Xem mẫu
- Về ba kiến trúc liên quan đến thời định đô Thăng Long
Thời định đô Thăng Long không để lại nhiều dấu tích kiến trúc.
Nhưng, ba công trình xây dựng sau đây tuy không hẳn là di tồn vật
thể đương thời, và được nhận diện qua vật chứng cụ thể, nhưng lại
nói lên được nhiều điều của hoặc liên quan đến thời kỳ lịch sử quan
trọng này
Cũng như là cả nhiều vấn đề và thế ứng xử đương đại về một thời định
đô Thăng Long sắp chẵn ngàn năm ấy.
1. Đợt tạo tác thứ 6 của Hoàng Thành Thăng Long và việc nhận dạng
ranh giới phía tây của Hoàng Thành.
Thống kê qua các tài liệu văn bản - chủ yếu là những bộ chính sử biên
niên - thì thấy Vương Triều nhà Lý, trong vòng 216 năm đóng đô ở Thăng
Long, đã có tất cả 6 cuộc (đợt) tạo tác kiến trúc quan trọng trong khu vực
Hoàng Thành vào các năm 1010 - 1110 (1), 1020 (2), 1029 - 30 (3), 1058
(4), 1098 (5) và 1203 - 05 (6).
Đợt tạo tác thứ 6 này, chỉ duy nhất sách (Đại Việt sử lược - bộ chính sử
cổ nhất còn sót lại đến nay - ghi lại. ở những chỗ viết tương đối rõ ràng
(dễ hiểu), có thể nhận ra đây là một quần thể kiến trúc, được xây dựng
theo một quy hoạch (cấu trúc) như sau:
- Chính giữa là toà điện Thiên Thuỵ (có “ngựu toạ” - ngai vua ?), hai bên
có hai điện Dương Minh (trái) và Thiềm Quang (phải), làm thành một dàn
ngang kiến trúc trung tâm;
- Phía Bắc của hàng ngang kiến trúc này là điện Chính Nghi, có gác Kính
Thiên xây ở bên trên và có “thềm” (sân?) Lệ giao … “ngự tẩm” - buồng
ngủ của vua?) bên trên có gác Thánh Thọ, hai bên là gác Nhật Kim (trái) và
Nguyệt Bảo (phải), có hành lang quây lấy một vùng “thềm” (sân?) trên là
Kim Tinh … làm thành dàn kiến trúc “hậu phương”.
Dễ dàng nhận thấy - về mặt cấu trúc quy hoạch - quần thể kiến trúc “đợt
sáu” này - của vị hoàng đế đời thứ bảy, Lý Cao Tông - đã tuân thủ chặt
chẽ ý tưởng (tư tưởng) tạo tác các quần thể kiến trúc cung đình trong
- Hoàng Thành Thăng Long của các bậc tiền bối, nhất là của Lý Thái Tổ
(“đợt một”) và của Lý Thái Tông ( “đợt ba”).
Dải hồ nước tại công viên Bách Thảo
Vào những năm 1010 - 11, quần thể kiến trúc của và do vị hoàng đế vừa
khai sáng vương triều Lý, vừa thiên đô ( Hoa Lư), định đô (Thăng Long)
xây dựng gồm 8 điện, 4 cung “thềm (sân?) rồng” có hành lang bao quanh,
ở vùng chính giữa Hoàng Thành (khi ấy có tên là “Thăng Long Thành”),
- lần đầu tiên cũng đã được cấu trúc (quy hoạch) thành ba dàn kiến trúc,
trước sau, căng ngang. Với toà chính điện “Càn Nguyên” ở Trung tâm.
Quần thể kiến trúc được người kế vị ngai vàng đời thứ hai của vương
triều, dinh tạo vào các năm 1029 - 30, vừa “quy mô rộng lớn” hơn, vừa
chú ý nhiều đến việc “nghỉ ngơi du ngoại” của vua - như nguyên văn lời
sách “Đại Việt sử ký toàn thư” - nhưng vẫn hoàn toàn tại chỗ mà nương
theo cấu trúc (quy hoạch) của đợt xây dựng đầu tiên: hợp các đơn nguyên
kiến trúc thành ba dàn căng ngang, trước, sau. Chỉ khác ở chỗ đổi gọi tên
toà chính điện ở Trung tâm thành “Thiên An”, và đặc biệt là cho xây một
vòng tường thành bao quanh quần thể kiến trúc, tạo nên một vùng Cấm
Thành (khi ấy có tên là “Long Thành”) làm nhân lõi cho khu vực Hoàng
Thành
Cái truyền thống tạo ba dàn kiến trúc căng ngang, trước sau, ở giữa khu
Hoàng Thành Thăng Long, sở dĩ hằng được tôn trọng, bởi vì đã làm thành /
và là / hình tượng - biểu tượng của một tổ hợp (hệ) ý tưởng (tư tưởng)
kiến trúc rất hay : Vừa tạo hình chữ “tam” của lý thuyết “tam tài” (Thiên -
- Địa - Nhân), vừa gợi dáng quẻ “càn” ở học thuyết “Bát quái” (với ý nghĩa
vừa là quẻ đầu tiên, vừa chính là ngôi “Trời”).
