả năng kiểm soát chính sách tiền tệ của nhà nước.
* Đáp ứng nhu cầu giao dịch: là phần dự trũ dôi thừa nhằm ứng phó với các yêu
cầu rút tiền của khách hàng. Mặc dù vậy,nhu cầu dự trữ tiền mặt của các NH thường
khác nhau, tuỳ thuộc vào tỷ lệ sử dụng tiền mặt và sự biến động trong nền kinh tế.
Trong trường hợp không có tiền mặt trả cho khách hàng, NH sẽ fải huy động phương
án thay thế như vay của NHTƯ, vay của NHTM khác, bán trái khoán chưa đến hạn
thanh toán…. tất cả những nghiệp vụ này nếu xảy ra có thể sẽ phát sinh chi phí khá
lớn. Dự trữ dôi thừa là sự bảo đảm chống lại những chi phí phát sinh do luồng tiên
thoát ra. Chí phí phát sinh càng lớn,NH sẽ càng có xu hướng tăng tỷ lệ dự trữ dôi thừa.
b. Nghiệp vụ cho vay – tín dụng.
* Dựa vào mục đích sử dụng vốn vay: các đổi tượng của tín dụng được phân
chia làm 5 loại: thương mại & công nghiệp, bất động sản, tiêu dùng, liên ngân hàng,
các mục đích khác.
Năm 2007, thị trường NH chứng kiến sự bùng nổ về tăng trưởng tín dụng (tăng
51.39%) trong đó tăng trưởng mạnh ở các nghiệp vụ cho vay đầu tư bất động sản,
chứng khoán, và tín dụng tiêu dùng. Bước sang đầu năm 2008, đây là nghiệp vụ chính
bị siết chặt. Chính sách thắt chặt tiền tệ và khó khăn trong thanh khoản là nguyên nhân
đầu tiên khiến nhiều NH buộc phải đóng của trong nghiệp vụ này. Bên cạnh đó, sự
sụt giảm mạnh và nhanh của thị trường chứng khoán, bất động sản dẫn đến nguy cơ
rủi ro tin dụng, các NH thận trong, lãi suất cho vay quá cao cũng là rào cản. Tuy nhiên
vào cuối năm 2008, trong bối cảnh giảm phát, giá cả các mặt hàng được kiềm chế ở
mức tối đa, sức mua của người dân cũng giảm, và đặc biệt, quy định về mức tín dụng
30% của NHTW vẫn là một khoảng cách khá xa, khối NHTM, cổ phần đã chu tâm trở
lại với hoạt động cho vay tiêu dùng.
* Dựa vào thế chấp: có thể chia làm 2 loại cho vay có bảo đảm và không có bảo
đảm. Cho vay bảo đảm thể hiện việc cho vay có cầm cố xe cộ hoặc 1 hình thức nào
đó về tài sản cá nhân. Yêu cầu chung của những tài sản này là phải bán được, nhằm
tạo điều kiện cho người cho vay giảm bớt rủi ro trong trường hợp người đi vay mất
khả năng thanh toán. Ngược lại, cho vay ko bảo đảm chủ yếu dựa vào sự trong sạch
và tình hình tài chính của người vay, lợi tức có thể trong tương lai, và tình hình trả nợ
trước đây.
- 7
* Dựa vào kỳ hạn: có thể chia các khoản vay theo ngắn, trung và dài hạn. Ngắn
hạn có thể là 1 năm hoặc ít hơn, trung hạn là dưới 5 năm và dài hạn là lớn hơn 5 năm
(đối với 1 số nước phát triển thì khoảng thời gian này là 10 năm). Tuy nhiên sự phân
chia về thời gian cũng chỉ mang tính chất tương đối, do bị ảnh hưởng bởi tính chất các
khoản vay.
- Cho vay ngắn hạn có những hình thức sau:
+Cho vay bổ sung vốn lưu động thiếu
Trong quá trình sản xuất cho vay, nếu khách hàng phát sinh nhu cầu bổ sung vốn
lao động thì NH sẽ giải quyết cho vay. Tiền vay phát sinh theo đúng đối tượng theo
phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng. NH quyết định cho vay dựa vào việc
phân tích đánh giá các chỉ tiêu:Nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so
với giá trị tài sản làm đảm bảo tiền vay theo quy định của chính phủ và hướng dẫn
của NH trung ương, khả năng nguồn vốn của khách hàng, khả năng trả nợ của khách
hàng, giới hạn cho vay tối đa của NH đối với một khách hàng .
Mặt khác, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản làm đảm bảo( mức vay tối đa
không vượt quá 70% giá trị cầm cố hay tài sản thế chấp).
+Bảo lãnh
Là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền
lợi nếu người được bảo lãnh không thực hiện đúng và đủ những cam kết đối với bên
yêu cầu bảo lãnh.
NHTW phải xác định được hai chỉ tiêu chủ yếu là mức tiền bảo lãnh và thời hạn
bảo lãnh( mức tiền bảo lãnh tối đa không quá 20lần số tiền của quỹ bảo lãnh, thời
hạn bảo lãnh được xác định căn cứ vào thời hạn thực hiệntừng nghĩa vụ đã được các
bên tham gia thoả thuận phải được bên bảo lãnh chấp thuận bằng văn bản).
+Cho vay chiết khấu chứng từ có giá
Là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức chuyển
nhượng quyền sở hữu chứng từ( kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, thương phiếu…) cho
NH để nhận một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi mức triết khấu,
Mức chiết khấu: Mức chiết khấu bằng 80%-120% mức sinh lời của chứng từ
chiết khấu, trong phạm vi thời hạn hiệu lực còn lại của chứng từ. Trường hợp chứng
từ không ghi rõ lãi xuất, thì NH lấy lãi xuất cảu chứng tứ tại thời điểm xin chiết khấu
để xác định mức sinh lời của chứng từ.
