Xem mẫu
- Đề tài " ĐƯƠNG SỰ
– CHỦ THỂ ĐẦU
TIÊN VÀ QUAN
TRỌNG NHẤT
CỦA HOẠT ĐỘNG
CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ"
- ĐƯƠNG SỰ – CHỦ THỂ ĐẦU TIÊN VÀ QUAN
TRỌNG NHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
QUÁCH MẠNH QUYẾT – LỚP DÂN SỰ B KHÓA 31 CHÍNH QUI, ĐẠI HỌC
LUẬT HÀ NỘI
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình gồm hoạt động của tòa
án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình
và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy định của pháp luật.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự có ba đặc điểm cơ bản:
- Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức diễn ra suyên
suốt vụ án dân sự, được bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn khởi kiện cho đến khi tòa án
ra phán quyết. Khởi đầu là việc chứng minh của nguyên đơn cho yêu cầu của mình thông
qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động chứng minh của bị đơn bác yêu cầu của nguyên
đơn, yêu cầu phản tố (nếu có), hoạt động chứng minh của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, của Viện kiểm sát (nếu có)… và kết thúc khi tòa án chứng minh cho phán
quyết của mình thông qua một bản án có giá trị bắt buộc thi hành.
- Bản chất của chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ.
Hai yếu tố cấu thành vụ án dân sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố khách quan
(bao gồm đối tượng – mục đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ quyền của
các chủ thể trước tòa án). Hoạt động chứng minh được xếp vào các yếu tố thuộc mặt
khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa là yếu tố cấu thành vụ án đã vốn có, vốn đã tồn
tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất. Hay nói cách
khác, hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử dụng chứng cứ để tái hiện lại
sự thật khách quan của vụ án.
- Là một yếu tố quan trọng nên khái niệm chứng cứ được luật tố tụng dân sự của nhiều
nước đề cập đến. Cá biệt còn có một số nước xây dựng luật về chứng cứ thể hiện sự quan
trọng của vấn đề này. Luật tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: “Chứng cứ là một tư liệu
thông qua đó một tình tiết được tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó
tòa án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay không?” hoặc theo điều 401 Luật
chứng cứ của Mỹ định nghĩa “Chứng cứ là những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại
của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó ảnh hưởng tới việc xác định
được một hành động hơn hoặc kém hơn”. Trong Luật TTDS 2004, khái niệm chứng cứ
lần đầu tiên được ghi nhận một cách tương đối đầy đủ tại Điều 81, theo đó:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do
bộ luật này quy định mà tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của
đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho
việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Quá trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ đúng đắn (thỏa mãn
ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp) bao gồm bốn giai đoạn
khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có
mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ có giai đoạn trước mới có giai đoạn sau, và giai đoạn
sau sẽ là cơ sở để đánh giá tính đúng đắn và triệt để của giai đoạn trước. Phải có hoạt
động thu thập, cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ và kết quả của họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những
nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và toàn diện hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có đầy đủ và đúng hay
không. Bốn giai đoạn này kéo dài, nối tiếp và đan xen nhau, không thể tách bạch cơ học
từ thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay đánh
giá chứng cứ. Nhưng có thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài suyên suốt quá
trình giải quyết vụ án dân sự, nó chỉ kết thúc khi tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể tòa
án cấp dưới đã ra quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại được giải quyết tiếp
theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát sinh hoạt động chứng minh
mới độc lập với hoạt động chứng minh trước đây.
- - Chủ thể của hoạt động chứng minh rất đa dạng
Như đã phân tích ở trên, chứng minh là làm cho rõ là đúng, là có thật. Trong một vụ án
cụ thể có rất nhiều ý kiến cần phải được chứng minh là đúng, là có thật đồng nghĩa với
việc chủ thể thực hiện hoạt động chứng minh là đa dạng. Nguyên đơn chứng minh cho
yêu cầu của mình, bị đơn chứng minh cho bác yêu cầu, yêu cầu phản tố (nếu có) tòa án
chứng minh cho phán quyết của mình, Viện kiểm sát chứng minh cho kháng nghị phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của mình… Ngoài ra, khi đương sự không đủ khả năng
tham gia tố tụng hoặc không hiểu biết về pháp luật, không có kinh nghiệm tố tụng họ có
thể nhờ người khác thay mình tham gia tố tụng từ đó phát sinh ra các chủ thể khác tham
gia tố tụng như người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự…
họ có quyền và nghĩa vụ không giống nhau xuất phát từ vị trí tố tụng cũng như thỏa thuận
giữa họ và đương sự nhưng đây cũng là những chủ thể của họat động chứng minh.
