Xem mẫu
- Trường Đại học NGoại Thương
Khoa Kinh tế ngoại thương
Khoá luận
tốt nghiệp
Đề tài:
Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn
ngạch
GV hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Trung Vỳn
Sinh viờn thực hiện : Đoàn Thanh Tỳ
Lớp : Trung 1
Khỳa : 38E
Hà Nội 12/2003
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
lời nói đầu
ở Việt Nam, ngành dệt may trong các năm qua cũng được quan tâm đầu
tư, mở rộng năng lực sản xuất, và cũng trải qua bao thăng trầm bởi thị
trường quốc tế và cơ chế quản lý trong nước. Đến nay, kim ngạch ngành
dệt may năm 2002 đạt mức 2,7 tỷ USD, chiếm gần 15% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước, chỉ đứng sau xuất khẩu dầu thô. Xuất khẩu dệt may đó
tạo dựng được bước phát triển khởi sắc đáng mâng.
Để thực hiện thắng lợi chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước hiện nay ngành công nghiệp nói chung cần duy trì tốc độ tăng trưởng
bình quân 15%/năm, trong đó ngành dệt may cần có tốc độ tăng trưởng cao
hơn, nhằm đảm bảo môc tiờu tăng trưởng chung, và tiến kịp các nước
ASEAN trong lộ trình hội nhập. Để đi xa hơn nữa, ngành dệt may xuất
khẩu Việt Nam đang có nhiều việc cần làm: đổi mới công nghệ hàng loạt
cơ sở sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh
quốc tế, chuyển mạnh hơn nữa hình thức gia công xuất khẩu sang xuất
khẩu trực tiếp, mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu v.v...
Kết cấu đề tài gồm 3 chương sau:
Chương I: Tổng quan về một số thị trường dệt may phi hạn ngạch
trờn thế giới
Chương II: Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam những năm qua
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 15 tháng 12 năm 2003
chương 1
Tổng quan về một số thị trường dệt maY phi hạn ngạch trờn thế
giới
Hiện nay, thế giới đang tồn tại hai hình thái thị trường dệt may chủ
yếu. Đó là thị trường hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch (nếu căn cứ
vào tiờu chớ có sự ấn định về mặt số lượng của nước nhập khẩu đối với
nước xuất khẩu). Thị trường hạn ngạch gồm những nước và khu vực như
thị trường EU, thị trường Canada,... Thị trường phi hạn ngạch gồm các
nước và khu vực không hạn chế mức nhập khẩu và chủ yếu phô thuộc vào
khả năng cạnh tranh của chớnh sản phẩm đó
Khoá luận sẽ tập trung nghiờn cứu nhưng thị trường phi hạn ngạch
điển hình là: Nhật Bản, SNG (chủ yếu là Nga) và Châu Phi. Ngoài ra khoá
luận cũn nờu tóm tắt một số thị trường khác như ASEAN, ễxtraylia và
Trung Đông.
1. Thị trường Nhật Bản, một thị trường khó tớnh nhưng đầy hấp dẫn
Thị trường Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn
thứ 3 của Việt Nam, chiếm 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
Việt Nam, chỉ đứng sau thị trường Mỹ và thị trường EU. Tuy nhiờn nếu với
thị trường EU và thị trường Mỹ hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam bị
hạn chế bởi hạn ngạch thì khi chóng ta xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật
Bản lại không phải chịu hạn ngạch. Như vậy, có thể khẳng định rằng Nhật
Bản là thị trường nhập khẩu hàng dệt may phi hạn ngạch lớn nhất của
Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại. Vậy thị trường Nhật Bản có những
đặc điểm gì ?
1.1. Mức tiờu thô
Nhật Bản là một thị trường mở, có quy mô tương đối lớn đối với các
nhà xuất khẩu hàng may mặc nước ngoài. Với số dân là 126,9 triệu người
và mức thu nhập bình quân hàng năm vào khoảng 30.039 USD/người, Nhật
Bản là nước nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ hai trờn thế giới hiện nay.
Tuy nhiờn việc mua sắm của người Nhật Bản đối với các sản phẩm nói
chung và các sản phẩm may mặc nói riờng đều khác biệt với các thị trường
như Mỹ và EU hay bất kó một thị trường nào khác. Một trong những
nguyờn nhân là Nhật Bản đang đối mặt với sự thay đổi giữa các nhóm tuổi
trong xó hội theo hướng già hoá dân số tương đối nhanh chóng. Theo một
nghiờn cứu về xu hướng thay đổi dân số Nhật Bản giai đoạn 1990-2025
cho thấy: năm 2000 nhóm tuổi tâ 15-29 là 16 triệu người thì tới năm 2010 sẽ
giảm xuống cũn 12,3 triệu người và đến năm 2025 chỉ cũn 10,8 triệu người.