Thời hạn chiết khấu tối đa không vượt quá 90 ngày.
Là một nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động nhằm cân đối ngân quỹ
hàng ngày trên tài khoản vãng lai của khách hàng.
-Cho vay trung và dài hạn:
+ Tiền vay được chuyển trả trực tiếp cho đơn vị cung cấp vật tư, hàng hoá hoặc
dịch vụ cho khách hàng
+ Trường hợp khách hàng vay đã dùng nguồn vốn khác để trả cho người cung cấp
hoặc nếu người cung cấp không có tài khoản tại NH thì chuyển vào tài khoản tiền gửi
của khách hàng.
+ Phát bằng ngân phiếu hoặc tiền mặt cho khách hàng
*Dựa theo phương pháp hoàn trả: các khoản cho vay của NH có thể được hoàn
trả 1 lần (yêu cầu hoàn trả toàn bộ vào thời gian đáo hạn cuối cùng) hoặc trả góp
(theo nguyên tắc trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng), được quy định rõ
trong hợp đồng tín dụng.
- 8
*Dựa vào hình thức cho vay: các khoản mục cho vay của NHTM bắt nguồn từ 4
dạng chủ yếu:
-Trực tiếp từ người vay.
-Thông qua mua trái phiếu công ty.
-Mua lại chứng chỉ tiền gửi từ NH khác.
-Mua trái khoán từ những người bán thương phiếu.
Trong đó kênh quan trọng nhất vẫn là trực tiếp với người xin vay. Nhưng trong bối
cảnh thi trường các công cụ phái sinh ngày càng phát triển, VN hứa hẹn sẽ có sự bùng
nổ trong các hình thức vay nợ ngoài phương pháp truyền thống
*Các quy định về cho vay – chính sách tín dụng:
Việc NH cho vay được thực hiện theo các quy định chặt chẽ, xuất phát từ lí do
chính là sự an toàn của các NH, và xa hơn là sự vận hành của cả nền kinh tế. Chính vì
việc cho vay của NHTM có ảnh hưởng rất lớn, NHTƯ có đề ra 1 số quy định trong
việc giới hạn rủỉ ro của hoạt động cho vay cũng như đề ra việc giám sát thường xuyên
với các hoạt động NHTM.
Về cá nhân các NHTM, tuy mục tiêu cuối cùng vẫn là lợi nhuận, nhưng chính sách
tín dụng vẫn được quan tâm xây dựng đặc biệt,nhằm giảm thiểu ruit ro có thể xảy
ra,và được xem xét với nhiều yếu tố, hầu hết trong số đó giống nhau quyết định đến
quy mô và thành phần của khoản đầu tư của HN, có thể kể ra : tình hình vốn, khả
năng sinh lời, tính ổn định của các khoản kí thác, các đk kinh tế, khả năng của đội ngủ
nhân viên NH…
Tuy nhiên hoạt động cho vay tiêu dùng vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu
vay tiêu dùng của người dân. Tính trung bình mức dư nợ vay tiêu dùng theo đầu người
chỉ đạt khoảng 921.000 đồng/người- một con số thấp hơn nhiều so với tiềm năng thị
trường của đất nước co 86.5 triệu dân và có mức tăng trưởng kinh tế khá cao như VN.
Trong bối cảnh suy giảm kinh tế, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng các NH
đồng loạt giảm lãi suất cho vay, nhưng không đồng nghĩa với việc nới lỏng các
nghiệp vụ tín dụng để phát sinh nợ xấu mà không tạo ra động lực phát triển mới.Các
NH chỉ cho các doanh nghiệp có dự án tốt khả thi chứ không thể có chuyện mệnh lệnh
hành chính mà cho vay. Theo số liệu từ 34 NH gửi về NHTW, trong số hồ sơ gửi về
NHTM đã được chấp nhận cho vay là 90% còn 10% là bị từ chối. Nó tạo ra một thực
tế khiến nhiều NH thừa vốn nhưng không thể cho vay trong khi doanh nghiệp có nhu
cầu lại không vay được.
c. Đâu tư trên thị trường chứng khoán
̀
̉
*Tông quan
Như chung ta đã biêt chức năng cơ ban cua NHTM là môt trung gian tai chinh lam
́ ́ ̉ ̉ ̣ ̀ ́ ̀
nhiêm vụ huy đông nguôn vôn nhan rôi trong cac tổ chức kinh tê, đoan thê, tiên tiêt kiêm
̣ ̣ ̀ ́ ̀ ̃ ́ ́ ̀ ̉ ̀ ́ ̣
cua dân cư.. và sử dung nó để đap ứng nhu câu vôn cua nên kinh tê. Tuy vây ko phai tât
̉ ̣ ́ ̀ ́ ̉ ̀ ́ ̣ ̉ ́
cả nguôn vôn cua cac ngân hang đêu đâu tư vao cac khoan tin dung vì môt số lý do:
̀ ́ ̉ ́ ̀ ̀ ̀ ̀ ́ ̉ ́ ̣ ̣
- Không dễ dàng bán chúng trước khi đáo hạn một khi NH cần tiền khẩn cấp.
- Những khoản vay là loại tài sản có nhiều rủi ro nhất của NH, chứa đựng trong đó
khả năng vỡ nợ của người đi vay cao nhất so với bất kỳ loại đầu tư nào khác của NH.
