Xem mẫu
- Môn học: Kinh tế đầu tư
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ODA VÀ FDI:
1. VỐN ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official
Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ
trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi
suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ.
Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát
triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức,
vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Ưu điểm của ODA:
• Lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm).
• Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới
phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm).
• Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn
lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA.
Bất lợi khi nhận ODA:
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và
chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm
bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị...
Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ
quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với
tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên
thế giới).Ví dụ:
Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng
rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất
nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được
Trương Quang Chiến 1 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng
hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư
trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế,
có khả năng sinh lời cao.
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo
cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không
hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo.
Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ
thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn
90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia,
cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia
như vậy trên thị trường lao động thế giới).
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu
dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp
ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng
hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA
nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả
thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án
nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ
chuyên gia.
Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA
phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy
hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ
quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý,
Trương Quang Chiến 2 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu
tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào
tình trạng nợ nần.
2. NGUỒN VỐN FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là
hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác
bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước
ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ
một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước
thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là
thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn
trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài
là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường
hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay
"chi nhánh công ty"
ưu điểm:
+ FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho phát
triển kinh tế - xã hội trong nước
Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
+tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
+tăng lwượng việc làm và đào tạo nhân công
+Nguồn thu ngân sách lớn.
Trương Quang Chiến 3 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
- FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư
về chính trị, kinh tế như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình
thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra
nước ngoài... Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư
nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư.
- Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của nước tiếp nhận theo nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu theo nguồn vốn, cơ cấu vốn
đầu tư…
*Nhược điểm: khi đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư không những góp vốn mà
còn đứng ra quản lí dự án đó. Tuy nhiên việc quản lí này đôi khi không
hiệu quả do sự khác biệt giữa các quốc gia. những nhân tố thúc đẩy đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa
các nước
Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng
suất cận biên của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng
suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất
cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ
nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
II. SO SÁNH FDI VÀ ODA:
ODA là nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức dịch từ cụm từ
trong tiếng Anh là Official Develop Assistance. Nó là do các nước phát
triển trích từ GDP của nước mình trong 1 năm để hỗ trợ cho các nước
Trương Quang Chiến 4 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
đang phát triển như Việt Nam. ODA có 2 thành phần là : khoảng < 25% là
viện trợ không hoàn lại và phần còn lại là cho vay với mức lãi suất thấp.
ODA thường được cấp cho các chính phủ với mục tiêu phát triển khu vực
công cộng nhà nước trong nền kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng, y tế, giáo
dục.Nói chung những ngành cần vốn ODA thì là những ngành phát triển vì
phúc lợi xã hội là chính, lợi nhuận là rất ít nên khu vực tư nhân ít tham gia
đầu t ư.
FDI là Foreign Direct Investment là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là các
nguồn vốn của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào một nước phát
triển các thành phần kinh tế trong nước đó nhằm mục đích lợi nhuận.
Vai trò của ODA và FDI qua định nghĩa của nó thì rất quan trọng
đối với một nền kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam. Như bạn
biết muốn phát triển kinh tế thì VỐN là yếu tố hàng đầu. ODA và FDI
giúp cung cấp vốn cho nền kinh tế phát triển đồng thời giúp cho đất nước
đó phát triển được cơ sở hạ tầng, tiếp thu được những công nghệ thành
tựu mới nhất trong sản xuất, hơn nữa tiếp thu được kinh nghiệm quản lý
tiên tiến của nước ngoài, tạo công ăn việc làm cho người dân... Nói chung
là rất nhiều tác động tích cực và quan trọng đến nền kinh tế.
Do vậy hàng năm chính phủ ta rất quan tâm và đầu tư đến việc thu hút các
nhà đầu tư nước ngoài và các nước để nâng cao ODA và FDI. Nó chính là
nguồn lực bên ngoài bên cạnh nội lực trong nước để phát triển kinh tế.
Vai trò của nguồn vốn FDI
Có nhiều cách hiểu khác nhau về FDI:
- Theo IMF, FDI là hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi ích lâu dài của
nhà đầu tư tại một doanh nghiệp ở nước khác với nước của nhà đầu tư,
Trương Quang Chiến 5 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
trong đó, nhà đầu tư phải có vai trò quyết định trong quản lý doanh
nghiệp.