1. Đương sự – người phát động và giới hạn hoạt động chứng minh
Chứng minh là một quá trình nhận thức kéo dài suyên suốt vụ án với bốn giai đoạn kế
tiếp nhau liên tục là thu thập, cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, giai đoạn trước là
tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau củng cố và đánh giá giai đoạn trước. Tính liên tục
của bốn giai đoạn được khởi động bằng việc nguyên đơn nộp đơn khởi kiện. Đơn khởi
kiện chính là biểu hiện rõ nét nhất của quyền đi kiện (tố quyền) của cá nhân, cơ quan tổ
chức. Khi pháp luật thừa nhận cho một chủ thể những quyền năng nhất định cũng đồng
thời phải đảm bảo cho quyền năng ấy được thực hiện thông qua một thủ tục tố tụng và
nguyên đơn phải cụ thể hóa quyền đó bằng một đơn khởi kiện để yêu cầu bảo vệ, đây
chính là “gạch nối” giữa luật nội dung và luật hình thức. Khi được thụ lý, đơn khởi kiện
sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể trong BLTTDS buộc
nguyên đơn không thể tự xử để bảo vệ quyền lợi của mình, buộc bị đơn dù không muốn
cũng bị xét xử đồng thời với đó ràng buộc tòa án có thẩm quyền phải giải quyết yêu cầu
của nguyên đơn. Trong quá trình chứng minh nói chung lại diễn ra nhiều quá trình chứng
minh nhỏ như chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn, bác yêu cầu của bị đơn, yêu cầu
phản tố của bị đơn, yêu cầu của người thứ ba… nhưng có một điểm chung là tất cả các
- yêu cầu đó đều bắt đầu phát sinh từ đương sự hay đương sự là người bắt đầu hoạt động
chứng minh.
Theo nguyên tắc chung, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì nội dung của đơn kiện chỉ
coi là hợp lệ khi có “tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ
và hợp pháp” (điểm i khoản 2 Điều 164 BLTTDS), nếu không đáp ứng điều kiện này thì
đơn khởi kiện sẽ không được tòa án chấp nhận và tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện theo căn
cứ tại Điều 169 BLTTDS. Như thế, hoạt động chứng minh đã được bắt đầu và hoạt động
chứng minh này được thực hiện bởi nguyên đơn. Khi bị đơn, người thứ ba có yêu cầu thì
cũng phải chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp theo nguyên tắc tại điều
79 BLTTDS:
“1. Đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra
chứng cứ để chứnh minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối
đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.”
Bản chất của quá trình tố tụng là giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng giữa hai bên
nguyên – bị, lợi ích của một bên sẽ đồng thời là nghĩa vụ của bên kia. Vì thế cần thiết
phải có một bên thứ ba trung lập, khách quan đứng ra giải quyết và điều hòa lợi ích giữa
các bên – trọng trách này được giao cho nhà nước và thể hiện cụ thể là tòa án có thẩm
quyền với quyền lực cưỡng chế cũng như tính trung lập sẽ đảm bảo được quyền lợi hợp
pháp của các bên, duy trì trật tự và ổn định của xã hội. Tuy vậy, trách nhiệm của tòa án
cũng chỉ được thực hiện khi đương sự có yêu cầu, điều này thể hiện rõ nét nhất quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án nhận
thức của tòa án cũng dựa trên hoạt động chứng minh của đương sự. Là người đưa ra yêu
cầu, phát động tranh chấp nên thông thường đương sự là người bắt đầu của hoạt động
chứng minh và cũng chính từ yêu cầu của đương sự sẽ giới hạn hoạt động chứng minh
không chỉ của đương sự mà còn của tòa án và những chủ thể khác của hoạt động chứng
minh.
- Ví dụ khi nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà. Nguyên đơn phải
chứng minh mình có căn cứ cho yêu cầu hủy hợp đồng. Nếu bị đơn không đồng ý, họ sẽ
phải chứng minh điều ngược lại. Tòa án cũng chỉ cần kiểm tra hợp đồng đã được xác lập
là có hiệu lực pháp luật hay không? Hoạt động chứng minh trong vụ án này sẽ bắt đầu khi
nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và được tòa án thụ lý. Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn
sẽ thực hiện họat động chứng minh thông qua việc cung cấp những chứng cứ như hợp
đồng vô hiệu, bị đơn vi phạm nghĩa vụ đã cam kết… Toàn bộ quá trình chứng minh sẽ
xoay quanh hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên nguyên – bị. Mặc dù bị đơn có thể có
yêu cầu phản tố như yêu cầu bồi thường thiệt hại… nhưng nó cũng có liên quan mật thiết
với việc chứng minh hợp đồng trên có hay không hiệu lực pháp luật.
2. Đương sự – chủ thể chứng minh chủ yếu
Khi nguyên đơn sử dụng quyền đi kiện (hành xử tố quyền) của mình thì cũng là lúc vụ án
được phát động kéo theo đó là rất nhiều các chủ thể khác nhau bao gồm hai loại chính là
người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Mỗi
người một chức năng, nhiệm vụ khác nhau và trong đó, hầu hết đều liên quan đến hoạt
động chứng minh nhưng hoạt động chứng minh của đương sự là chủ yếu bởi một số điểm
như sau:
2.1. Đương sự là người thực hiện hầu hết công việc thu thập và cung cấp chứng cứ
Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự là một nghĩa vụ có tính lịch sử. Kế thừa điều
đó, BLTTDS 2004 đã quy định đương sự là người thu thập cung cấp chứng cứ chủ yếu,
tòa án chỉ tham gia thu thập trong một số ít trường hợp như như lấy lời khai của người
làm chứng khi xét thấy cần thiết (khoản 1 Điều 87 BLTTDS), đối chất khi thấy có sự mâu
thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng (khoản 1 Điều 88 BLTTDS),
định giá tài sản trong trường hợp các bên thỏa thuận mức giá thấp nhằm mục đích trốn
thuế hoặc giảm mức đóng án phí (điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS ). Còn lại, các biện
pháp thu thập chứng cứ khác được quy định tại chương VII BLTTDS – chứng cứ và
chứng minh, đều thuộc về đương sự như: đương sự có quyền được khai báo (Điều 86),
yêu cầu lấy lời khai của người làm chứng (Điều 87), yêu cầu đối chất (Điều 88), giám
- định, giám định bổ xung (Điều90), yêu cầu định giá tài sản (Điều 92), yêu cầu cơ quan tổ
chức, cá nhân đang nắm giữ giao chứng cứ (điểm b khoản 2 Điều 58)… Đương sự có thể
thực hiện quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình thông qua hai cách là tự mình thu
thập hoặc nhờ tòa án thu thập hộ khi đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 85:
“Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu
thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:
a) lấy lời khai của người làm chứng
b) Quyết định định giá tài sản
c) Xem xét, thẩm định tại chỗ
đ) ủy thác thu thập chứng cứ
e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự”
Nhìn chung, việc thu thập chứng cứ là trách nhiệm của đương sự đối với yêu cầu của
mình, họ có sự chủ động trong các thao tác thu thập, yêu cầu thu thập. Tuy nhiên không
thể nói là việc thu thập không có sự can thiệp của nhà nước bởi nếu không can thiệp sẽ
gây ra tình trạng lộn xộn và đôi khi chứng cứ thu thập được không có giá trị pháp lý.
