- Trang Chủ
- Kinh tế học
- MÔ HÌNH SOLOW – Phần 2 : TRẠNG THÁI VÀNG LÀ GÌ? TĂNG DÂN SỐ VÀ TRẠNG THÁI VÀNG?
Xem mẫu
- MÔ HÌNH SOLOW – Phần 2
CÂU 3 : TRẠNG THÁI VÀNG LÀ GÌ? TĂNG DÂN SỐ VÀ TRẠNG THÁI
VÀNG?
1. Khái niệm trạng thái vàng :
Trạng thái vàng là trạng thái dừng có mức tiêu dùng cao nhất được gọi là
mức tích lũy tư bản theo quy tắc vàng (gọi tắt là trạng thái vàng).
Làm thế nào để biết nền kinh tế có ở mức trạng thái vàng hay không? Để
trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta cần tính mức tiêu dùng mỗi công nhân ở
trạng thái dừng. Sau đó, chúng ta xét xem trạng thái nào tạo ra mức tiêu dùng cao
nhất.
Tiêu dùng bằng sản lượng trừ đầu tư. Sản lượng mỗi công nhân ở trạng
thái dừng bằng f(k*), với k* là khối lượng tư bản mỗi công nhân ở trạng thái
dừng. Hơn nữa, ở trạng thái dừng, đầu tư bằng khấu hao δ k*.
Hình dưới vẽ đường sản lượng và khấu hao ở trạng thái dừng với tư cách
một hàm của khối lượng tư bản ở trạng thái dừng. Trên hình này chỉ có một khối
lượng tư bản tối đa hóa tiêu dùng – tức trạng thái vàng δ k*.
- δ k*
f (k*)
Sản lượng và khấu hao ở
trạng thái dừng
c*g
k*g k*
Khối lượng tư bản mỗi công nhân ở
trạng thái vàng
Sản lượng của nền kinh tế được sử dụng để tiêu dùng hoặc đầu tư.
Trong trạng thái dừng, đầu tư bằng khấu hao. Bởi vậy, tiêu dùng ở trạng thái
dừng bằng sản lượng f(k*) trừ khấu hao. Trạng thái dừng tối đa hóa tiêu dùng
- được gọi là trạng thái vàng. Khối lượng tư bản ở trạng thái vàng được ký hiệu là
k*g và tiêu dùng được ký hiệu là c*g.
Khi so sánh các trạng thái dừng, chúng ta cần tính đến tác động của khối
lượng tư bản cao hơn đối với cả sản lượng và khấu hao. Nếu khối lượng tư
bản nhỏ hơn mức tại trạng thái vàng, thì sự gia tăng khối lượng tư bản làm cho
sản lượng tăng nhanh hơn khấu hao, vì vậy tiêu dùng tăng. Ngược lại, khi khối
lượng tư bản lớn hơn mức tại trạng thái vàng, thì sự gia tăng khối lượng tư bản
làm giảm tiêu dùng, vì sản lượng tăng chậm hơn khấu hao. Tại mức tư bản ở
trạng thái vàng, hàm sản xuất và đường khấu hao có cùng độ dốc và tiêu dùng
đạt mức tối đa.
Quá trình tiến tới trạng thái vàng :
Bây giờ chúng ta xét vấn đề của nhà hoạch định chính sách một cách thực
tế. Ở trên chúng ta giả định nhà hoạch định chính sách có thể lựa chọn được
trạng thái dừng và nhà hoạch định chính sách chọn trạng thái dừng có mức tiêu
dùng cao nhất. Giả sử nền kinh tế đạt tới trạng thái dừng không phải là trạng
thái vàng.
Chúng ta sẽ xem xét 2 trường hợp:
• Với mức tư bản cao hơn trạng thái vàng:
Trong trường hợp này, nhà hoạch định chính sách theo đuổi chính sách
cắt giảm tỉ lệ tiết kiệm để cắt giảm khối lượng tư bản ở trạng thái dừng.
Giả sử chính sách này thành công và vào thời điểm nào đó – gọi là to – tỷ lệ
tiết kiệm giảm tới mức có thể dẫn tới trạng thái vàng. Vì trạng thái dừng
mới là trạng thái vàng, nên chúng ta biết rằng tiêu dùng cao hơn mức trước
khi tỷ lệ tiết kiệm giảm, mặc dù sản lượng và đầu tư thấp hơn.
- Vì nền kinh tế bắt đầu với qúa nhiều tư bản, nên trạng thái dừng mới
có mức tiêu dùng cao hơn trạng thái dừng ban đầu. Nếu khối lượng tư bản
cao hơn khối lượng tư bản ở trạng thái vàng, thì biện pháp cắt giảm tiết
kiệm rõ ràng là một chính sách tốt, vì nó làm tăng tiêu dùng tại mọi thời điểm.
• Với mức tư bản thấp hơn trạng thái vàng:
Khi nền kinh tế xuất phát với khối lượng tư bản thấp hơn trạng thái
vàng, , nhà hoạch định chính sách tăng tỉ lệ tiết kiệm để đạt được trạng thái
vàng. Theo thời gian, sự gia tăng đầu tư làm cho khối lượng tư bản tăng.
Trong quá trình tích lũy tư bản, sản lượng, tiêu dùng và đầu tư dần dần tăng
lên và đạt tới trạng thái dừng mới. Vì trạng thái dừng ban đầu thấp hơn trạng
thái vàng, cho nên sự gia tăng tiết kiệm có thể dẫn tới mức tiêu dùng cao hơn
so với điểm xuất phát và tàm tăng phúc lợi kinh tế vì tiêu dùng ở trạng thái
dừng cao hơn. Nhưng việc đạt được trạng thái dừng mới đòi hỏi ban đầu
phải cắt giảm tiêu dùng.