Quần thể kiến trúc “đợt sáu” (các năm 1203 - 05) của vua Lý Cao Tông có
hình chữ nhật “Tam” và dáng quẻ “Càn”, là vì lẽ đó. Nhưng, tuân thủ chặt
chẽ cái tư tưởng của quy hoạch kiến trúc, mà không sử dụng lại / và đúng
/ vị trí (không gian, mặt bằng) kiến trúc cũ.
Bởi Lý Cao Tông - với nhân cách (cá tính) thường bị sử cũ phiền trách rất
nhiều (“ham xây dựng, thích rong chơi, hám của cải, vụ lợi lộc”…) - Khá
bức xúc nhu cầu “xây cung mới” (với “truyền thống” kiến trúc cũ) nhưng
không dám phá bỏ các quần thể kiến trúc của hai đời tiên tổ để dinh tạo
các công trình của mình ở đấy mà chỉ có thể di dời vị trí vùng dinh tạo
mới tới một chỗ khác ở trong khu vực Hoàng Thành mà thôi.
Sử cũ chép rõ: Đó là vùng “phía tây tẩm điện” tức thị: phía tây vùng chính
tâm Hoàng Thành.
ở nơi xây dựng mới tại phía tây Hoàng Thành này, những điện Thiên
Thuỵ, Dương Minh, Thiềm Quang…, gác và thềm Thánh Thọ, Nhật Kim,
Nguyệt Bảo, Lệ Giao, Kim Tinh… của Lý Cao Tông còn có một đặc
điểm quy hoạch là: Kết hợp quần thể kiến trúc cung đình với cảnh quan
công viên (“ngự uyển”). Lần đầu tiên, trong Hoàng Thành Thăng Long
thời Lý, thấy xuất hiện những tên công trình kiến trúc - cảnh quan (ở
quanh quần thể kiến trúc cung đình) như: “Cửa Thấu Viên”, “Ao Dưỡng
Ngư”, “Đình Ngoạn Y” (xây ở trên ao Dưỡng Ngư)…
- Di chỉ Núi Xưa - Bách Thảo - Hà Nội
Đến năm nối dài đợt dinh tạo thứ sáu - là năm 1206 - thì rõ thêm ra tính lại
vẫn chỉ - sách “ Đại Việt sử lược” chép được rằng: “Năm này, trong nước
loạn lạc mà vua thì thích rong chơi. Nhưng đường xá đi lại bị ngáng trở,
bèn sai làm hành cung ứng Phong, Hải Thanh ở chỗ ao ứ Minh, tạo nên
một vùng hoa thơm cỏ lạ, nước ao thông với nước sông, lấy thuyền to
làm thuyền ngự, các thuyền bé chia hai đội, sai bọn cung nữ, phường hát
chèo thuyền, chơi bời làm vui...”
Vậy là hình thành một vùng quần thể kiến trúc cung đình và cảnh quan
“ngự uyển” sông hồ - rộng lớn đa dạng - ở trong Hoàng Thành, mạn phía
tây trung tâm Hoàng Thành.
Vùng trung tâm truyền thống của Hoàng Thành này, đã được xác định là có
toà “Thành cổ Hà Nội”(thời Nguyễn) đồ lên, với diện tích khoảng 100 ha.
Một diện tích như thế này, chỉ đủ sức chứa dựng các quần thể kiến trúc
“đợt một” và “đợt ba kéo dài” mà không thể dung nổi những dinh tạo “
đợt sáu” và “đợt sáu kéo dài” .
- Vùng kiến trúc cung đình của những năm 1203 - 05 và năm 1206 này, đã
được sử sách chép rõ - nhắc lại là: ở phía tây, vùng trung tâm truyền thống
của Hoàng Thành. Có nghĩa là: Muốn có thêm được vùng kiến trúc cung
đình “đợt sáu” và “đợt sáu kéo dài”, Hoàng Thành Thăng Long phải được
- lần đầu tiên - mở rộng về phía tây.
Vùng mở rộng - lần đầu tiên của Hoàng Thành Thăng Long thời Lý - về
phía tây này, tất phải ở mạn tây của điểm cực tây Hoàng Thành trước năm
1203, được đánh dấu bằng di tích cửa “ Tây Môn” của “Thành cổ Hà
Nội” cũng chính là nơi đang toạ lạc toà “ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh”
Đó chính là vùng “Công viên Bách Thảo” và làng hoa Ngọc Hà bây giờ,
với những nét cảnh quan vẫn còn gợi lại hình ảnh một vùng “ngự uyển”
sông hồ xưa, với cả địa danh (thuỷ danh) “Sông Ngọc” - Chính là dòng
“Ngự Hà” quý như ngọc, từng đã chảy trôi ở trong Hoàng Thành xưa.