Số dân có độ tuổi tâ 30-59 cũng có mức giảm đáng kể qua các năm như năm
2000 có 42,7 triệu người, đến năm 2010 giảm xuống 42,2 triệu người, năm
2025 độ tuổi này chỉ cũn 38,7 triệu người. Trong khi đó nhóm dân số có độ
tuổi tâ 60-64 lại tăng lờn. Năm 2000 có 4,4 triệu người nhưng đến năm
2025 sẽ tăng lờn 5,3 triệu người, nhóm dân số có độ tuổi trờn 65 cũng có
mức tăng như vậy. (Tạp chớ công nghiệp Việt Nam số 12/2003)
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
Xu hướng già hoá dân số của Nhật Bản sẽ làm thay đổi mạnh mẽ cách
thức tiờu dựng hàng hoá, sự lựa chọn, sở thớch, thói quen, tâm lý tiờu dựng,
đồng thời nó cũn tác động đến mức chi tiờu của người Nhật Bản. Nếu như
trước đây, vào thập niờn 80, các gia đình Nhật Bản đoạt ngôi vô địch về tỷ
lệ gửi tiền tiết kiệm so với thu nhập nhưng giờ đây tỷ lệ này chỉ tương
đương với người Mỹ vốn quen thói tiờu hoang. Theo số liệu mới nhất của
chớnh quyền Nhật Bản cho thấy tỷ lệ tiền tiết kiệm so với thu nhập của
các hộ gia đình người Nhật giảm tâ 23% năm 1975 cũn 14% năm 1990;
6,9% năm 2001; 4% năm 2002 và 2% vào quý I năm 2003 (Tạp chớ công
nghiệp Việt Nam số 31/2003). Tỷ lệ này thậm chớ cũn thấp hơn cả tỷ lệ
tiết kiệm 3,5% của người Mỹ và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 10% ở Liờn
minh Châu Âu (EU). Sự giảm sót về tỷ lệ tiền tiết kiệm khiến cho mức chi
tiờu so với thu nhập của người Nhật Bản tăng lờn. Do vậy sẽ không hề
ngạc nhiờn khi kết quả một cuộc điều tra về người tiờu dựng Nhật Bản
cách đây hai năm về tiờu chớ mà họ quan tâm nhất khi chọn mua hàng may
mặc đó cho thấy: giữa hai tiờu chớ là giá cả và chất lượng, người tiờu
dựng Nhật Bản có xu hướng ưu tiờn giá cả hàng may mặc hơn chất lượng
hàng hoá một cách tương đối.
Vậy nhưng theo kết quả một nghiờn cứu mới đây của các chuyờn gia
tổ chức xóc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cho biết, có đến 42%
người tiờu dựng chọn mua hàng may mặc dựa theo kiểu dáng; 25% khách
hàng lựa chọn theo chất lượng; 21% lựa chọn theo nhón mác; 12% khách
hàng lựa chọn theo giá cả (Tạp chớ công nghiệp Việt Nam số 12/2003). Qua
những con số trờn chóng ta có thể thấy rằng đó có một sự thay đổi trong xu
hướng tiờu dựng của người Nhật Bản một cách tương đối, tâ quan tâm đến
giá cả giờ chuyển sang quan tâm nhiều hơn đến chất lượng mặc dự tâ
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
trước đến nay người Nhật Bản vẫn luôn khắt khe và khó tớnh thậm chớ
cũn được đánh giá là thị trường khó tớnh nhất thế giới. Đặc biệt đối với
hàng dệt may, người Nhật chó ý đến tâng đường kim mũi chỉ, sản phẩm
không được có sai sót gì dự là nhá nhất.
Vậy là với mức chi tiờu "thoáng" hơn, giờ đây người Nhật Bản sẵn
sàng trả giá cao để mua những sản phẩm chất lượng tốt, tớnh thời trang
thẩm mỹ cao. Sản phẩm cũn phải thể hiện được những nột đặc trưng của
nơi sản xuất về truyền thống văn hoá, nguyờn vật liệu bởi họ quan niệm
rằng một sản phẩm may mặc không chỉ đáp ứng nhu cầu thông thường là
để mặc, mà nó cũn là một sản phẩm nghệ thuật làm đẹp cho người sử
dông. Họ trở nờn tin tưởng và dễ dàng bá tiền ra mua những sản phẩm đạt
tiờu chuẩn chất lượng của Nhật Bản như tiờu chuẩn công nghiệp Nhật
(JIS) hoặc các tiờu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, SA 8000.