- Đối với các NH có qui mô vừa và nhỏ, phần lớn các NH này sử dụng nguồn vốn
kinh doanh của mình để cấp tín dụng cho các khách hàng đang hoạt động trong nền
kinh tế. Do đó, với bất cứ sự suy thoái nào trong hoạt động của nền kinh tế cũng sẽ
- 9
làm suy giảm đáng kể chất lượng những khoản tín dụng cấp ra và nhất định ảnh
hưởng nghiêm trọng đến thu nhập của NH.
Chinh vì vây, cac ngân hang đã tim cach để sử dung nguôn vôn cua minh (thông
́ ̣ ́ ̀ ̀ ́ ̣ ̀ ́ ̉ ́
thường là khoang môt phân ba) cho cac hoat đông đâu tư sinh lời khac như chứng
̉ ̣ ̀ ́ ̣ ̣ ̀ ́
khoan, bao gôm cac loai chứng khoan do chinh phủ và chứng khoan do cac công ty phat
́ ̀ ́ ̣ ́ ́ ́ ́ ́
hanh, chứng khoan trong thị trường vôn (>1 năm), chứng khoan trong thị trường tiên tệ
̀ ́ ́ ́ ̀
(
- 10
Đây là rủi ro mà người phát hành chứng khoán không thể hoàn trả được vốn gốc
và tiền lãi đối với các trái phiếu và giấy nợ đã phát hành.
Do tín dụng thể hiện trên nhiều loại chứng khoán khác nhau, nhất là những chứng
khoán mà người phát hành là các công ty tư nhân và chính quyền địa phương, nên lĩnh
vực đầu tư này được qui định khá chặt chẽ, nhằm hạn chế việc dự trữ những chứng
khoán mang tính rủi ro cao trong các NH. Nói chung các NH chỉ được phép mua các
chứng khoán có rủi ro thấp để ngăn ngừa NH tiếp nhận rủi ro quá mức và bảo vệ
quyền lợi cho người gửi tiền.
̉ ̣
-Rui ro lam phat : ́
Rủi ro lạm phát là rủi ro về khả năng tăng giá phổ biến của các loại hàng hoá và
dịch vụ và dẫn đến hậu quả làm giảm giá trị của các tài sản tài chính. Các NH thường
xuyên cảnh giác với khả năng sức mua của thu nhập lãi và vốn gốc thu lại từ đầu tư
chứng khoán và cho vay bị suy giảm do tác động của lạm phát, mặc dù ngày nay vấn
đề này ít nghiêm trọng hơn so với những thập niên trước đây. Lạm phát cũng có thể
làm hao mòn giá trị đầu tư của các cổ đông tại một NH. Bằng cách đầu tư vào các
chứng khoán ngắn hạn và có lãi suất thả nổi, các NH có thể giảm thiểu tác động bất
lợi của lạm phát đối với tài sản đầu tư và đem lại cho NH một sự năng động lớn hơn
trong việc đáp ứng với mọi sức ép lạm phát.
̉
-Rui ro kinh doanh:
Các NH thuộc mọi qui mô đều phải đối mặt với một loại rủi ro gắn liền với suy
thoái kinh tế của khu vực thị trường họ đang phục vụ. Những xu hướng tiêu cực này
thường được gọi là rủi ro kinh doanh. Điều này thường được biểu hiện bởi sự giảm
sút doanh số bán hàng, gia tăng các vụ phá sản và tình trạng sa thải nhân công hàng
loạt của nhiều doanh nghiệp trong khu vực. Những trạng thái tiêu cực này tất yếu ảnh
hưởng nhanh chóng đến danh mục cho vay của NH. Ơ đây, nhiều khoản vay không có
khả năng hoàn trả sẽ xuất hiện một khi người vay đã phải tận lực để tạo ra đủ lưu
lượng tiền để hoàn trả nợ cho NH.
Bởi vì rủi ro kinh doanh luôn hiện hữu, nhiều NH dựa vào danh mục đầu tư chứng
khoán của họ để bù trừ cho tác động của rủi ro kinh tế đối với danh mục cho vay.
Điều này thường có nghĩa là, NH sẽ mua nhiều chứng khoán của nhiều doanh nghiệp
nằm ngoài khu vực thị trường cho vay hiện thời của NH nhằm mục đích cân bằng với
rủi ro tác động lên trên các khoản vay.
-Rui ro về tinh thanh khoan:
̉ ́ ̉
Theo định nghĩa, chứng khoán có tính thanh khoản là những chứng khoán có sẵn thị
trường cho việc bán lại một cách dễ dàng, giá cả tương đối ổn định theo thời gian, và
khả năng cao để phục hồi nguồn vốn đã đầu tư nguyên thuỷ của NH (rủi ro đối với
vốn gốc là thấp). Khi lựa chọn chứng khoán để đầu tư, NH dứt khoát phải xem xét
đến khả năng cần phải bán lại trước khi chúng đáo hạn để tái tạo nguồn vốn đầu tư
ban đầu. Nếu khả năng tái tạo kém, nghĩa là chứng khoán khó tìm được người mua
hoặc phải bán mất giá, NH sẽ gánh chịu những tổn thất tài chính lớn trong những
trường hợp như vậy. Và điều này được gọi là rủi ro thanh khoản trong đầu tư chứng
khoán của NH.