- Theo OECD (Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế), FDI bao gồm
các hoạt động kinh tế của các cá nhân, kể cả việc cho vay dài hạn hoặc
sử dụng nguồn lợi nhuận tại nước sở tại nhằm mục đích tạo dựng quan
hệ kinh tế lâu dài và mang lại khả năng gây ảnh hưởng thực sự về quản
lý.
- Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Điều 1), FDI là việc
nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam vốn bằng tiền hay bất kỳ tài
sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư.
FDI có vai trò quan trọng với cả nước chủ đầu tư và nước tiếp
nhận đầu tư, cụ thể:
Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng phục vụ cho chiến lược thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt là với các nước đang phát triển. Các
nước đang phát triển vốn là những nước còn nghèo, tích luỹ nội bộ thấp,
nên để có tăng trưởng kinh tế cao thì các nước này không chỉ dựa vào tích
luỹ trong nước mà phải dựa vào nguồn vốn tích luỹ từ bên ngoài, trong đó
có FDI.
- FDI có ưu điểm hơn các hình thức huy động vốn nước ngoài khác,
phù hợp với các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ
xây dựng các dây chuyền sản xuất tại nước sở tại dưới nhiều hình thức
khác nhau. Điều này sẽ cho phép các nước đang phát triển tiếp cận công
nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại. Tuy nhiên, việc có tiếp cận
được các công nghệ hiện đại hay chỉ là các công nghệ thải loại của các
nước phát triển lại tuỳ thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư trong việc chủ
Trương Quang Chiến 6 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
động hoàn thiện môi trường đầu tư hay không.
- FDI giúp giải quyết tốt vấn đề việc làm và thu nhập của dân cư.
Vai trò này của FDI không chỉ đối với các nước đang phát triển mà cả với
các nước phát triển, đặc biệt là khi nền kinh tế bước vào giai đoạn khủng
hoảng theo chu kỳ.
- FDI có tác động làm năng động hoá nền kinh tế, tạo sức sống mới
cho các doanh nghiệp thông qua trao đổi công nghệ. Với các nước đang
phát triển thì FDI giúp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phá vỡ cơ
cấu sản xuất khép kín theo kiểu tự cấp tự túc.
- FDI cho phép các nước đang phát triển học hỏi kinh nghiệm, kỹ
năng quản lý dây chuyền sản xuất hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn
cũng như ý thức lao động công nghiệp của đội ngũ công nhân trong nước.
Tuy vậy, FDI cũng có mặt trái, đó là:
(1) Nhà đầu tư nước ngoài có thể kiểm soát thị trường địa phương,
làm mất tính độc lập, tự chủ về kinh tế, phụ thuộc ngày càng nhiều vào
nước ngoài;
(2) FDI chính là công cụ phá vỡ hàng rào thuế quan, làm mất tác
dụng của công cụ này trong bảo hộ thị trường trong nước;
(3) Tạo ra sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp FDI với các doanh
nghiệp trong nước, có thể dẫn đến suy giảm sản xuất của các doanh
nghiệp trong nước;
(4) Gây ra tình trạng chảy máu chất xám, phân hoá đội ngũ cán bộ,
tham nhũng...
Vai trò của FDI đối với nước chủ đầu tư:
Trương Quang Chiến 7 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
- Giúp các doanh nghiệp khắc phục xu hướng tỷ suất lợi nhuận
bình quân giảm dần, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm khi ở thị trường trong nước đã
chuyển sang giai đoạn suy thoái, giúp nhà đầu tư tăng doanh số sản xuất ở
nước ngoài trên cơ sở khai thác lợi thế.