Người tiờu dựng Nhật Bản cũng sẵn sàng tâ chối những sản phẩm làm theo
kiểu dáng "hàng nhái" cho dự bán với giá rẻ hoặc những sản phẩm có
những vết xước, vết bẩn trờn bao bì, những sợi chỉ sợi bông cũn sót lại trờn
bề mặt sản phẩm, kể cả sản phẩm sắp xếp không ngăn nắp đẹp mắt, bị xô
lệch. Đây có thể sẽ là những gợi ý để doanh nghiệp Việt Nam tham khảo
khi muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản vì hiện tại
nhiều chuyờn gia kinh tế Nhật Bản đều có chung một nhận xột về hàng
may mặc xuất khẩu của Việt Nam: mặc dự hàng may mặc Việt Nam đạt
chất lượng tốt nhưng không đồng đều, không ổn định, kiểu dáng mẫu mó
rất nghốo nàn và chưa thể hiện được những yếu tố đặc trưng của sản
phẩm may mặc Việt Nam.
Ngoài ra, mức tiờu thô hàng may mặc của người dân Nhật Bản cũn
chịu ảnh hưởng bởi sự biến động của giá đồng Yờn. Cũn nhớ cuộc khủng
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
hoảng tài chớnh- tiền tệ năm 98 đó làm cho nền kinh tế nước này bị ảnh
hưởng nặng nề, kinh tế suy thoái, sức mua giảm sót. Nhưng khi nền kinh tế
nước này có dấu hiệu phôc hồi, đồng Yờn tăng giá, giá hàng hóa giảm, do
vậy người tiờu dựng Nhật Bản thấy không cần phải tiết kiệm để giữ giá
trị tài sản thực.
Mức tiờu thô hàng may mặc của người Nhật
Đơn vị: triệu
Yờn
Chủng loại 1997 1998 1999 2000 2001
Hàng dệt kim 1.176.768 1.155.672 1.024.614 1.078.446 1.055.324
Hàng dệt thoi 1.638.039 1.565.785 1.372.379 1.500.833 1.498.793
Tổng 2.814.806 2.721.457 2.396.994 2.579.279 2.554.117
(Nguồn: Báocáo của JETRO)
Qua bảng số liệu trờn chóng ta có thể nhận thấy dấu hiệu phôc hồi
của kinh tế Nhật Bản qua mức tăng của năm 2000 so với năm 1999. Tuy
nhiờn đến năm 2001 kinh tế Nhật Bản cũng như nhiều nền kinh tế lớn khác
như Mỹ đều bị tác động bởi vô khủng bố 11/9 nhưng sự suy giảm mức tiờu
thô của người dân Nhật Bản không quá nhiều. Vậy nờn chóng ta hóy tiếp
tôc tin tưởng vào triển vọng sáng sủa của kinh tế Nhật Bản thời gian tới.
1.2 Cơ cấu tiờu thô các sản phẩm dệt may
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn trờn thế giới
đồng thời cũng là thị trường tiờu thô rất nhiều hàng dệt may. Nhìn chung
hàng dệt may được tiờu thô có thể phân thành hai nhóm chớnh nếu căn cứ
theo phương thức dệt là hàng dệt kim và hàng dệt thoi. Trong đó hàng dệt
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
kim thường chiếm tới 70% tổng khối lượng nhập khẩu hàng dệt may của
Nhật Bản.
Trong nhóm hàng dệt kim, những mặt hàng được người Nhật quan tâm
thường là các loại áo len, áo khoác nam, áo khoác nữ, sơ mi, quần áo trẻ em,
găng tay, bớt tất, áo gile, T.shirt, quần áo dệt kim, quần áo thể thao, áo
jacket. Trong đó hàng dệt kim với chất liệu là len hoặc cotton được ưa
chuộng hơn cả.
Bờn cạnh đó, hàng dệt thoi mà chủ yếu là lôa tơ tằm, các loại áo sơ mi
dệt thoi chất liệu bông, áo blouse, đồ lót, váy làm tâ chất liệu tơ tằm cũng
được người Nhật Bản yờu thớch.
1.3. Mức tự cung đảm bảo
Là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai trờn thế giới, khối lượng
nhập khẩu hàng may mặc của Nhật Bản tăng nhanh qua các năm. Mức
nhập khẩu có chững lại khi nền kinh tế Nhật Bản lâm vào cuộc khủng
hoảng tài chớnh-tiền tệ 1997-1998. Nhưng kể tâ sau khi nền kinh tế có dấu
hiệu phôc hồi kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nhật đang tăng trở
lại. Ngược với xu hướng nhập khẩu ngày càng nhiều, hiện nay mức sản
xuất hàng dệt may trong nước của Nhật Bản ngày một suy giảm, nhất là tâ
năm 1992 cả về mặt giá trị và số lượng.
Một trong nguyờn nhân chủ yếu khiến cho việc sản xuất tại thị
trường nội địa không được mở rộng là do sự suy giảm sức mua trờn thị
trường, áp lực của nền kinh tế giảm phát những năm vâa qua, đơn giá sản
phẩm bị hạ xuống một cách đáng kể qua tâng năm. Để đáp ứng đũi hái hạ
giá bán hàng hoá, các nhà bán lẻ đó buộc phải bán hàng hoá với giá rẻ, dẫn
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
tới việc giảm tỷ suất lợi nhuận trong ngành dệt may Nhật Bản. Và hệ quả
tất yếu là các nhà sản xuất hàng dệt may và các hóng buôn đó chuyển hoạt
động sản xuất ra nước ngoài nhằm đối phó với tình hình này.