Nghiêp vụ đâu tư chứng khoan năm môt vai trò rât quan trong trong hệ thông ngân
̣ ̀ ́ ́ ̣ ́ ̣ ́
hang. Tuy nhiên nó cung chứa đựng môt tỉ lệ rui ro khá cao nhât là trong linh vực đâu tư
̀ ̃ ̣ ̉ ́ ̃ ̀
CK vôn trực tiêp (cổ phiếu do các tổ chức tài chính khác phát hành). Sau năm 2007 là
́ ́
năm nở rộ cua thị trường CK, sang đên năm 2008, thị trường nay băt đâu tuôt dôc không
̉ ́ ̀ ́ ̀ ̣ ́
- 11
phanh. Con số hang nghin tỷ đâu tư cho CK đã đưa đên môt khoan thua lỗ không lồ cho
̀ ̀ ̀ ́ ̣ ̉ ̉
cac NHTM. Chinh vì vây hoat đông nay cân có sự giam sat chăt chẽ từ phia cac cơ quan
́ ́ ̣ ̣ ̣ ̀ ̀ ́ ́ ̣ ́ ́
quan lý và cụ thể ở đây là Ngân hang nhà nước VN để tranh thị trường tăng trưởng quá
̉ ̀ ́
nong và rui ro cho chinh cac NHTM..
́ ̉ ́ ́
3.3 Cung câp dich vụ cho khach hang
́ ̣ ́ ̀
b. Cung câp dich vụ cho khach hang
́ ̣ ́ ̀
NH là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch
vụ quản lý cho công chúng. Thành công của NH hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực
trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ
đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá cạnh tranh. Vậy ngày nay xã
hội đòi hỏi những dịch vụ gì từ phía các NH?
*Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ
NH đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà NH đứng ra mua, bán một
loại tiền này. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy
thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố
họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các NH
lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời
yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
* Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các
NH đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa
phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho NH để
lấy tiền mặt. Đó là bược chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay trực tiếp
đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng
và thiết bị sản xuất. Các giấy chứng nhận do NH ký phát cho khách hàng (ghi nhận về
các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu
tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách
hàng thường do phòng “Bảo quản” của NH thực hiện.
* Cung cấp các tai khoản giao dịch: một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi
̀
tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khỏan
tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công
nghiệp NH bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các
giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
* Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các NH đã thực hiện việc quản
lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại.
Theo đó NH sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý. Chức năng
quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác. Hầu hết các NH đều cung cấp cả hai
loại: dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình; và ủy thác thương mại
cho các doanh nghiệp.
Những dịch vụ NH mới phát triển gần đây
* Cho vay tiêu dùng hầu hết các NH không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ
gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ
với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp.Sự
chững lại của nền kinh tế đang ít nhiều ảnh hưởng đến thu nhập của người dân và
ngược lại sức mua của người tiêu dùng giảm thì khó vực dậy được nền kinh tế. Chính
vì vậy Chính phủ đã đưa ra chủ trương kích cầu nội địa, một trong những biện pháp
kích cầu là các NHTM thực hiện các chương trình cho vay tiêu dùng, với mức lãi suất
- 12
15% một năm. Đối với không ít người dân có nhu cầu mua sắm thật sự thì đây được
coi là một cơ hội không nên bỏ qua.
* Tư vấn tài chính: Các NH từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt
động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. NH ngày nay cung cấp nhiều
dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá
nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách
hàng kinh doanh của họ.
* Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các NH đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ
mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví
dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó NH đồng ý quản lý việc thu và
chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời
vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền
mặt để thanh toán.
* Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài chính
hiện nay, nhiều NH đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự,
cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một
địa điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các NH bắt đầu bán các dịch vụ
môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.
C. Tác động tới tăng trưởng kinh tế:
Sự phát triển ngày càng lớn mạnh cả về nội dùng và chất lượng của hệ thống
NHTM trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay đã có tác động lớn, thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, hiện thực hóa nhanh nhất các chính sách tài
chính, tiền tệ góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế , bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc
làm ổn định cho người lao động, tạo tiền đề cho quá trình mở cửa và hội nhập. Nhờ
vào hoạt động của hệ thống NH mà nhu cầu sử dụng vốn để duy trì và mở rộng quy
mô sản xuất của các thành phần kinh tế được đáp ứng, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh diễn ra một cách nhanh chóng và hiệu quả.
I. Tác động tích cực:
1. NHTM góp phần thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh :
Trên giác độ các yếu tố đầu vào, một nền kinh tế đạt được tăng trưởng dựa chủ
yếu vào 3 nhân tố chính: vốn, lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp.
Theo số liệu cho thấy: Tăng trưởng kinh tế ở VN đạt: 2008: 6,23%; dự kiến 2009
là 6,5%. Để có được tốc độ tăng tưởng kinh tế cao như vậy là nhờ VN đã huy động
được lượng vốn đầu tư khá lớn, mà trong đó vốn huy động bởi hệ thống NHTM là
đáng kể.