BLTTDS đã quy định đầy đủ trình tự và điều kiện để đương sự thực hiện quyền năng
này, đây chính là vấn đề về thủ tục. Khi vi phạm về thủ tục luật định thì chứng cứ do
đương sự thu thập được cũng sẽ không được chấp nhận, tạo ra tính công bằng giữa các
bên.
Trong giai đoạn cung cấp chứng cứ thì đương sự chính là người cung cấp chứng cứ cho
tòa án. Đây chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ vụ án, chứng cứ nhiều hay ít
sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng cứ càng cụ thể, xác đáng bao nhiêu thì
việc tranh luận và trách nhiệm của tòa án càng đơn giản bấy nhiêu. Quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ của đương sự được quy định thành một nguyên tắc tố tụng “ Đương
sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án” (Điều 6) áp dụng chung cho cả
- các cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền lợi cho người khác. Người khởi kiện phải
thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ ngay khi nộp đơn khởi kiện tại tòa án theo quy
định tại Điều 165 BLTTDS “Người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Bị
đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi tòa án thông
báo về việc khởi kiện của nguyên đơn “Trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày nhận
được thông báo, người được thông báo phải nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình
đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có” (khoản 1
Điều 175). Trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền cung cấp chứng cứ ở bất
kỳ giai đoạn nào, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ sẽ phải chịu những
hậu quả về việc đó “Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền
và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án; Nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy
đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc không nộp đầy đủ đó…” (khoản 1
Điều 84 ). Tại phiên tòa sơ thẩm “Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp” (khoản 3 Điều 221). Đương sự còn có thể giao nộp chứng cứ tại cấp phúc
thẩm “kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ xung nếu có để chứng minh cho
kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm “đương sự,
Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ” (khoản 3 Điều 271). Trong giai
đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật, đương sự cũng có thể giao
nộp chứng cứ bổ sung tại tòa án hoặc viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của mình.
Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung cấp mở rộng
tại tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để đương sự có thể phát huy hết khả năng
của mình trong việc cung cấp chứng cứ.
2.2. Đương sự là người tham gia tích cực trong hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
Một trong những lý do để xếp hai hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cùng một
giai đoạn chứng minh là vì không thể tách bạch một cách cơ học rõ ràng từ thời điểm nào
đến thời điểm nào là giai đoạn nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Hai hoạt động này đan
xen, diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án đòi hỏi không những phải có hệ thống
chứng cứ đầy đủ mà còn đòi hỏi chủ thể nghiên cứu, đánh giá phải nhìn nhận một cách
- toàn diện, đặt hệ thống chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Yêu
cầu đặt ra là phải loại bỏ được những yếu tố mang tính “ngẫu nhiên”, tìm ra các yếu tố
“tất nhiên” – mang tính quy luật nội tại mới có thể nhận thức chính xác vụ án.
Thông thường, hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là của thẩm phán phụ trách giải
quyết vụ án hoặc các thành viên của hội đồng xét xử và phải tuân theo nguyên tắc đánh
giá chứng cứ được quy định tại Điều 96 BLTTDS:
“1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định
giá trị của từng chứng cứ.”
Quy định này là cần thiết vì tòa án là cơ quan phán xử đòi hỏi việc xem xét phải thật sự
công bằng và không thiên vị bên nào. Nhưng để tòa án nhận biết được nhanh nhất, khách
quan nhất thì các đương sự và một số chủ thể khác cũng có thể tham gia vào hoạt động
nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và thực tế đã cho thấy, rất nhiều vụ án hoạt động nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ của tòa án đạt hiệu quả cao lại dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh
giá của đương sự. Điều này thể hiện tính tích cực của đương sự trong hoạt động này.
Liên quan đến hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự, đương sự
có một số quyền như:
Đương sự có quyền “được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự
khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Khi có quyền được
biết này, đương sự sẽ có sự chủ động cao trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng
như tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương.
Tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa
(Điều 199, 200, 201), được nghe lời trình bày của các bên (Điều 221), được trình bày
quan điểm ý kiến của mình (Điều 197), được tham gia hỏi tại phiên tòa (Điều 222) và đặc
biệt BLTTDS đã dành một phần là mục 4 chương XIV để quy định về việc tranh luận
giữa các đương sự, đây là sự thể hiện rõ ràng nhất về vai trò của đương sự trong việc
- nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như trong quá trình chứng minh. Đây luôn là phần
hấp dẫn nhất của một phiên tòa khi mà các bên được tự do thể hiện ý chí, quan điểm của
mình, vận dụng những hiểu biết pháp lý và kinh nghiệm tố tụng để bảo vệ quan điểm đó.
Sự tranh luận này có hệ quả trực tiếp đến phán quyết của tòa án giải quyết vụ việc.
2.3. Vai trò chứng minh nổi bật của đương sự trong sự so sánh với các chủ thể khác của
hoạt động chứng minh
Chủ thể của hoạt động chứng minh là những người bằng hành vi của mình tham gia vào
quá trình xác minh có hay không những tình tiết khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hoặc
phản đối yêu cầu của các bên trong quá trình giải quyết vụ án. Chủ thể của hoạt động
chứng minh không chỉ có các đương sự mà còn nhiều người khác như người đại diện cho
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi
kiện bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích công cộng, Viện kiểm sát và Tòa án. Xuất phát
từ vị trí, vai trò của những chủ thể này là khác nhau khi tham gia quan hệ tố tụng nên vai
trò chứng minh và phạm vi chứng minh của họ cũng khác nhau tùy thuộc vào từng giai
đoạn tố tụng cụ thể. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng dù trực tiếp hay gián tiếp thì vai
trò chứng minh của các chủ thể này cũng phái sinh từ vai trò chứng minh của đương sự.
* Người đại diện của đương sự
Người đại diện của đương sụ trong tố tụng dân sự là người thay mặt cho đương sự trong
việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng cho đương sự. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại
diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì người đại diện theo pháp luật bao gồm có cha
mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, người được
tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đứng đầu pháp
nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, chủ hộ gia đình đối với gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác (Điều 142
BLDS), ngoài ra cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác cũng là người
- đại diện theo pháp luật cho người được khởi kiện (Điều 73 BLTTDS), người được tòa án
chỉ định để đại diện cho đương sự tham gia tố tụng (Điều 76 BLTTDS).
Người đại diện theo ủy quyền cũng là người thay mặt cho đương sự thực hiện những
quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng thông qua một giấy ủy quyền thể hiện ý chí của người
đại diện và người được đại diện, phạm vi đại diện được ghi nhận một cách cụ thể trong
giấy ủy quyền đó. Có thể đại diện một phần hay toàn bộ nhưng trong vụ án ly hôn, đương
sự không thể ủy quyền cho người khác tham gia thay mình.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự và trong hoạt
động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định tại điều 74 BLTTDS:
“1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng dân sự của đương sự mà mình đại diện.
2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền.”
Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền trong việc đề ra
các yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó. Nhưng dù là đại diện
theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của đương sự thì vai trò chứng minh của họ
cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trò chứng minh của đương sự. Đương sự không thể
hoặc có hạn chế nhất định không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình thì theo quy
định của pháp luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc tòa án sẽ chỉ
định người đại diện cho họ. Hoạt động chứng minh của người đại diện là “thay mặt”
đương sự, hành vi chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương sự và hướng đến
việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách đại
diện của họ cũng chấm dứt.
Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh hạn chế hơn. Còn đương sự là
chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ gắn với đó, họ là người hiểu nhất về quyền
- và nghĩa vụ của mình, về nguyên nhân phát sinh tranh chấp, về thực trạng quan hệ pháp
luật của mình… nên hoạt động chứng minh sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và
tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
(khoản 1 Điều 64 BLTTDS). Những người này có thể là luật sư hoặc bất cứ chủ thể nào
đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một chủ thể của hoạt động chứng minh,
họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, được tham gia phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Liên quan đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền:
“2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ
án và được sao chụp những tài liệu cần thiết trong hồ sơ để thực hiện việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ” (Điều 64 BLTTDS).
Trong trường hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đương sự khi được “nhờ”, đương sự vẫn là
người đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản yêu cầu nhưng do có hạn chế về mặt
pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên họ phải cầu cứu đến sự hỗ trợ, những người
này chỉ có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh, việc chứng minh được hay không
không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương
sự có thể không có mặt tại phiên tòa ( Điều 203 BLTTDS ).
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, vị trí pháp lý của người bảo vệ
quyền lợi của đương sự không có gì khác so với đương sự vì họ cùng thuộc nhóm người
tham gia tố tụng. Họ không có quyền thay mặt đương sự mà chỉ có thể giúp đỡ đương sự.
Suy cho cùng, trong hoạt động chứng minh đương sự vẫn tự mình quyết định, tự mình
- thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Điều này cũng là một minh chứng cụ thể cho vai trò nổi
bật của đương sự.
* Viện kiểm sát
Viện kiểm sát tham gia quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động là tham gia phiên
tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Viện kiểm sát tham gia phiên tòa “đối với những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ mà
đương sự có khiếu nại” (khoản 2 Điều 2 ) cụ thể là những vụ án do tòa án thu thập chứng
cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 hoặc những vụ án mà tòa án tự mình tiến hành một
hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản 2
Điều 88, điểm b khoản 1 Điều 92. Khi đó, tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho
viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc
thẩm đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền
giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục
tái thẩm)[25] trong một thời gian luật định để tiến hành xem xét.