Trong 5- 10 năm qua việc chuyển hoạt động sản xuất hàng dệt may ra
nước ngoài đó phát triển rất nhanh mà điểm đến thường là những nước
đang phát triển rất gần với Nhật Bản. Đầu tiờn là sự chuyển dịch sang Hàn
Quốc và Đài Loan. Tiếp đó là thị trường Trung Quốc và thị trường
Inđônờxia, hai trong số nhiều nước thuộc khu vực Đông á và Đông Nam á
với nguồn nguyờn phô liệu dồi dào, nguồn lao động phong phó với giá
tương đối rẻ. Hiện nay Trung Quốc được xem là một "cơ sở" sản xuất lớn
và là nguồn nhập khẩu quan trọng của Nhật Bản.
Hiện tại mức sản xuất trong nước của Nhật Bản chỉ chiếm trờn dưới
30% tổng lượng tiờu thô hàng dệt may của thị trường nội địa. Xu hướng
này sẽ được thể hiện râ hơn qua bảng số liệu dưới đây.
Năng lực sản xuất nội địa
(Đơn vị:triệu Yờn)
Chủng loại 1997 1998 1999 2000 2001
Hàng dệt kim 415.602 381.422 314.742 280.585 211.124
Hàng dệt thoi 660.404 585.595 484.036 502.190 377.956
Nguồn:Báo cáo của JETRO
Qua bảng số liệu trờn có thể thấy rằng mức tự cung trong nước cả hai
loại hàng dệt kim và dệt thoi đều giảm nhưng hàng dệt kim giảm nhanh
hơn hàng dệt thoi tâ năm 1998, hàng dệt thoi giảm nhưng tốc độ giảm
tương đối ổn định.
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
Nhưng việc chuyển sản xuất ra nước ngoài với nhịp độ nhanh trong 5-
10 năm trở lại đây đó tác động xấu đến thị trường nội địa Nhật Bản. Thậm
chớ tại Nhật Bản đó có nhiều đánh giá lại là xột cho cựng sản phẩm mà
người tiờu dựng Nhật Bản quan tâm nhiều nhất lại không có sẵn cho họ.
Có thể việc chuyển sản xuất hàng dệt may ra nước ngoài những năm tới sẽ
không cũn nhanh và nhiều như trước nữa.
1.4. Nhu cầu nhập khẩu
Với mức tự cung đảm bảo chỉ đáp ứng được khoảng 30% tổng mức
tiờu thô hàng dệt may trờn thị trường nội địa nờn kim ngạch nhập khẩu của
Nhật Bản thường rất lớn cả về mặt giá trị và khối lượng, chiếm xấp xỉ
70% tổng cầu của thị trường đối với cả hai loại là hàng dệt kim và hàng dệt
thoi. Một nguyờn nhân mà môc 1.3 đó nờu, đó là do xu hướng chuyển sản
xuất ra nước ngoài của các công ty Nhật Bản nhằm đối phó với tình trạng
giảm tỷ suất lợi nhuận trong ngành dệt may. Hình thức mà các công ty này
hoạt động dựa trờn sự liờn doanh liờn kết với các công ty Trung Quốc. Do
vậy những sản phẩm được làm ra ở những thị trường như thế này dễ dàng
được người tiờu dựng Nhật Bản chấp nhận hơn bất kó sản phẩm nào
được sản xuất ở các nước khác, những hàng hoá được sản xuất ở Trung
Quốc được đối xử như với hàng hoá được sản xuất tại Nhật Bản vậy.
Hàng may mặc nhập khẩu của Nhật Bản bao gồm hàng dệt thoi và
hàng dệt kim. Dưới đây là bảng số liệu kim ngạch nhập khẩu của Nhật
Bản trong một số năm gần đây.
Kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
(Đơn vị:triệu
Yờn)
Chủng loại 1997 1998 1999 2000 2001
Hàng dệt kim 770.412 782.895 719.019 808.410 853.171
Hàng dệt thoi 995.394 995.394 902.634 1.013.980 1.135.825
Nguồn:Báo cáo của
JETRO
Ngoài ra cũn có một cách phân loại hàng dệt may nhập khẩu nữa là căn
cứ theo những đặc điểm khác biệt nổi bật nhất của hàng hoá nhập khẩu so
với hàng hoá của Nhật Bản người ta chia ra thành những loại sau:
- Những sản phẩm có sức thu hót, có tớnh thời trang, có chất lượng
cao. Đó là những sản phẩm đặc biệt hấp dẫn về cả màu sắc, kiểu
dáng, chất lượng sản phẩm, thiết kế cũng như sự khộo lộo tinh tế
trong tâng đường nột của sản phẩm. Với những đặc điểm nổi bật
đó, loại sản phẩm này thường được nhập khẩu tâ những trung tâm
thời trang nổi tiếng trờn thế giới tập trung chủ yếu ở Mỹ và các
nước EU.