NHTM là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của NH đó là huy động
vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi
nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu,nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn)
của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của
một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Ở VN, hiện các NHTM Nhà nước đang trong
quá trình cổ phần hóa nhằm tăng hiệu quả sử dụng của vốn đầu tư. Với nhiều hình
thức huy động vốn tương đối đa dạng, cùng với điều chỉnh lãi suất cho vay, NHTM
- 13
VN đã huy động vốn hàng trăm tỷ đồng, từ các nguồn vốn trong xã hội, tăng dư nợ cho
vay với mọi thành phần kinh tế, tới các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp tìm cách vay các khoản vốn này để trang bị các cơ sở vật chất
hoặc trang thiết bị mới để tăng sản lượng và doanh số. Xuất phát từ việc trông đợi sẽ
thu được lợi nhuận từ các khoản đầu tư mới này trong nhiều năm, họ sẵn sàng trả
tiền lãi cho nguồn quỹ mà họ sử dụng để mua các thiết bị đó và bắt đầu sản xuất ngay
lập tức. Tất nhiên nếu lãi suất họ phải trả cao hơn tỉ suất lợi nhuận họ có thể thu
được thì doanh nghiệp sẽ không vay vốn nữa. Và thực tế, nếu một công ty không có
những dự định đầu tư có lợi nhuận cao hơn mức lãi suất tiền vay hiện tại thì họ sẽ
tiết kiệm tiền còn hơn là cố gắng vay mượn thêm. Hoặc, một điều chắc chắn hơn là
doanh nghiệp sẽ cố gắng chuyển các nguồn lực của mình sang một lĩnh vực kinh
doanh khác có tỉ suất lợi nhuận dự tính cao hơn mức lãi suất tiền vay. Điều đó đơn
giản chỉ là một cách lựa chọn khác, theo đó các nguồn lực đã được chuyển sang cho
các công ty xác định được cách thức sử dụng nguồn lực có lợi nhất, do đó hiệu quả
sản xuất kinh doanh sẽ tăng.
Vốn của NHTM giúp tăng đầu tư vào những chương trình trọng điểm quốc gia,
kiểm soát lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (GDP tăng
bình quân 7.5% trong 5 năm 2001-2005), góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội
(trong 5 năm 2001-2005 cả nước tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động), góp phần xóa
đói giảm nghèo (tỷ lệ hộ nghèo còn 7%) và làm giàu hợp pháp.
Trường hợp các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, NHTM căn cứ tình hình thực tế để
xem xét gia hạn nợ, xử lý nợ vay theo quy định hiện hành, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp khắc phục khó khăn, tiếp tục duy trì sản xuất.
Hệ thống NH cũng cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích (chi lương, thu chi hộ, thanh
toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ NH điện tử, dịch vụ thẻ…) và nhiều
sản phẩm mới xuất hiện đã tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tiếp cận vốn
tín dụng NH, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sản xuất kinh doanh của mọi
thành phần kinh tế, thúc đẩy lưu thông hàng hoá diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn.
Nền kinh tế thế giới trong năm 2009 sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường.
Trong nước, nền kinh tế sẽ tiếp tục gánh chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính
toàn cầu và lạm phát cao từ năm 2008, cán cân thanh toán chưa ổn định, sức cạnh tranh
thấp, đà tăng trưởng giảm sút. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn do sức mua giảm, các thị trường xuất khẩu chủ yếu đang bị thu
hẹp. Thu nhập thực tế của phần lớn dân cư có khả năng giảm sút do ảnh hưởng lớn
từ những khó khăn của nền kinh tế.
Nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động kinh doanh của các NH, nhất là những NHTM Nhà
nước đóng vai trò chủ lực trong nền kinh tế nhiều thách thức to lớn, đó là vừa phải
duy trì tăng trưởng tín dụng và đầu tư nhưng vẫn phải bảo đảm duy trì và nâng cao
chất lượng tín dụng, hạn chế tối đa rủi ro trước các biến động liên tục của thị trường
hàng hóa, lãi suất, tỷ giá.
2. NHTM đã góp phần đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát
triển các ngành kinh tế chủ chốt
Hệ thống NH còn là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Chính phủ như cho vay đối với hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa, góp
phần hạn chế đáng kể sự chênh lệch phát triển giữa các nhóm thu nhập và giữa các
vùng trong nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa,
- 14
Hiện đại hóa. Trong điều kiện thị trường tài chính còn sơ khai, tín dụng NH là kênh
chủ yếu cung ứng vốn cho chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế trong suốt 20 năm
qua. Dư nợ tín dụng NH tăng trung bình khoảng 25%/năm và hiện chiếm khoảng 50%
GDP.
Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Chính phủ, nhiệm
vụ của ngành NH, từng NH đã xây dựng và thực thi chính sách tín dụng riêng phù hợp,
góp phần đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với nguồn vốn ngân
sách, tín dụng NH đã góp phần vào việc thực hiện thành công nhiều chương trình, dự
án lớn của quốc gia và của các ngành kinh tế mũi nhọn, nhất là khu vực công nghiệp –
xây dựng và khu vực nông nghiệp. Đây là hai nhóm ngành đóng góp lớn nhất cho tăng
trưởng kinh tế của đất nước.
Nhận thức sâu sắc quan điểm kinh tế nhiều thành phần và vai trò của các khu vực
kinh tế, hệ thống NH VN đã có những chuyển biến căn bản về hoạt động tín dụng, tỉ
trọng cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng từ khoảng 20% năm 1989 lên
khoảng 50% trong giai đoạn hiện nay. Nhờ đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã
mở rộng sản xuất kinh doanh, đóng góp ngày càng nhiều cho tăng trưởng kinh tế, tạo
việc làm và thu nhập cho người lao động. Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đóng góp khoảng 31% giá trị sản xuất công nghiệp và 26% GDP, tạo công ăn việc làm
cho 26% lao động trong nước. Ngành NH đã coi đổi mới hoạt động tín dụng NH là
khâu quan trọng trong đổi mới quản lý kinh tế, từng bước xóa bỏ phương thức quản lý
bao cấp sang quản lý theo chế độ hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh và sử dụng vốn NH. Các doanh nghiệp đã phát huy tinh thần tự chủ và tự chịu
trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, giảm dần sự ỷ lại và trông chờ vào sự bao cấp
của Chính phủ. Ngành NH cũng đóng góp đáng kể vào việc phát huy nội lực, huy động
các nguồn vốn trong nước cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển, góp phần
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế khép kín và phụ thuộc vào nhập khẩu sang
nền kinh tế mở định hướng xuất khẩu, tăng dần khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh
tế quốc tế của các doanh nghiệp VN.