Trong thơi gian tơi thu hut đâu tư vao FDI hay ODA
́ ̀ ̀
Ơ phân I, chung ta đã thây ưu, nhược điêm cua từng nguôn vôn FDI
̀ ́ ́ ̉ ̉ ̀ ́
và ODA. Trong thời gian 10 năm đên 20 năm tới, nước ta đang trong quá
́
trinh phân đâu trở thanh nước công nghiêp hiên đai. Do vây viêc thu hut
̀ ́ ́ ̀ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ́
vôn FDI và ODA là điêu cân thiêt. ODA và FDI là hai nguồn ngoại lực quý
́ ̀ ̀ ́
giá đối với các nước đang phát triển. Nhưng hiệu qủa sử dụng hai nguồn
tài lực này phụ thuộc nhiều vào việc gắn kết chúng với nhau. Do vây theo
̣
ý kiên cua ban thân tôi, nên kêt hợp thu hut và sử dung hiêu quả cả hai
́ ̉ ̉ ́ ́ ̣ ̣
nguôn lực nay.
̀ ̀
Tuy nhiên vân đề mâu chôt không phai là thu hut thât nhiêu cả 02
́ ́ ́ ̉ ́ ̣ ̀
nguôn vôn nay mà là lam sao sử dung hiêu quả chung.
̀ ́ ̀ ̀ ̣ ̣ ́
Trong thời gian qua, công tác gắn kết hai nguồn lực này của Việt
Nam còn chưa được quan tâm đúng mức. Biểu hiện cụ thể là Nhà nước
thiếu định hướng kết hợp trong chính sách huy động chúng, công tác sử
dụng còn thiếu đồng bộ, và đặc biệt tính hiệu qủa của việc vay và trả nợ
vốn ODA chưa được đề cao. Để nâng cao hiệu qủa sử dụng hai nguồn
vốn này, nhà nước cần có chính sách kết hợp sử dụng hài hòa hai nguồn
vốn này, để chúng bổ sung cho nhau, và cộng hưởng với nhau thúc đẩy
nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Trương Quang Chiến 8 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
ODA và FDI là hai nguồn ngoại lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, đặc biệt đối với các nước chậm và
đang phát triển. Tuy nhiên, không có nghĩa là nhịp độ phát triển kinh tế xã
hội hoàn toàn tỷ lệ thuận với khối lượng ODA và FDI mà quốc gia đó thu
hút được. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ chúng được sử dụng như thế
nào.
Lý thuyết cũng như thực tiễn chứng minh rằng vốn ODA và FDI
sẽ phát huy tối đa sức mạnh nếu như chúng được sử dụng kết hợp và bổ
trợ lẫn nhau. Bỡi lẽ, các dự án FDI chỉ có thể được triển khai hiệu qủa
trên cơ sở có môi trường cần thiết cho việc tổ chức hoạt động sản xuất
kinh doanh, như cơ sở pháp lý, mặt bằng sản xuất, mạng lưới giao
thông... Bên cạnh đó, các dự án FDI cũng cần phải có những yếu tố làm
“đầu vào” và các yếu tố đảm bảo “đầu ra” cho quá tình sản xuất, như
năng lượng, nước, dịch vụ về tín dụng, thanh toán... Nhà đầu tư nước
ngoài hầu như không tự mang đến hoặc nhập khẩu được mà chủ yếu nhờ
vào sự cung ứng của nước nhận vốn. Bài toán đặt ra cho các nước đang
phát triển là muốn thu hút được nhiều vón FDI cần phải đáp ứng được
những yếu tố tối cần thiết như trên trong khi điều kiện cơ sở hạ tầng
kinh tế kỹ thuật còn yếu kém và nguồn nội lực đầu tư để cải thiện và xây
dựng mới rất khan hiếm. Vấn đề chỉ có lời giải khi các quốc gia đang
phát triển biết cách khai thác các nguồn lực tài chính bên ngoài, trong đó
có vốn ODA. Vốn ODA, với đặc tính là khoản tài trợ có thời gian vay dài,
lãi suất thấp hơn nhiều so với vốn vay thương mại, sẽ đáp ứng được một
phần nhu cầu vốn để tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn của các nước
đang phát triển. Ngược lại, các dự án FDI hoạt động có hiệu quả, hoạt
động xuất khẩu được thúc đẩy, sẽ là nguồn cung ngoại tệ chủ yếu trang
Trương Quang Chiến 9 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
trải những khoản ODA đến hạn. Chính vì thế, việc kết hợp sử dụng hai
nguồn tài lực này cần thiết được đặt ra, và là yêu cầu đối với các nước
đang phát triển.