- Những sản phẩm làm tâ những loại nguyờn phô liệu hiếm không
thể sản xuất được ở Nhật Bản như len cashmere, vải nỉ angora,
hoặc một số loại len ớt phổ biến khác...
- Những sản phẩm đũi hái nhiều lao động, với nhiều khâu thủ công
tỉ mỉ thường được sản xuất ở các nước đang phát triển có nguồn
lao động dồi dào nhưng giá nhân công lại rẻ.
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
- Những sản phẩm thủ công mang đậm truyền thống dân tộc của nơi
sản xuất ra nó. Đó là những sản phẩm truyền thống được làm
bằng tay. Hầu như không phân biệt chủng loại, những sản phẩm
như thế đều được nhập khẩu vào Nhật Bản bởi người Nhật rất
coi trọng những nột đặc trưng cá biệt của sản phẩm, đặc biệt là
những nột đẹp của tâng nền văn hoá mỗi dân tộc ẩn chứa trong
sản phẩm đó.
1.5. Những nhà cung cấp chủ yếu của Nhật Bản
Hiện tại bạn hàng chớnh của Nhật Bản là các khu vực, các nước và
vựng lónh thổ như: Trung Quốc, EU, Mỹ, ASEAN, Hàn Quốc, Đài Loan,
Hồng Kông.
1.5.1.Trung Quốc
Trung Quốc được xem là nhà cung cấp hàng dệt may lớn nhất của
Nhật Bản trờn hai thị trường: thị trường đại chóng và thị trường hàng hoá
cấp trung. Theo thống kờ xuất nhập khẩu hàng dệt may, Bộ Tài chớnh
Nhật Bản cho biết có tới 79,6% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt kim và
80,4% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt thoi năm 2001 của Nhật Bản là do
Trung Quốc cung cấp. Nếu xột về lượng nhập khẩu thì Trung Quốc cũn
chiếm thị phần lớn hơn với hàng dệt kim là 87,7% và hàng dệt thoi là
89,9%. Như vậy Trung Quốc đó chiếm ưu thế tuyệt đối với cả hai nhóm
hàng dệt thoi và dệt kim. Hiện tại không chỉ có các công ty Nhật Bản mà cả
các các doanh nghiệp Mỹ và các hóng kinh doanh ở EU đó chuyển hoạt
động sản xuất của mình sang Trung Quốc nhằm giảm giá thành sản phẩm
và để rót ngắn thời gian giao hàng.
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
Trung Quốc luôn chiếm ưu thế trờn thị trường đại chóng với những
mặt hàng bình dân và thị trường sản phẩm cấp trung bởi nguồn nguyờn phô
liệu trong nước phong phó, lực lượng lao động dồi dào, mức lương không
cao. Chớnh vì vậy mức giá hàng hoá Trung Quốc đưa ra luôn có sức cạnh
tranh lớn trờn thị trường Nhật Bản. Đó là những thuận lợi khiến Trung
Quốc chiếm thế thượng phong với hầu hết các mặt hàng trờn hai thị trường
kể trờn. Trong những năm vâa qua, với việc gia tăng hoạt động gia công
xuất khẩu, Trung Quốc càng tạo được cho mình một chỗ đứng vững chắc
tại thị trường Nhật Bản.
1.5.2.Hàn Quốc
Do vị trớ địa lý gần kề Nhật Bản nờn Hàn Quốc có được những ưu
thế về vận tải hơn các nước khác. Thực vậy hàng hoá tâ cảng Pusan của
Hàn Quốc có thể chuyờn chở tới cảng Shimonoseki nằm ở phớa Tây của
Nhật Bản chỉ trong vũng một ngày. Điều đó đó tạo cho Hàn Quốc những lợi
thế nhất định. Tuy nhiờn với sự tăng giá của đồngWon thời gian gần đây và
giá nhân công cao đó làm khả năng cạnh tranh cuả hàng dệt may Hàn Quốc
giảm đáng kể nhất là những mặt hàng dành cho thị trường đại chóng. Vì
thế, hiện nay Hàn Quốc chủ yếu tập trung sản xuất và xuất khẩu những
mặt hàng cấp trung hơn là những mặt hàng bình dân như trước kia.
1.5.3.EU
Tuy bất lợi cả về khoảng cách địa lý cũng như giá nhân công cao hơn
hẳn các nước ASEAN nhưng hàng dệt may của EU vẫn có thể đứng vững
trờn thị trường Nhật Bản, bởi những mặt hàng xuất khẩu của EU sang thị
trường này thường là những mặt hàng cao cấp, hợp thời trang và đắt tiền.