3. NHTM trong việc tham gia phát triển thị trường chứng khoán
Trên thị trường sơ cấp, nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài
hạn thông qua phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM phát
hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị
trường chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM.
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn,
các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối
với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Với độ tín
nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh
phát hành trái phiếu Chính phủ.
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHTM trên thị trường thứ cấp thực chất là
hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường.
4. Góp phần thực thi các chính sách tiền tệ của NH trung ương để ổn định
kinh tế
NH trung ương đề ra các chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định kinh tế và
can thiệp tỷ giá hối đoái. Để các chính sách này có thể tác động tới nền kinh tế,
NHNN phải sử dụng các công cụ tác động tới hoạt động của hệ thống NHTM:
- 15
Các NHTM duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc (tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi) của NH
trung ương để đảm bảo tính thanh khoản. Khi NHNN quy định thay đổi tỷ lệ dự trữ của
NHTM, nó sẽ làm thay đổi số nhân tiền tệ, qua đó giúp điều chỉnh tăng giảm lượng cung
tiền, ổn định giá và kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế.
Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của NH Trung ương mua bán giấy tờ có giá
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng
đến khối lượng dự trữ của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín
dụng của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Khi NHNN muốn bơm thêm tiền vào lưu thông, nó sẽ bơm qua hệ thống NHTM.
Các doanh nghiệp muốn vay nguồn vốn này để đầu tư phải được bộ phận thẩm tra dự
án của NHTM thông qua tính khả thi. Vì thế NHTM giúp cho các chính sách thích hợp
được sử dụng để chống suy giảm kinh tế, nguồn vốn được phân phối một cách hợp lý
nhất, phát huy hiệu quả kích cầu đầu tư, ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và
hỗ trợ vốn khả dụng cho những tổ chức tín dụng có điều kiện mở rộng huy động vốn
và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế.
5. NHTM là cầu nối kinh tế quốc gia với kinh tế quốc Tế.
Ngày nay, toàn cầu hóa là xu hướng chung của toàn thế giới. Các nước không
ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác, mọi quốc gia không thể tự sản
xuất và cung cấp những thứ mà mình cần. Một nước sẽ nhập khẩu những sản phẩm
mà họ chưa sản xuất được đồng thời xuất khẩu những sản phẩm mà họ chiếm ưu
thế, do đó các quan hệ thương mại, dịch vụ… giữa các nước nảy sinh ngày càng
nhiều. Mà hầu hết mỗi nước đều có đồng tiền riêng của mình dẫn đến việc trao đổi
các đồng tiền khác nhau, đồng tiền này đổi lấy đồng tiền khác. Từ đó xuất hiện hoạt
động thanh toán quốc tế và hình thành thị trường kinh ngoại hối.
Có một số phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu sau: Phương thức chuyển
tiền, Phương thức nhờ thu, Phương thức COD & CAD
Trong suốt quá trình phát triển kinh tế đối ngoại của đất nước những năm qua,
ngành NH đóng vai trò hầu như duy nhất trong lĩnh vực dịch vụ thanh toán và dịch vụ
tín dụng xuất – nhập khẩu
Một trong những hoạt động cơ bản của NHTM là trung gian thanh toán. Với chức
năng này NHTM có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kinh doanh của các
doanh nghiệp. Hiện nay thanh toán quốc tế đang là một hoạt động quan trọng của các
NHTM. Các NHTM cung cấp các phương thức thanh toán quốc tế nhờ đó mà bạn dễ
dàng trong việc thanh toán cho một hợp đồng kinh tế nào đó.Trong kinh doanh ngày
nay, thanh toán quốc tế đang ngày trở nên phổ biến. Những phương thức thanh toán
truyền thống như tiền mặt đã dần được thay thế bằng những phương thức thanh toán
hiện đại hơn, nhanh chóng hơn đó là nhờ có hệ thống NHTM. Thử hình dùng nếu bạn
có quan hệ đối tác làm ăn với các thương nhân nước ngoài mà bạn không có các
phương thức thanh toán quốc tế thì sẽ như thế nào? Hẳn là sẽ không thể kinh doanh
được. Và đương nhiên nếu không có hệ thống NHTM thì cũng sẽ không có nhà cung
cấp dịch vụ thanh toán quốc tế cho doanh nghiệp, điều đó cũng có nghĩa là việc lưu
thông vốn giữa các nước sẽ gặp khó khăn.
II. Những tồn tại ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng
Đứng trên góc độ quản lý, để các NH yếu là tiềm ẩn nguy cơ cho nền kinh tế và
sự tăng trưởng các ngành khác.
- 16
1. Năng lực tài chính còn hạn chế, khả năng thanh khoản, sử dụng vốn chưa
hiệu quả
Dù hệ số an toàn vốn tối thiểu của hầu hết NHTM (NHTM) đều đạt theo chuẩn
yêu cầu của NHNN, nhưng bình quân quy mô vốn chủ sở hữu của 10 NHTM lớn nhất
VN mới chỉ đạt khoảng 500 triệu USD. Ngoài hệ thống NHTM quốc doanh có số vốn
điều lệ thuộc loại trung bình so với các NH trong khu vực, các NHTM có quy mô vốn
nhỏ đều nằm trong tình trạng cần tăng vốn để đáp ứng yêu cầu hoạt động. Điều này
làm cho khả năng thanh khoản và tính bền vững của hệ thống chưa cao. NH vốn là
một lĩnh vực nhạy cảm bởi nó liên quan tới dòng tiền chảy trong nền kinh tế, nó là
trung gian giữa nguời có tiền và nhà đầu tư vay vốn, nếu NH mất tính thanh khoản, rơi
vào khủng hoảng thì người dân sẽ hoảng loạn và toàn bộ nền kinh tế khủng hoảng
theo phản ứng dây chuyền.