Cẩn trọng khai quật khảo cổ với diện rộng vùng này, sẽ thấy lại được
những vùng kiến trúc cung đình - cảnh quan trong Hoàng Thành Thăng
Long ở đợt dinh tạo mở rộng cuối thời Lý, mà tín hiệu đầu tiên đã được
phát đi từ đầu thế kỷ 20: Một chiếc cột đá chạm rồng “ngẫu nhiên phát
hiện ở dưới lòng đất tại đây (hiện đang trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam - Hà Nội).
- Đền Cẩu Nhi - Hà Nội
2. Đền Bạch Mã - Huyền thoại thời định đô Thăng Long:
Thời vừa mới định đô Thăng Long năm đầu tiên 1010 - nơi đây chưa có
quy hoạch đô thị kiểu “tam trùng thành quách” (ba vòng tường thành lồng
nhau). Tất cả chỉ mới có một vòng tường / và một vùng / được gọi tên là
“Thăng Long Thành” mà thôi. Và đúng như lời Lý Thái Tổ đã nói trong
“thiên đô chiếu”, vòng tường / và vùng Thăng Long thành này, đã thực tế
dựa vào toà Đại La Thành của và do Tiết độ sứ nhà Đường là Cao Biền
xây vào năm 866 mà sửa sang, dùng lại. Và đó chính là vòng tường / và
vùng Hoàng Thành Thăng Long, theo cách gọi của / và từ thời sau.
ở mé ngoài Cửa Đông của Đại La Thành, cũng tức thị ở mé ngoài cổng
phía đông của Thăng Long Thành - được Lý Thái Tổ đặt / gọi tên là cửa
Tường Phù (Điềm lành) - có một toà kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng quan
trọng.
Đây là công trình - được xây dựng theo tinh thần “Fair Play” - của Cao
Biền, để “ chào thua” vị thần bảo hộ của ngôi - làng - Hà Nội - gốc, được
sử cũ gọi bằng tên là “Hương Long Đỗ” (làng Rốn Rồng). Thần vốn xuất
thân từ một vị “già làng” họ Tô tên Lịch, có nhà ở ngay trên bờ dòng Sông
cổ chảy qua trước làng ( do đó, khi “hoá thánh”, trở thành thần bảo hộ của
“Hương Long Đỗ”, thì cũng cho dòng sông chảy qua / và của làng mượn
luôn tên, thành ra là “sông Tô Lịch”).
Vị thần của hương Long Đỗ, sông Tô Lịch này như lời kính cẩn ghi chép
của sách cổ “Việt điện U linh” ( ở / và từ thế kỷ 14) - đã biểu hiện thành
một dị nhân ngự trên một đám mây ngũ sắc, đúng vào lúc Cao Biền đi ra
ngoài Cửa Đông của Đại La Thành. Viên quan cai trị cáo già, võ tướng tài
ba, kiêm phù thuỷ cao tay của triều đại Nhà Đường đô hộ này với tâm lý,
tâm thức và cả tâm linh nữa, của ngần ấy nhân cách - hiển nhiên nhận ra
ngay: đây là đối thủ của mình. Bèn / và đã dùng “ linh vật búa đồng” để
trấn yểm. Nhưng sau một đêm mưa gió kinh hoàng, sáng ra thì đã thấy búa
đồng trấn yểm bị đánh tan như cát bụi.
Biết không thể thắng được đối thủ “trên cơ”, vừa sợ vừa phục, Cao Biền
đã cho lập đền thờ thần Long Đỗ ở ngay nơi đã diễn ra trận chiến u linh
ấy.
Từ giữa thế kỷ thứ 9 đến đầu thế kỷ 11, ngôi đền thờ Thần Long Đỗ này
vẫn được “vận hành tại chỗ” các công năng và đồng hành cùng lịch sử
chuyển hoá toà thành Đại La Thành ra toà Thành Thăng Long. Và thêm
- một lần toả sáng công năng tâm linh, vào đúng thời định đô Thăng Long,
năm đầu tiên.
ấy là theo sự ghi chép của sách “Việt điện u linh” - thì đó là lúc Lý Thái
Tổ cho tôn tạo vòng tường Thăng Long Thành. Nhưng công trình thổ mộc
cứ đắp lên lại sụp đổ. Vua bèn cho người đến cầu khẩn ở ngôi đền thờ
thần Long Đỗ. Và thấy một con ngựa trắng từ toà kiến trúc tín ngưỡng
linh thiêng này bước ra, đi một vòng từ đông sang tây, rồi lại từ tây về
đông, rồi biến mất vào đền. Hiểu ý thần linh, vua liền cho đắp tường
thành theo đúng vết chân ngựa trắng. Quả nhiên việc xây dựng thành công
ngay !.