Đó là những sản phẩm gắn với những tờn tuổi lớn trong ngành công nghiệp
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
thời trang thế giới, nhưng số lượng cung cấp chỉ có hạn. Ngoài ra EU cũng
được coi là đó khộo lộo sử dông những ảnh hưởng của mình tại thị trường
dệt may Nhật Bản. Song một điều không thể phủ nhận là hàng dệt may của
EU được đánh giá rất cao bởi sự tinh tế trong việc sử dông màu sắc sản
phẩm, việc kết hợp khộo lộo hơn hẳn những sản phẩm của Nhật Bản.
Nhưng tâ cuối thập niờn 80 phần lớn những những sản phẩm của các
thương hiệu lớn của EU đều đó được sản xuất tại Nhật Bản dưới hình
thức license chứ không cũn được nhập khẩu trực tiếp tâ EU.
1.5.4.Mỹ
Việc nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản tâ Mỹ bắt đầu tăng đáng
kể tâ cuối những năm 80. Điều đó đó biến Mỹ trở thành một trong những
nhà cung cấp hàng may mặc quan trọng đối với Nhật Bản. Hầu hết các sản
phẩm nhập khẩu tâ Mỹ là những loại quần áo thông thường, thứ đến là
những mặt hàng thời trang. Trờn thực tế một trong những thế mạnh về
hàng dệt may của Mỹ là mặt hàng chất liệu cotton.
1.5.5.ASEAN
Bắt đầu tâ giữa thập kỷ 80 khi việc xuất khẩu hàng dệt may của các
nước công nghiệp mới (NIEs) sang Nhật Bản có xu hướng giảm thì cũng là
lóc các nước ASEAN như Thái Lan, Inđônờxia, Philippin tâng bước tìm chỗ
đứng cho mình trờn thị trường Nhật Bản. Mặc dự ngành dệt may tương đối
phát triển nhưng ASEAN vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt tâ
những hàng hoá của Trung Quốc. Gần đây hàng dệt may nhập khẩu tâ Việt
Nam có dấu hiệu tăng trưởng. Cho dự hiện nay những nước ASEAN vẫn
cũn cần phải giải quyết nhiều vấn đề như nguồn nguyờn phô liệu, công
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
nghệ thiết bị sản xuất, giá nhân công nhưng chắc chắn xuất khẩu của
ASEAN sang Nhật Bản sẽ tăng trưởng trong tương lai.
2. Thị trường truyền thống SNG
2.1. Đặc điểm của thị trường SNG
Đây là khu vực địa lý có diện tớch lớn nhất thế giới, trải dài trờn hai
châu lôc á-âu, cựng với số dân hơn 300 triệu người, SNG hiện đang là cơ
hội để mở rộng thị trường không thể bá lì của mọi doanh nghiệp. Thị
trường SNG bao gồm cộng đồng các quốc gia độc lập chủ yếu sau:
- Cộng hoà Liờn Bang Nga với diện tớch là 17.075.200 km2 và dân số
là 143,5 triệu người.
- Cộng hoà Belarutcia với diện tớch là 207.600 km2 và dân số là 9,9
triệu người.
- Cộng hoà Moldova với diện tớch là 33.700 km2 và dân số là 4,3
triệu người.
- Cộng hoà Ukraina với diện tớch là 603.700 km2 và dân số là 48,2
triệu người.
- Cộng hoà Grudia với diện tớch là 69.700 km2 và dân số là 4,4 triệu
người.
- Cộng hoà Acmenia với diện tớch là 29.800 km2 và dân số là 3,8
triệu người.
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
- Cộng hoà Azecbaizan với diện tớch là 86.600 km2 và dân số là 8,2
triệu người.
- Cộng hoà Udơbờkixtan với diện tớch là 447.400 km2 và dân số là
28,4 triệu người.
- Cộng hoà Tazikixtan với diện tớch là 143.100 km2 và dân số là 6,3
triệu người.
- Cộng hoà Kiecghikixtan với diện tớch là 198.500 km2 và dân số là
5,0 triệu người.
- Cộng hoà Kazacxtan với diện tớch là 2.717.300 km2 và dân số là
14,8 triệu người.
- Cộng hoà Tuyecmenia với diện tớch là 488.100 km2 và dân số là 5,6
triệu người.(Niờn giám thống kờ 2002)
Tất cả các quốc gia trờn được tách ra tâ Liờn bang Xô Viết trước đây
(Liờn Xô cũ) cho nờn đều giao lưu tốt một ngôn ngữ (tiếng Nga) bờn cạnh
một nền văn hoá gần gũi tương đồng. Đây là một thuận lợi không nhá cho
các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường đầy hứa hẹn này.