Trong 32 NHTM ở VN, chỉ có khoảng 79% NH sử dụng hiệu quả đầu vào, không
ít NH sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn chưa hợp lý. cơ cấu
hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống NH vẫn là kênh cung cấp vốn trung và
dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy
động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn
huy động ngắn hạn.
Để nâng cao năng lực tài chính của các NHTM bằng việc đa dạng hoá các hình
thức huy động vốn, điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý. Ngoài ra, các
NH cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới theo hướng, giảm dần tỷ trọng cho
vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, phát triển cho vay tiêu dùng đối
với các cá nhân trong nền kinh tế.
2. Tính bền vững của hệ thống chưa cao, kém sức cạnh tranh, dịch vụ chưa
phát triển, các NH chủ yếu cung cấp dịch vụ tín dụng, thanh toán và chuyển
tiền.
Việc hệ thống NH thiếu tính bền vững không chỉ do năng lực tài chính còn hạn
chế mà còn vì giữa các NH chưa có tính liên kết cao. Sự lỏng lẻo trong liên kết giữa
các NH khiến cho lãng phí tiền bạc, giảm cơ hội tiếp cận tín dụng tiêu dùng cho
người dân và quy mô tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế, hạn chế sự minh bạch về
thông tin, không bảo đảm an toàn cho hoạt động NH. Tuy số lượng NHTM lớn nhưng
với quy mô NHTM hiện nay, rất khó có thể đương đầu với thách thức ngày càng lớn
hơn trên thị trường. Quy mô tổng tài sản còn rất nhỏ, dịch vụ sản phẩm NH nghèo
nàn, năng lực cạnh tranh kém là những nét cơ bản của hệ thống NH trong nước. Đứng
trên góc độ quản lý, để các NH yếu là tiềm ẩn nguy cơ cho nền kinh tế và sự tăng
trưởng các ngành khác.
Theo các chuyên gia ngành tài chính, dự kiến đến năm 2010, trên thị trường tài chính
VN sẽ khó tránh khỏi việc sát nhập và mua lại giữa các NH lớn và nhỏ, đây là xu thế
tất yếu.
Cũng chính vì mục tiêu phát triển bền vững trên thị trường tài chính trong thời gian
tới thì những đơn vị quy mô nhỏ cần phải liên kết để tạo sức mạnh cho mình, nếu chỉ
có một mình, khó xây được nền tảng vững chắc, Thị trường chắc chắn hình thành xu
thế "liên kết tăng sức mạnh". Chính vì thế, ABBank đã và đang từng bước nâng cao
năng lực tài chính, hợp tác với nhiều đối tác chiến lược. Hiện ngoài cổ đông chính là
Tập đoàn EVN, ABBank còn hợp tác với Công ty cổ phần Bách Việt và đang trong quá
trình tìm kiếm thêm cổ đông chiến lược khác.
- 17
Vì theo lộ trình cam kết với WTO, kể từ ngày 1/4, các NH con 100% vốn ngoại sẽ
được phép thành lập và hoạt động tại thị trường tài chính VN. Và đến năm 2010, các
NH nước ngoài hoạt động tại VN sẽ được đối xử bình đẳng như các NH trong nước,
nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt để nâng cao năng lực cạnh tranh, các
NH nhỏ sẽ khó tồn tại khi có sự lấn sân ngày càng sâu của NH ngoại. Nếu tỷ lệ
khống chế nhà đầu tư nước ngoài trong NHTM VN được tăng lên, sự phụ thuộc của
các NHTM vào nhà đầu tư nước ngoài rất lớn nhất là khi các NHTM không ngừng tăng
vốn và có thể sáp nhập.
Ở các nước trên thế giới, một khi thị trường tài chính phát triển thì việc sáp nhập
và mua lại là một hiện tượng bình thường. Thế nhưng do ở VN vẫn còn quá mới mẻ nên
có thể các NH chưa quen với hiện tượng này.
Ngoài dịch vụ thẻ mới được chú trọng trong thời gian gần đây, các dịch vụ khác
như quản lý tài sản, quản lý đầu tư chưa phát triển. Theo thống kê của NHNN
(NHNN), hiện các NH nước ngoài có thể cung cấp khoảng 1.000 dịch vụ khác nhau
cho khách hàng, trong khi các NH VN chỉ có chưa đầy 100 dịch vụ. Hiện nay 90% các
doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn khó tiếp cận các dịch vụ NH.
Các NHTM cần tăng cường hiện đại hoá công nghệ NH và hệ thống thanh toán,
nghĩa là cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ thuật. Tuy nhiên, các dự án đầu tư
công nghệ cần tính toán kỹ lưỡng để sử dụng công suất phù hợp với chiến lược mở
rộng kinh doanh của NH.
3. Công tác quản trị tài sản nợ - có, quản trị rủi ro còn hạn chế
Năng lực kinh doanh còn yếu, sức đề kháng với thị trường chưa có nhưng tính tuân
thủ, một trong những yêu cầu hàng đầu của các định chế tài chính chưa đầy đủ. Chính
sách và thực thi quản trị rủi ro chưa được đặt lên hàng đầu, có NH sẵn sàng bỏ qua
những quy định của pháp luật, quy chế của NHNN, quy định nội bộ chỉ vì mục tiêu
kinh doanh trước mắt, rồi tự trói chính mình vào các rủi ro tiềm ẩn. Nguyên nhân sâu
sa là công tác quản trị tài sản nợ tại các NHTM còn yếu, các NH chưa thực sự làm chủ
được nguồn vốn huy động với đặc điểm về loại tiền, kỳ hạn thực tế luôn biến động
trong bối cảnh lạm phát cao, đồng USD xuống giá và TTCK suy giảm.