Việt Nam thực hiện mở cửa kêu gọi các nhà đầu tư quốc tế dưới
hình thức FDI kể từ năm 1987, và nối lại quan hệ với các tổ chức tài
chính quốc tế (WB, IMF, ADB...) cũng như với các nước phát triển nhằm
kêu gọi vốn ODA từ năm 1993. Kể từ đó đến nay, chúng ta đã thu hút
được hơn 45 tỷ USD vốn FDI cam kết và 26 tỷ vốn ODA. Hai nguồn lực
này trong thời gian qua đã giữ một vị trí không nhỏ và đang ngày càng trở
nên hết sức quan trọng trong nền kinh tế quóc dân, đóng góp một cách
toàn diện vào làm tăng trưởgn GDP, tăng nhanh xuất khẩu, tăng thu ngân
sách nhà nước, và cải thiện đời sống của nhân dân. Thậm chí, khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài đã được chính thức thừa nhận là một thành phần
kinh tế kể từ năm 2001. Đạt được những thành tựu đó, một phần là do hai
nguồn vốn này đã được sử dụng kết hợp tương đối hài hòa với nhau. Cụ
thể biểu hiện trên một số giác độ sau:
Thứ nhất, trong những năm qua, một tỷ trọng lớn vốn ODA (khoảng hơn
50%) đã được ưu tiên đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế (xem
bảng 1). Hàng loạt các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng như mạng
lưới giao thông, sản xuất và truyền tải điện, thông tin liên lạc, cấp thoát
nước.. nhờ vốn ODA đã phục hồi, mở rộng và nâng cấp, tạo một bước
mới về chất. Từ đó, chúng không những góp phần quan trọng thúc đẩy
kinh tế xã hội Việt Nam phát triển mà còn trực tiếp tạo điều kiện thuận
lợi cho thu hút nguồn vốn FDI.
Bảng 1: Tỷ trọng vốn ODA phân theo ngành trong các hiệp định đã ký
Trương Quang Chiến 10 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
Đơn vị: Triệu USD
Ngành Tỷ lệ (%)
1. Năng lượng điện 27,2
2. Giao thông vận tải 26,8
3. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu 14,2
4. Nông gnhiệp 10,2
5. Cấp thoát nước 7,1
6. Lĩnh vực xã hội 6,8
7. Các ngành khác 7,8
Tổng cộng 100
Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Tài
chính
Thứ hai, khu vực kinh tế FDI có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, lớn hơn
so với tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế. Trong giai đoạn
đầu, khu vực kinh tế này chủ yếu thực hiện chiến lược “thay thế nhập
khẩu” với các sản phẩm sản xuất ra phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thị
trường nội địa. Nhưng những năm gần đây, có sự chuyển hướng khá tốt
sang xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong tổng giá
trị tài sản tăng nhanh, đến nay đã chiếm gần 54% (Xem bảng 2). Đồng
thời các doanh nghiệp FDI góp phần tích cực thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu của cả nước. Đây là dấu hiệu tốt, đúng hướng của khu vực kinht ế
FDI, cũng là nguồn đảm bảo cho việc thanh toán và trả các khoản nợ
nước ngoài của quốc gia khi đáo hạn, trong đó có vốn ODA.
Thứ ba, ngoài xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, vốn ODA cũng được ưu
tiên sử dụng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế... Các dự án sử dụng
vốn ODA trong lĩnh vực này góp phần đào tạo đội ngũ lao động trong
Trương Quang Chiến 11 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
tương lai có năng lực, trình độ và sức khỏe tốt phục vụ cho phát triển kinh
tế một cách bền vững và là một yếu tố vô cùng quan trọng cho khu vực
kinh tế FDI với các dự án đòi hỏi lao động có trình độ cao. Đây cũng là
kinh nghiệm sử dụng hiệu quả vốn ODA mà một số nước đã làm.
Thứ tư, cộng đồng quốc tế đã có nhiều đánh giá khá tích cực về công tác
quản lý và sử dụng vốn ODA của Chính phủ Việt Nam. Triển vọng vay
ODA của Việt Nam trong thời gian tới là khá thuận lợi. Điều này cũng đã
tạo dựng được lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế về khả năng phát triển
của kinht ế Việt Nam, giúp các nhà đầu tư vững tâm hơn khi xác định
mục tiêu kinh doanh lâu dài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác sử dụng kết hợp hai nguồn ngoại lực này trong thực
tiễn triển khai vẫn còn bộc lộ một số hạn chế sau.