Khi nền kinh tế xuất phát ở trạng thái cao hơn trạng thái vàng, quá
trình đạt tới trạng thái vàng tạo ra mức tiêu dùng cao hơn tại mọi thời điểm.
Khi nền kinh tế xuất phát ở trạng thái thấp hơn trạng thái vàng, quá trình đạt
tới trạng thái vàng đòi hỏi phải cắt giảm tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng
tương lai.
Việc quyết định xem có nên tìm cách đạt tới trạng thái vàng không là
một điều hết sức khó khăn, vì số lượng người tiêu dùng thay đổi theo thời
gian. Việc đạt được trạng thái vàng đem lại mức cao nhất của tiêu dùng trong
trạng thái dừng và có lợi cho thế hệ mai sau. Như vậy khi nền kinh tế xuất
phát ở mức thấp hơn trạng thái vàng, việc đạt tới trạng thái vàng đòi hỏi phải
tăng đầu tư, qua đó làm giảm tiêu dùng của thế hệ hiện tại.
- Khi phải quyết định xem có tăng mức tích lũy tư bản hay không, nhà
hoạch định chính sách quan tâm nhiều hơn đến thế hệ đương thời có thể
không theo đuổi chính sách dẫn đến trạng thái vàng. Ngược lại, nhà hoạch
định chính sách quan tâm như nhau đến tất cả các thế hệ sẽ lựa chọn chính
sách dẫn tới trạng thái vàng. Mặc dù thế hệ hiện tại phải tiêu dùng ít hơn,
nhưng nhiều thế hệ sau được lợi khi nền kinh tế đạt tới trạng thái vàng.
Do vậy, mức tích lũy tư bản tối ưu phụ thuộc chủ yếu vào chỗ chúng
ta cân nhắc như thế nào giữa ích lợi của thế hệ hiện tại và tương lai. Trong
trường hợp đó, việc đạt được khối lượng tư bản ở trạng thái vàng là phương
án tối ưu - và đây là lý do tại sao nó được gọi là trạng thái vàng.
2. Tăng dân số và trạng thái vàng
Bây giờ chúng ta giả định rằng dân số và lực lượng lao động tăng với tỷ
lệ cố định n. Ví dụ ở Mỹ, tỷ lệ tăng dân số hàng năm bằng 1%, nên n= 0,01.
Điều này có nghĩa là nếu một năm nào đó có 150 triệu lao động, thì trong năm tới,
lực lượng lao động bằng 151,5 triệu (1,01x150), …v.v…
Sự gia tăng dân số ảnh hưởng đến trạng thái dừng như thế nào? Chúng ta
đã biết đầu tư làm tăng khối lượng tư bản, còn khấu hao làm giảm nó. Nhưng
bây giờ còn có thêm yếu tố thứ ba làm thay đổi khối lượng tư bản mỗi công
nhân: lượng công nhân làm cho tư bản trên mỗi công nhân giảm xuống.
Ta quy ước : k = K/L là khối lượng tư bản mỗi công nhân: y = Y/L là sản
lượng mỗi công nhân. Nhưng số lượng công nhân không còn cố định như trước
nữa mà tăng lên theo thời gian.
Dưới đây là mô hình về sự gia tăng dân số trong mô hình Solow:
- daân soá
( δ + n)k
Đầu tư, đầu tư vừa đủ
s.f(k)
k* k
Khối lượng tư bản mỗi công nhân
Giống như khấu hao, sự gia tăng dân số là một nguyên nhân làm cho khối
lượng tư bản mỗi công nhân giảm đi.
Bởi vậy mô hình Solow dự báo rằng các nền kinh tế với tỷ lệ tăng dân số
cao hơn sẽ có mức tư bản mỗi công nhân thấp hơn và bởi vậy có thu nhập thấp
hơn.
- • Tác động của sự tăng dân số
Sự gia tăng dân số làm thay đổi mô hình Solow cơ bản trên 3 phương
diện. Thứ nhất, nó giúp chúng ta lý giải sự tăng trưởng vững chắc một cách
chính xác hơn. Ở trạng thái dừng với sự gia tăng dân số, khối lượng tư bản
trên mỗi công nhân không đổi, vì số lượng công nhân tăng tỷ lệ n, tổng khối
lượng tư bản và sản lượng cũng tăng tỷ lệ n. Do vậy, sự gia tăng dân số
không thể lý giải sự tăng trưởng vững chắc của mức sống, vì sản lượng mỗi
công nhân ở trạng thái dừng không thay đổi. Nhưng sự gia tăng dân số có thể
lý giải sự tăng trưởng vững chắc của tổng sản lượng. Thứ hai, sự gia tăng
dân số giúp chúng ta lý giải tại sao một số nước giàu trong khi một số nước
khác lại nghèo.
Thứ ba, sự gia tăng dân số ảnh hưởng tới điều kiện xác định mức tích
lũy tư bản ở trạng thái vàng.
Để tìm được điều kiện này trong nền kinh tế có sự gia tăng dân số,
chúng ta vẫn tiến hành như trước. Tiêu dùng mỗi công nhân là:
c=g–i
Vì sản lượng ở trạng thái dừng là f(k*) và đầu tư bằng ( δ + n)k*,
chúng ta có thể viết phương trình tiêu dùng tại trạng thái dừng như sau :
c* = f(k*) – ( δ + n)k*
Ta kết luận : MPK - δ = n.
- Ở trạng thái vàng, sản phẩm cận biên của tư bản trừ khấu hao bằng
tỷ lệ tăng dân số.
nguon tai.lieu . vn