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét thấy có căn cứ, khi
đó viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều
251, khoản 5 Điều 287 BLTTDS, có quyền nghiên cứu hồ sơ (Điều 262), tham gia phiên
tòa (khoản 2 Điều 264), có quyền phát biểu ý kiến (điểm b khoản 1 Điều 271, khoản 1
Điều 295, Điều 310)…
Như vậy, với hành vi kháng nghị Viện kiểm sát cũng tham gia hoạt động chứng minh một
cách hết sức tích cực. Tuy nhiên, đây là nghĩa vụ của Viện kiểm sát do luật định, sau khi
đương sự thực hiện hoàn tất quyền và nghĩa vụ của mình thì trong nhiệm vụ kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát xét thấy việc xét xử của tòa án là chưa công bằng nên
thực hiện quyền kháng nghị của mình. Cũng tương tự, khi đương sự có yêu cầu, khiếu nại
đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì để đảm bảo khách quan, Viện kiểm sát phải
tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như pháp chế của nhà nước – đây là một
nghĩa vụ phái sinh vì nếu đương sự không thực hiện hoạt động chứng minh thì viện kiểm
sát cũng không thể thực hiện hoạt động chứng minh của mình.
- * Tòa án
Để nghiên cứu vai trò chứng minh của tòa án cần nhận thức rõ thái độ cụ thể của tòa án
khi tiến hành tố tụng dân sự. Tòa án – thể hiện cụ thể trong một vụ án dân sự là thẩm
phán tiến hành giải quyết vụ án đó giữ thái độ trung lập (bởi đây là những tranh chấp
mang tính chất “tư”), đề ra đối tượng chứng minh và đốc thúc, hỗ trợ hoạt động chứng
minh của các bên đương sự. Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu dựa trên sự chứng
minh của đương sự. Khi đương sự trình bày sự kiện, xuất nạp giấy tờ, yêu cầu của mình
và liên hệ trực tiếp đến yêu cầu đó bằng những chứng cứ, kết quả sẽ tùy thuộc vào việc
có hay không những bằng cớ cụ thể. Như vậy, mục đích của việc chứng minh là khác
nhau. Trong khi tòa án phải chứng minh tính khách quan trong vụ án, phán quyết đưa ra
phải công bằng với cả hai bên trong phạm vi hoạt động chứng minh của họ thì đương sự
lại chứng minh cho yêu cầu của mình cũng như hoàn toàn có thể phủ nhận yêu cầu hay
phản yêu cầu của đương sự bên kia.
Vai trò chứng minh của tòa án thể hiện ở một số quyền và nghĩa vụ như: tự mình tiến
hành thu thập chứng cứ trong một số trường hợp quy định tại mục 1.2 phần IV nghị quyết
số 04/2005/NQ – HĐTP ngày 19/9/2005 của HĐTPTANDTC về chứng cứ và chứng
minh. Yêu cầu đương sự nộp bổ sung chứng cứ khi “xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ
việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết” (khoản 1 Điều 85). Theo yêu cầu của đương sự
tòa án sẽ quyết định các biện pháp thu thập chứng cứ như định giá tài sản, lấy lời khai
của người làm chứng, quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung, đối chất… có
quyền nghiên cứu, đánh giá chứng cứ theo điều 96, 97 BLTTDS, đây là điều hiển nhiên
vì tòa án là người tiến hành hoạt động lập hồ sơ vụ án cũng như căn cứ vào đó để giải
quyết. Tại phiên tòa, HĐXX có quyền hỏi những người tham gia phiên tòa như đương sự,
người làm chứng…
Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu trong giai đoạn nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
mà những chứng cứ này là do đương sự cung cấp. Như đã làm rõ, không có giai đoạn thu
thập, cung cấp chứng cứ thì cũng sẽ không có giai đoạn nghiên cứu đánh giá chứng cứ.
Tuy nhiên cũng không thể nào nói rằng hoạt động chứng minh do tòa án và đương sự
thực hiện mỗi người một nửa vì đương sự cũng thực hiện việc nghiên cứu đáng giá chứng
- cứ tại phiên tòa cũng như được quyền biết, sao chép… tạo cơ sở cho việc tranh luận. Tòa
án cũng thu thập chứng cứ mặc dù có hạn chế nhưng việc hỗ trợ đương sự thu thập chứng
cứ được thể hiện rõ ràng. Đây là những hoạt động xen kẽ nhau, bổ sung cho nhau nhưng
vai trò của đương sự thể hiện rõ ràng hơn trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình – bản
chất của tố tụng dân sự. Việc đương sự có chứng minh được hay không sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến phán quyết của tòa án “lý luận và thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân
sự của tòa án đã cho thấy, việc không chứng minh được một sự kiện liên quan đến vụ việc
dân sự có thể kéo theo việc ra một quyết định không có cơ sở làm sâm phạm đến quyền
lợi của các bên đương sự không hoàn thành được nghĩa vụ chứng minh của họ”. Như
vậy, vai trò chứng minh của đương sự rõ nét hơn tòa án. Hoạt động chứng minh của
đương sự là cơ sở cho hoạt động chứng minh của tòa án và bản án là một sự ghi nhận lại
kết quả quá trình chứng minh của đương sự.