Một là, thiếu định hướng rõ ràng trong việc kết hợp hai nguồn vốn. Sự
kết hợp hai nguồn vốn trên chủ yếu vẫn mang tính tự phát, chưa trở thành
nhận thức nhất quán của các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng và
các cán bộ chuyên trách, để từ đó đề ra chủ trương và chính sách hợp lý
nhất trong thu hút và sử dụng chúng. Bằng chứng là, hiện nay chưa hề có
văn bản pháp luật nào đề cập đến sự cần thiết phải kết hợp hai nguồn
vốn này. Đồng thời các bộ phận quản lý ODA và FDI còn hoạt động khá
độc lập với nhau. Có nghĩa là, công tác vận động ODA được tiến hành
độc lập với thu hút và sử dụng vốn FDI.
Hai là, nhiều địa phương không thu hút hoặc thu hút được ít vốn FDI do
cơ sở hạ tầng, yếu kém. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của Việt Nam là hạn chế sự phát triển mất cân đối giữa các vùng, miền.
Chính vì thế, trong công tác thu hút vốn FDI, Chính phủ đã có chủ trương
Trương Quang Chiến 12 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
hướng các nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, vào các
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa... Tuy nhiên, các chính sách ưu đãi của
Chính phủ chưa phát huy được tính năng tác dụng như mong muốn. Vốn
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ bé,
chưa đầy 8% tổng vốn FDI. Khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa thu hút
được ít dự án FDI, thậm chí một số tỉnh miền núi hiện nay chưa có dự án
đầu tư nước ngoài triển khai. Thực tế này tồn tại, theo các nhà đầu tư
nước ngoài, chủ yếu là do điều kiện kinh tế xã hội của khu vực nông
thôn, vùng sâu, vùng xa còn quá khó khăn, không đảm bảo cho các nhà đầu
tư tạo lợi nhuận. Hơn bao giờ hết, vốn ODA cần được ưu tiên để cải
thiện môi trường kinh tế xã hội của các vùng, miền này. Các công trình
xây dựng bằng vốn ODA sẽ là chất “xúc tác” vừa có tác dụng trước mắt,
vừa tạo sơ sở lâu dài để thu hút các nhà đầu tư quốc tế nhằm khai thác
tiềm năng sẵn có của các địa phương này, vì mục tiêu phát triển kinh tế và
nâng cao đời sống nhân dân.
Ba là, cơ cấu sử dụng vốn ODA mặc dù đã dành nhiều cho giáo dục, đào
tạo nhưng vẫn chưa đủ, hiệu qủa sử dụng chưa cao. Kết quả là chúng ta
vẫn thiếu nhiều lao động có trình độ.
Bốn là, chúng ta đã thực hiện vay vốn ODA của các tổ chức tài chính
quốc tế hơn một thập kỷ qua, lượng vốn vay cam kết đã lên đến con số
25 tỷ USD nhưng công tác đánh giá, đúc rút kinh nghiệm sử dụng vốn
ODA vẫn chưa được tiến hành một cách tổng thể. Việc đo lường hiệu
qủa sử dụng vốn ODA và xác định nguồn trả nợ vẫn chưa được quan tâm
đúng mức. Vấn đề này thực đáng lo ngại đối với Việt Nam khi mà thời
gian trả nợ ODA đã bắt đầu.
Trương Quang Chiến 13 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
Nguyên nhân của những bất cập trên đây có nhiều, cả về phía chủ quan
và phía khách quan. Để tháo gỡ vấn đề, nên triển khai một số công tác
sau:
Thứ nhất, cần sớm có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đất
nước dài hạn.
Việc thiếu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đất nước một cách đồng
bộ và dài hạn (khoảng 50 năm) trong thời gian gần đây đã được cấp, các
ngành tổng kết báo cáo là một trong những nguyên nhân rất lớn gây khó
khăn, cản trở trong phát triển nói chung, tạo ra những lãng phí trong sử
dụng các nguồn, trong đó có cả nguồn vốn ODA và FDI. Nhiều công trình
sử dụng vốn ODA dỡ bỏ hoặc chậm trễ thi công vì nhiều nguyên nhân,
nhiều công trình hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng phát huy hiệu quả
thấp vì đồng bộ do chưa có quy hoạch...