Năm 2007 có gần 50 tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng dư nợ trên 50% và
gần 30 tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng dư nợ trên 100%. Nhiều tổ chức tín
dụng chưa xây dựng hệ thống đánh giá xếp hạng tín dụng nội bộ cho các nhóm khách
hàng theo thông lệ.
Vấn đề đặt ra là trong bối cảnh hệ thống kiểm soát rủi ro tài chính còn quá yếu
kém, nền kinh tế đều đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thì việc mở cửa
quá nhanh liệu có phải là không thận trọng. Rủi ro đối với hệ thống NH VN có thể
tăng lên do các NH nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính trong
nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ chức
tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh
kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động NH quốc tế.
Mở cửa thị trường tài chính trong nước cũng làm tăng rủi ro do những tác động từ bên
ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị
trường quốc tế giảm dần. Hệ thống NH VN cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh
tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường vốn
chưa phát triển sẽ khiến hệ thống NH phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro
gây lên.
- 18
Vấn đề đặt ra là cần thực hiện quản trị NHTM từ chiều rộng sang chiều sâu
theo hướng nâng cao năng lực quản trị rủi ro thông qua việc hoàn thiện bộ máy tổ
chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường
xuyên.
4. Chất lượng nguồn nhân lực NH kém, chính sách chưa thỏa đáng dẫn tới
chảy máu chất xám:
Một trong những động lực của tăng trưởng kinh tế phải kể tới nguồn lao động.
Cũng như lao động trong nước nói chung, lao động trong ngành NH cũng đang vấp
phải những yếu kém đặc biệt là về chất lượng.
Theo dự báo của Bộ Tài chính, đến năm 2010, “cầu” nhân lực các lĩnh vực bảo
hiểm, chứng khoán, kiểm toán và thẩm định giá vào khoảng 13.500 “sản phẩm”. Trong
đó, lĩnh vực chứng khoán cần 5.000, kiểm toán cần khoảng 3.000, thẩm định giá cần
500... Nhưng những phản hồi của nhà tuyển dụng cho thấy : Hầu hết sinh viên được
đào tạo từ các trường, học viện chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, do chương
trình đào tạo lạc hậu, trình độ giảng viên thấp và phương pháp giảng dạy cũ. Hậu quả
lớn nhất của việc tạo ra nguồn nhân lực yếu kém trong ngành NH không chỉ nằm ở
chỗ tạo ra áp lực về việc làm (lao động khó tìm việc) mà còn cản trở cho việc chọn
lựa những lao động thực sự có trình độ chuyên môn.
Không quá khi nói nhân lực kém chất lượng cũng là một trong những dạng cực kỳ
nguy hiểm vì nó ảnh hưởng tới năng suất lao động và từ đó làm giảm tăng trưởng kinh
tế.
Các chính sách đối với lao động chưa thỏa đáng, đội ngũ nhân viên chất lượng cao
chưa được phát huy hết năng lực, bên cạnh đó tồn tại 1 lượng lớn lao động thiếu trình
độ chuyên môn, còn tồn tại quá nhiều thời gian nhàn rỗi, gây tốn kém và kìm hãm tốc
độ của hệ thống tài chính.
Các doanh nghiệp nước ngoài vẫn có sức hấp dẫn hơn nhiều so với doanh nghiệp
trong nước, nhất là được hưởng mức lương cao và ít nhất người lao động cũng học
hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu về chuyên môn.
Riêng trong năm 2007, gần 100 cán bộ đã xin nghỉ việc tại NHNN. Sự ra đi của
những cán bộ có kinh nghiệm và nắm rõ cơ chế chính sách liên quan tới tài chính, NH
là một tổn thất lớn cho ngành NH trong nước nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Kết luận:
Ngành NH cũng nhận thức được rằng thách thức trong quá trình hội nhập là rất lớn
và ngày càng phức tạp nhưng nếu đẩy nhanh quá trình gia nhập WTO sẽ giúp ngành
NH tận dụng được cơ hội để phát triển, qua đó nâng cao vị thế, sức cạnh tranh của hệ
thống NH và của các doanh nghiệp VN trên thị trường quốc tế. Do đó nhiệm vụ phát
triển kinh tế và hội nhập quốc tế trong những năm tới là rất nặng nề. Hội nhập quốc
tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống NH VN, nhất là trên thị trường tài chính
khu vực. hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các NH trong nước
phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại,
đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị
điều hành và phát triển dịch vụ NH. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài
chính trong nước, khung khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc
tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại
thị phần giữa các nhóm NH theo hướng cân bằng hơnKinh doanh theo nguyên tắc thị
- 19
trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động
thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao
động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị
trường tài chính. Mở cửa thị trường dịch vụ NH và nới lỏng hạn chế đối với các tổ
chức tài chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài
chính – ngân hàng, các NHTM trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật,
tư vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các NH và tổ chức tài
chính quốc tế.Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các NH có tiềm lực mạnh
về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý. áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ
trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về mở chi
nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng và
tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ NH, trong khi các tổ chức tài
chính VN còn nhiều yếu kém, trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn bất cập,
hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro
còn kém. Vì thế, các NHTM VN sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng
và hệ thống kênh phân phối.
nguon tai.lieu . vn