3. Những giải pháp cụ thể để hiện thực các quy định của pháp luật về vai trò chứng
minh của đương sự
Trong quá trình nghiên cứu BLTTDS 2004 về vai trò chứng minh của đương sự có thể
nhận thấy một số điểm còn hạn chế. Dưới đây xin đi vào chỉ rõ những hạn chế đó đồng
thời đưa ra những giải pháp cụ thể để giải quyết
3.1 Tạo điều kiện để đương sự có thể tiếp cận, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
Thứ nhất, theo quy định của bộ luật TTDS hiện hành thì các đương sự có quyền “được
biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa
án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Tuy nhiên, trên thực tế quyền quan trọng này của
đương sự rất khó có thể thực hiện được. Thông thường thì chỉ khi nguyên đơn khởi kiện
thì các tài liệu chứng cứ và đơn khởi kiện được thông báo cho phía bị đơn, những người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được biết (Điều 174 – BLDS) và từ đó họ sẽ có văn bản
trả lời (Điều 175 – BLDS). Còn trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án dân sự khi các
bên xuất trình chứng cứ mới hay những chứng cứ do tòa án thu thập được thì các bên
đương sự chỉ có “quyền được biết” thông qua hoạt động sao chụp tài liệu, chứng cứ ở tòa
án. Nhưng chính quyền được biết này lại mang tính chất chung chung khi không quy định
- một cách cụ thể ai là người phải thông báo cho đương sự khi có những chứng cứ mới
được đưa ra. Khi có yêu cầu sao chụp phải có đơn yêu cầu và trong đơn “phải ghi cụ thể
những tài liệu, chứng cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp”. Khi đương sự đã không biết
những chứng cứ, tài liệu do bên kia cung cấp thì làm sao biết được mình cần sao chụp
những gì? Đây là một quy định không thực tế. Đặt trong hoàn cảnh cụ thể tại Việt Nam
khi mà trình độ hiểu biết còn thấp việc hiểu biết về luật TTDS còn hạn chế nên không thể
nào biết cũng như thực hiện quyền này của mình. Cá biệt trong nhiều trường hợp chứng
cứ được cung cấp tại cấp phúc thẩm, các bên đương sự còn lại không thể có thời gian thu
thập những chứng cứ để phản bác lại lập luận dựa trên chứng cứ mới của bên kia gây bất
lợi cho họ
Chính vì vậy, BLDS nên tiếp thu một số kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới như
Pháp, Liên Bang Nga cũng như pháp luật tố tụng dân sự trong một số thời kỳ ở nước ta
về việc quy định bắt buộc các bên đương sự khi cung cấp một chứng cứ mới cho tòa án
để giải quyết yêu cầu của mình thì đồng thời với đó phải thông báo bằng văn bản hoặc có
thể photo một bản cung cấp cho bên còn lại – Đây được gọi là nguyên tắc đối tịch[36].
Nguyên tắc này vẫn có thể dẫn đến tình trạng bên được thông báo cố tình phủ nhận việc
thông báo đó gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Nên các văn bản hoặc tài liệu photo
này sẽ được chuyển cho bên còn lại thông qua tòa án – một cơ quan nhà nước có hoạt
động chặt chẽ sẽ đảm bảo được tính nhanh chóng và quyền lợi của các bên. Nếu bên cung
cấp chứng cứ cố tình không cung cấp bản sao hoặc văn bản thông báo cho bên còn lại thì
có thể áp dụng biện pháp phạt tiền để cưỡng chế. Thời gian thông báo do thẩm phán ấn
định tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể vì có thể thời gian chuẩn bị xét xử còn lại ngắn
nhưng cần giới hạn trong khoảng từ 1 – 5 ngày. Đối với những trường hợp đương sự
cung cấp chứng cứ mới tại cấp phúc thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 271 BLTTDS
cần có quy định bổ xung là các chứng cứ mới này trước đó đương sự “không biết” hoặc
“không thể biết” để tránh trường hợp đương sự cố tình dấu diếm chứng cứ không cung
cấp nhằm kéo dài quá trình tố tụng hoặc để gây bất lợi cho đương sự khác vì bản án phúc
thẩm có hiệu lực thi hành ngay. Khi không thể làm rõ về sự “không biết” hoặc “không
thể biết” này thì không thể phủ nhận những chứng cứ này vì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi
- của người đưa ra chứng cứ, nên có thể quy định về chế tài phạt phải chịu án phí đối với
những đương sự cố tình dấu diếm chứng cứ đến cấp phúc thẩm mới cung cấp.
Thứ hai, trên thực tế có thể thấy hoạt động chứng minh là chỉ cho thấy rõ là đúng, là có
thật bằng lý lẽ hoặc bằng chứng cứ đây là công việc chủ yếu của đương sự. Tuy nhiên,
việc có công nhận là đúng, là có thật hay không lại thuộc về tòa án. Hiện nay các tòa án
vẫn thường có quan niệm rằng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về phía đương sự, còn
nghĩa vụ chứng minh thuộc về tòa án. Đồng nhất nghĩa vụ cung cấp chứng cứ với nghĩa
vụ chứng minh, các bên đương sự chỉ thực hiện một phần nhỏ quyền, nghĩa vụ nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa. Đây là một nhận định hoàn toàn sai lầm. Do đó, cần
thiết phải để các đương sự tham gia vào đầy đủ các giai đoạn của hoạt động chứng minh
từ thu thập, cung cấp đến nghiên cứu đánh giá chứng cứ mới có thể phát huy được vai trò
quan trọng và trung tâm của họ.