Lâu nay, SNG vẫn được coi là thị trường truyền thống của Việt Nam
bởi mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, sự hiểu biết sâu sắc giữa các nước anh
em trong khối các nước xó hội chủ nghĩa trước kia, bởi mối quan hệ kinh
tế-thương mại đó được tạo dựng trong quá khứ, và giờ đang trở thành nền
móng vững chắc gióp chóng ta nhanh chóng khôi phôc thị trường này, tạo
cho các doanh nghiệp Việt Nam thờm thuận lợi trong việc hiểu râ hơn nhu
cầu, thị hiếu của thị trường truyền thống này.
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của nước ta trước đây chủ yếu là các mặt
hàng may mặc, giày dộp, hàng thủ công mỹ nghệ, dầu thô và hàng nông
thuỷ sản, đồng thời cũng là những mặt hàng chủ lực của nước ta hiện nay.
Trong số các mặt hàng đó, giá trị xuất khẩu dệt may thường chiếm 60-70%
tổng giá trị xuất khẩu sang thị trường này.
Sự phân chia thành nhiều thị trường các quốc gia độc lập hiện nay dẫn
tới những chớnh sách kinh tế thương mại của mỗi quốc gia khác nhau và
các chớnh sách ngoại thương cũng khác nhau. Chớnh vì thế việc xuất khẩu
hàng hoá của nước ta sang thị trường các nước này đó thay đổi rất nhiều so
với trước kia và xuất hiện cách thức mới trong quan hệ kinh tế giữa nước
ta với các nước SNG. Do vậy muốn trở lại với thị trường này chóng ta cần
phải dựa trờn quan hệ truyền thống làm nền tảng, trong việc tiếp cận thị
trường SNG chóng ta cũng cần xác định nờn bắt đầu tâ đâu và thị trường
nào đóng vai trũ quyết định nhất. Trong thị trường SNG hiện nay, râ ràng
đóng vai trũ quyết định nhất trong quan hệ ngoại thương, đó là thị trường
Nga.
Liờn bang Nga là nước có diện tớch lớn nhất thế giới trải dài trờn hai
lôc địa Âu và á, có biờn giới giáp với 14 quốc gia cũng như giáp với rất
nhiều biển và đại dương.
Nga cũng là một nước đa sắc tộc đa tôn giáo. Tại Nga hiện có hơn 100
dân tộc cựng sinh sống trong đó dân tộc Nga chiếm 81,5%, người Tácta
chiếm 3,8% và người Ukraina chiếm 3% dân số. Ngoài ra cũn gần 25 triệu
người Nga sống ở các nước Cộng hũa thuộc Liờn Xô cũ và gần 2 triệu
người ở các nước khác trờn thế giới. Phần lớn dân Nga theo đạo Cơ đốc
chớnh thống. Tuy nhiờn, một bộ phận dân số không nhá là gần 20 triệu
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
người theo đạo Hồi sống dọc biờn giới phớa Nam của Nga. Ngoài ra cũn có
các tôn giáo khác như đạo Phật, Do Thái, Thiờn Chóa giáo La Mó.
Thị trường Nga đó tâng đóng vai trũ hết sức quan trọng đối với hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may nói riờng. Những biến động về chớnh trị xó hội của Liờn Xô cũ năm
91-92 đó khiến cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này
giảm mạnh, xuất khẩu hàng dệt may cũng không phải là ngoại lệ. Sau khi
Liờn Xô tan ró, kinh tế Nga lâm vào khủng hoảng sâu sắc, sản xuất đình
trệ, giá cả leo thang, đời sống nhân dân sa sót, nợ nước ngoài và nợ khó đũi
trong nội bộ nền kinh tế chồng chất. Các chương trình, chớnh sách kinh tế
thiếu thực tế đầu những năm 1990 như chương trình tư nhân hoá ồ ạt cộng
với tình hình chớnh trị bất ổn càng đẩy nền kinh tế sâu vào vũng xoáy
khủng hoảng. Khi bắt đầu có những dấu hiệu phôc hồi vào các năm 1996-
1997 thì nền kinh tế Nga lại rơi vào ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài
chớnh-tiền tệ 1997-1998.