Ơ Việt Nam trong thời gian gần đây, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
còn ở tầm ngắn và trung hạn (dài nhất mới chỉ là 20 năm), các quy hoạch
còn thếu đồng bộ. Cần phải có sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác xây
dựng quy hoạch theo hướng tổng thể (trên phạm vi toàn quốc gia) và dài
hạn. Sau khi bản quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tổng thể và dài hạn
hoàn thành, Quốc hội nên công bố chúng bằng một đạo luật. Quy hoạch
tổng thể sẽ là một định hướng tốt cho công tác vận động vốn ODA và
nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn FDI.
Thứ hai, cần có chiến lược thu hút và sử dụng ODA và FDI trong từng
giai đoạn một cách đồng bộ, hợplý, gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh
tế xã hội của thời kỳ đó. Các chiến lược phát triển cụ thể là các bước đi
cần thiết để đạt được mục tiêu tổng thể mà kế hoạch dài hạn đã vạch ra.
Trương Quang Chiến 14 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
Chiến lược phát triển có thể được thiết kế trong khoảng thời gian 5, 10
hay 20 năm phù hợp với từng ngành, vùng. Trong đó, chiến lược thu hút và
sử dụng các nguồn vốn ODA và FDI nên theo hướng: i) Nằm trong tổng
thể nhu cầu vốn phát triển kinh tế xã hội của đất nước; ii) Xác lập được
danh mục ưu tiên sử dụng vốn ODA và dự án kêu gọi các nhà đầu tư
nước ngoài theo ngành và vùng kinh tế với các khối lượng cần thiết, cụ
thể; iii) Đề xuất được định hướng thu hút vốn từ các đối tác quốc tế,
trong đó có xác định rõ đối tác chiến lược; iv) Đưa ra được các chính sách
và giải pháp ưu tiên và khuyến khích thu hút và sử dụng vốn tương đối ổn
định trên nhiều giác độ như miễn giảm thuế, ưu đãi giá thuê đất...; v) Nêu
rõ các biện pháp về quản lý và thực hiện trả nợ nước ngoài.
Thứ ba, tiếp tục ưu tiên sử dụng vốn ODA cho các lĩnh vực xây dựng cơ
sở hạ tầng, giáo dục, đào tạo và y tế. Tăng cường kiểm soát quá trình sử
dụng vốn, tránh thất thoát và thường xuyên đánh giá tính hiệu quả xét cả
về mặt kinh tế và xã hội của các dự án khi hiệu quả sử dụng vốn ODA
cao hơn so với các nguồn tài trợ khác. Trong khâu đàm phán nên xác định
rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý vốn vay và nguồn trả nợ.
Thứ tư, cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm
khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất
khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Nhưng không nên
quy định cứng nhắc khiến cho các biện pháp ưu đãi có tác động ngược
chiều trở thành các rào cản đầu tư.
Thứ năm, cần có biện pháp thiết thực kêu gọi vốn ODA song phương từ
các nước có nhiều dự án FDI ở Việt Nam. Khi Việt Nam thoát khỏi nhóm
các nước nghèo và kém phát triển, vốn ODA đa phương do các tổ chức tài
Trương Quang Chiến 15 Lớp: CH
17N
- Môn học: Kinh tế đầu tư
chính quốc tế tài trợ sẽ giảm đi nhanh chóng. Do đó, cần có định hướng
vận động ODA song phương ngay từ bây giờ, và nên hướng vào các nước
có nhiều dự án FDI hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Cần có những
giải pháp ưu đãi cho các dự án FDI của các nước tài trợ nhiều vốn ODA
cho Việt Nam. Các chính sách này phải được sử dụng thật khéo léo, không
để xảy ra hiện tượng các nhà đầu tư quốc tế so bì về tính không công
bằng trong chính sách đối Chính phủ Việt Nam.
Trương Quang Chiến 16 Lớp: CH
17N
nguon tai.lieu . vn