Một trong các biện pháp có thể áp dụng để khắc phục được nhược điểm này là hình thành
một phiên tòa trù bị. Phiên tòa trù bị sẽ do một thẩm phán được phân công xét xử vụ việc
đó chủ trì. Phiên tòa bao gồm các bên đương sự, họ sẽ được xem xét toàn bộ các chứng
cứ có trong hồ sơ đồng thời đưa ra nhận định của mình thể hiện quyền nghiên cứu đánh
giá chứng cứ. Phiên tòa trù bị sẽ không có bất cứ một phán quyết nào được đưa ra. Tuy
nhiên, nó sẽ có vai trò vô cùng quan trọng tác động đến thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi
đó họ sẽ có một cái nhìn khách quan hơn toàn diện hơn về vụ việc có tranh chấp. Đồng
thời với đó là các bên đương sự có thể nhận định một cách tỉ mỉ về vụ án, chuẩn bị tốt
nhất cho phiên tòa chính thức diễn ra theo đúng quan điểm tranh tụng, phát huy dân chủ
đối với các bên và tăng cường được sự tin tưởng của đông đảo nhân dân. Phương án này
có thể dẫn đến một khó khăn khác là gây ra việc kéo dài tố tụng cũng như tốn kém thời
gian. Tuy nhiên, chỉ với một thẩm phán tham gia chủ trì cũng như thời gian tiến hành
ngắn (chỉ một ngày) so với hiệu quả thiết thực mà nó mang lại thì phương án này hoàn
toàn có thể chấp nhận được.
Thứ ba, một trong những vướng mắc diễn ra khá phổ biến trong thời gian vừa qua khi áp
dụng bộ luật TTDS liên quan đến việc tiếp cận chứng cứ của đương sự chính là ở chỗ các
chứng cứ, tài liệu nằm trong sự kiểm soát của các cá nhân, cơ quan tổ chức khác mà họ
- lại không phối hợp giúp đỡ các đương sự cũng như tòa án trong việc cung cấp các loại
chứng cứ này. Có thể thấy rằng thời gian tiến hành họat động tố tụng đối với một vụ án
cụ thể thường rất ngắn (thông thường từ 2- 4 tháng) nếu như những cá nhân, cơ quan tổ
chức này cố tình kéo dài, không cung cấp chứng cứ thì sẽ làm cho việc tự bảo vệ của
đương sự khó khăn hơn rất nhiều. Cá biệt có trường hợp khi tòa án yêu cầu cung cấp
chứng cứ thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức này chỉ cung cấp một cách vụn vặt các chứng
cứ hoặc ở mỗi giai đoạn lại cung cấp những chứng cứ khác nhau thậm chí đối lập nhau
ảnh hưởng lớn đến tính ổn định của bản án.
Bộ luật TTDS hiện hành chỉ quy định một cách rất chung chung về nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức tại đoạn 2 khoản 2 Điều 94 “ Cá nhân, cơ
quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời
chứng cứ theo yêu cầu của tòa án trong thời hạn mười năm ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu” mà không có quy định cụ thể để đảm bảo nghĩa vụ đó. Vì vậy, cần có một
hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ
chức. Theo đó, khi không thể cung cấp được chứng cứ thì phải thông báo cụ thể bằng văn
bản đồng thời với đó là quy kết trực tiếp vấn đề trách nhiệm. Đối với tổ chức thì quy
trách nhiệm cụ thể về người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó để họ có thể thực hiện nghĩa
vụ này mà không hề có sự cản trở nào. Đối với cá nhân, nếu không cung cấp hoặc cung
cấp không kịp thời thì có thể quy định vấn đề phạt tiền để răn đe tùy thuộc vào tính chất
cũng như mức độ vi phạm.
3.2 Tạo điều kiện để đương sự có thể tự bảo vệ
Đương sự có vai trò quan trọng hàng đầu, họ phải tự bảo vệ lấy quyền và lợi ích của mình
khi có tranh chấp xảy ra phù hợp với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, điều
này khác hẳn so với trong tố tụng hình sự khi mà bị can bị cáo có quyền chứ không có
nghĩa vụ chứng minh. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự là thuộc về phía tòa án
đương sự hoàn toàn có thể “im lặng” mà quyền và lợi ích của họ trong một chừng mực
nhất định vẫn được bảo đảm. Mặc dù vậy, có thể khẳng định ngay rằng khả năng tự bảo
vệ của đương sự trong tố tụng dân sự là rất thấp nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ
dân chí chưa cao, sự hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế đặc biệt là ở các vùng sâu vùng
- xa khi mà người dân đã đi kiện cơ quan điện lực vì đã trồng cột điện “nhìn” vào bàn thờ
nhà mình… thì hoàn toàn có thể nhận thấy rằng đây là những đối tượng cần được đặc biệt
quan tâm. Năm 1997 Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 734/TTg về việc
thành lập tổ chức pháp lý hỗ trợ cho người nghèo và đối tượng chính sách. Tiếp đó, ngày
29/6/ 2006 Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật trợ giúp pháp lý, ngày 23
tháng 6 năm 2008 Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 792/QĐ- TTg về
việc phê duyệt đề án “Quy hoạch mạng lưới trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và chi
nhánh của trung tâm giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015” đã đánh dấu
bước chuyển biến quan trọng về vấn đề này. Tuy nhiên theo các văn bản trên đối tượng
được hưởng sự hỗ trợ chỉ là đối tượng đói nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào
các dân tộc thiểu số, người già, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa[37]… Hơn nữa
các cơ quan được thành lập chỉ có ở cấp tỉnh (biên chế khoảng 16 người) và các chi
nhánh thành lập ở các đơn vị hành chính cấp huyện (biên chế khoảng 3 người). Như vậy
là chưa đủ trong điều kiện các tranh chấp ngày càng phức tạp và phát sinh ngày càng
nhiều hơn với nhiều đối tượng khác nhau và không phải ai cũng đủ hiểu biết để có thể
biết được các tổ chức này. Cần thiết phải tạo ra một cơ chế hỗ trợ tất cả các đương sự
ngay từ ban đầu, thậm chí là trước khi khởi kiện mà phải gần gũi với nhân dân.