Những năm vâa qua, sau một loạt những chương trình cải cách của
Chớnh phủ thời tổng thống Nga Putin như chương trình cải cách về thuế,
cải cách trong những lĩnh vực "độc quyền tư nhân", cải cách pháp lý, cải
cách luật lao động, cải cách hành chớnh, cải cách trợ cấp xó hội.v.v. nền
kinh tế Liờn Bang Nga đó tâng bước thoát ra khái khủng hoảng và có những
chuyển biến tớch cực: kinh tế đi vào ổn định do chuyển đổi cơ cấu đóng
hướng, lạm phát được kiềm chế, GDP năm1999 là 3,2% và năm 2000 đạt
7,9% tiếp đó trong năm 2001 đạt hơn 5%, năm 2002 là 4,3%, trong sáu tháng
đầu năm 2003 tăng 7,1% so với cựng kó năm 2001. Sản xuất công nghiệp và
nông nghiệp đều tăng trưởng đáng kể thậm chớ năm 2000 Nga đó trở thành
nước xuất khẩu lương thực. ( http://www.dei.gov.vn)
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
Mặt khác, Nga cũng đó giải quyết được nhiều vấn đề xó hội như: cơ
bản giải quyết nợ lương, tâng bước tăng lương hưu, lương ngân sách và
lương quân đội, bước đầu cải thiện được đời sống nhân dân. Tuy vẫn cũn
một số khó khăn cần phải khắc phôc như phô thuộc nhiều vào xuất khẩu
nguyờn nhiờn liệu, tỉ lệ thất thoát vốn lớn, khả năng cạnh tranh chưa cao,
chưa đáp ứng được nhu cầu tiờu dựng trong nước...nhưng nền kinh tế Nga
đang phôc hồi và tăng trưởng một cách khả quan.
Như vậy Liờn Bang Nga đó đạt được sự phát triển ổn định và đó là lý
do rất đáng để chóng ta tin tưởng về một tương lai tốt đẹp của đất nước
này.
Hiện tại, kinh tế Nga đang đi theo hướng kinh tế thị trường hiện đại.
Trọng tâm của nền kinh tế Nga không phải là có chuyển hướng kinh tế hay
không mà là phải đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế như thế nào cho phự hợp
nhất với riờng nước Nga.
Với quy mô nhập khẩu tới 50 tỷ USD mỗi năm về hàng tiờu dựng, chủ
yếu là nông phẩm và đồ gia dông, Nga thực sự là một thị trường đầy triển
vọng với Việt Nam. Mặt khác Nga mới chỉ chó trọng phát triển công nghiệp
nặng chứ chưa chó ý đầu tư phát triển sản xuất hàng tiờu dựng cì nhá như
quần áo, giày dộp, nông sản và thực phẩm chế biến, đồ nhựa gia dông,
hàng thủ công mỹ nghệ, gia vị, đông dược, gỗ ván sàn. Đó cũng là một lợi
thế cho Việt Nam xuất khẩu những hàng hoá tiờu dựng sang thị trường này.
Theo thoả thuận đó đạt được giữa hai nước trong tổng số nợ hàng năm
mà Việt Nam phải trả cho phớa Nga, phần lớn trong số đó Việt Nam trả
bằng hàng hoá. Đây là cơ hội tốt cho doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh
- Khoá luận tốt nghiệp Đoàn Thanh Tỳ-Trung 1-K38E
xuất khẩu trực tiếp hàng hoá sang Nga. Quan trọng hơn là tạo chỗ đứng lâu
dài trờn cho hàng hoá Việt Nam tại thị trường Nga.
2.2. Thị hiếu tiờu dựng
Tuy Liờn Bang Nga được coi là thị trường truyền thống của ta nhưng
sau những biến động của lịch sử , chắc chắn thị hiếu tiờu dựng của người
dân Nga cũng khác. Trước đây doanh nghiệp Việt Nam khá quen thuộc với
thói quen và sở thớch tiờu dựng của người dân Nga, đó là những người tiờu
dựng khá dễ tớnh không đũi hái quá cao về chất lượng. Hiện nay, hàng may
mặc tại thị trường Nga đó có những thay đổi về cơ bản, tuy không khó tớnh
như thị trường Nhật Bản nhưng thị trường Nga đang tiếp cận ngày một
nhanh với thị trường các nước Châu Âu, các tập đoàn thương mại lớn trờn
thế giới đầu đó có mặt tại Nga, ở Châu Âu có hàng hoá gì thì Nga cũng có
loại hàng đó. Do vậy, yờu cầu về chất lượng cũng như hình thức sản phẩm
ở mức cao với giá cả chấp nhận được. Hàng có phẩm chất trung bình chỉ có
thể tiờu thô được ở các vựng nông thôn.
Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kó là hai quốc gia có thị phần may mặc lớn
nhất tại thị trường Nga. Hàng may mặc Trung Quốc có giá rẻ hơn lại đa
dạng hơn về màu sắc cũng như mẫu mó sản phẩm. Hàng Thổ Nhĩ Kó có ưu
thế về vận chuyển và giao hàng.
Như vậy những khó khăn khi quay trở về thị trường truyền thống SNG
nói chung và thị trường Nga nói riờng vẫn cũn đang ở phớa trước. Điều đó
đũi hái doanh nghiệp Việt Nam cần có một cách nhìn biện chứng về thị
trường này.
3. Thị trường Châu Phi, một thị trường tiềm năng cần được khai thác
nguon tai.lieu . vn