Giải pháp được đưa ra đối với các trường hợp này có thể là thành lập các tổ trợ giúp pháp
lý thuộc cấp huyện, trong một số địa phương có số lượng tranh chấp dân sự nhiều có thể
tiến tới thành lập tại các xã, phường, thị trấn, các doanh nghiệp… Những tổ trợ giúp này
có thể nằm trong các hội như Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Công
Đoàn… số lượng chỉ khoảng 1-2 người vì hoạt động mang tính thường xuyên và chỉ có
vai trò tư vấn. Chức năng của các tổ tư vấn này bao gồm cả việc giúp đỡ đương sự khi có
ý định khởi kiện, đề ra các đối tượng cần chứng minh trong mỗi vụ án cụ thể hay nói cách
khác là “bày” cho đương sự biết cần phải làm gì để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích
của mình. Khi đó, đương sự hoàn toàn có thể chủ động trong việc tìm kiếm và thu thập
chứng cứ, giảm đáng kể gánh nặng cho ngành tòa án. Đây cũng là một biện pháp hữu
hiệu để giảm thiểu các tranh chấp phát sinh vì khi được tư vấn các bên sẽ đánh giá, nhìn
nhận chính xác khả năng thắng kiện của mình và đưa ra quyết định thích hợp có hay
không khởi kiện ra tòa án.
- Ngoài ra, khi đương sự không có đủ khả năng về kiến thức pháp lý cũng như kinh nghiệm
tố tụng trước tòa án thì họ có thể nhờ những người đáp ứng được yêu cầu này tham gia tố
tụng, thay mặt mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Đây chính là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông thường, họ là những luật sự – những
người được đào tạo một cách bài bản về công tác pháp lý, có kinh nghiệm tố tụng nhưng
cũng có thể là những người khác khi đương sự có đủ sự tin tưởng vào khả năng của họ.
Trong điều kiện hạn chế về nhận thức thì đây là giải pháp quan trọng để đương sự có thể
tự bảo vệ mình. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp sẽ hướng dẫn để đương sự có
thể biết được cần phải thu thập những tài liệu, chứng cứ gì để làm cơ sở cho yêu cầu hay
phản yêu cầu của mình, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Đồng thời nếu được tham gia
sớm họ có thể tư vấn cho đương sự của mình biết được những điểm mạnh, những bất lợi.
Hoạt động này tạo điều kiện tốt nhất để đương sự nhìn nhận một cách thấu đáo về khả
năng thắng kiện của mình, giúp cho việc hòa giải có thể diễn ra thuận lợi, giảm đi tương
đối các vụ tranh chấp phát sinh tại tòa án[39]. Hiện nay vai trò của người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được trú trọng quan tâm cũng như thiếu đi cơ chế
để đảm bảo cho họ có thể tham gia một cách nhanh chóng, dễ dàng. Người bảo vệ quyền
và lợi ích cho đương sự chỉ tham gia khi đã có tranh chấp sảy ra, hồ sơ của vụ án đã
tương đối hoàn thiện công việc của họ chỉ là đi tìm kiếm những căn cứ có lợi cho thân
chủ của mình trong phạm vi hạn hẹp của bộ hồ sơ đã hình thành tại tòa án.
Chính vì vậy, một trong các biện pháp để tăng cường sự tự bảo vệ của đương sự là
khuyến khích sự tham gia từ phía luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Trong điều kiện hiện tại, không thể đòi hỏi sự tham gia của luật sư mang tính
chất bắt buộc như trong hoạt động tố tụng dân sự của Pháp[40], tuy nhiên có thể mở rộng
các biện pháp cụ thể khuyến khích sự tham gia của họ như giảm bớt các thủ tục xác lập
khi tham gia, phổ biến quyền được nhờ luật sư, người bảo vệ ngay khi tòa án thụ lý đơn
khởi kiện, yêu cầu các đoàn luật sư tỉnh, thành phố tham gia giải quyết một số vụ việc cụ
thể của những đối tượng cụ thể như đối tượng chính sách, gia đình nghèo…
Một trong các biện pháp để đương sự có thể chủ động bảo vệ mình khi tham gia tố tụng
dân sự đó là trao trả đương sự một số quyền thu thập chứng cứ. Chứng cứ là vấn đề mấu
chốt trong các tranh chấp dân sự, không có chứng cứ thì cũng không có hoạt động chứng
nguon tai.lieu . vn