Tạ ơn thần linh trợ giúp, vua bèn vừa tôn phong thần Long Đỗ làm “ Quốc
đô Định bang Thành Hoàng Đại Vương”, vừa cho gọi tên ngôi đền thờ
thần là “Bạch Mã linh từ” (đền thiêng ngựa trắng).
Chủ đề tín ngưỡng ở ngôi đền xây dựng mé ngoài cửa Tường Phù, thành
Thăng Long từ đây ổn định và tôn hiệu của vị thần được thờ ở đây, cũng 2
lớp 8 chữ mà truyền mãi về sau, tới tận ngày nay: “Long Đỗ Thần quân /
Quảng lợi Bạch Mã”, kèm với hàm tước tột đỉnh: “Đại vương” !
Không ai biết chắc hình thái kiến trúc của ngôi đền này ở thời - tiền -
Thăng Long, hoặc giả cả ngay ở thời định đô Thăng Long nữa, là như thế
nào !
Cũng có thể là ngày càng có nhiều người sẽ không tin hẳn vào lai lịch /
cũng như cả lý do tạo dựng ngôi đền cổ nhất của Thăng Long - Hà Nội
này, là như vậy !.
Nhưng hiển nhiên là ở địa chỉ số 76 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm,
TP Hà Nội, hiện vẫn đang khói hương, toạ lạc một ngôi đền cổ, với tên
gọi là “đền Bạch Mã” với cỗ Long ngai có hàng chữ ghi tên vị thần được
thờ chính, ở đây là “ Long Đỗ Thần quân quảng lợi Bạch mã Đại
Vương”.
Không chỉ thế, mà ngay ở thời gian khá sớm của buổi đương đại - vào và
từ năm 1986 - ngôi đền này đã được trịnh trọng xếp hạng là “di tích lịch
sử - văn hoá”, được trùng tu tôn tạo nhiều lần khang trang. Lý do của thế
ứng xử hiện đại này, còn có căn cứ và xuất phát từ vị thế của công trình
kiến trúc tín ngưỡng đã được chính 4 chữ đại tự của bức hoàng phi ngự
cao trên nóc đền nói rõ: “Đông trấn linh từ” !
Thêm chức năng là điểm thiêng trấn giữ phía đông cho kinh đô Thủ đô
Thăng Long - Hà Nội, đền Bạch Mã còn bộc lộ cả một giá trị trần tục
nhưng quan trọng nữa của kiến trúc, là mốc giới ở chỗ cực đông của địa
vực kinh kỳ. Bởi - như đã thấy ở trên - vào năm đầu thời định đô Thăng
Long, kinh kỳ chỉ có / và là một “Thăng Long Thành”, với một vòng
- tường/và khu đô thành, giống như ở thời “Đại La Thành” trước đấy: vua
quan, tướng dĩ, chúng - dân - dĩ, nông - công - thương, đều “chung chạ” ở /
và trong một khu / và vòng tường / thành ấy.
Chỉ đến 5 năm sau ngày định đô, Lý Thái Tổ mới cho biến “Thành Thăng
Long” thành ra một khu vực “Hoàng Thành” đích thực: dành riêng nơi này
cho vương triều và việc triều chính. Còn chúng dân thì phải di dời ra mà ở
ngoài khu vực Hoàng Thành này.
Quang cảnh đảo Cẩu Nhi - hồ Trúc Bạch -
Hà Nội
Chiếu cố đến tính cách là “thần dân”, đặc biệt chốn kinh kỳ của họ, vào
và từ năm 1014 (tức 15 năm trước khi Lý Thái Tông - rút kinh nghiệm từ
vụ “loạn tam vương” năm 1028, bục ra ở ngay chính giữa khu vực gốc lõi
“Thăng Long Thành” - đã cho xây ở đây vòng tường / để hình thành khu
vực / “Long Thành” (Thành Rồng) mà về sau thì gọi là “Cấm Thành”,
đồng thời / nhờ đấy mà/ chính thức hoàn chỉnh quy hoạch “ Tam trùng
thành quách” cho kinh đô Thăng Long, từ đây vị hoàng đế khai sáng vương
triều nhà Lý và kinh đô Thăng Long bắt đầu cho đắp dựng công trình kiến
trúc thành lũy thứ hai, sau công trình xây dựng thứ nhất - Thăng Long
Thành (năm 1010) - là vòng luỹ đất “kinh thành” (cũng có lúc gọi là
“Thành Đại La”) làm thành vành đai bao quanh và bảo vệ kinh đô ở mé
ngoài cùng, đồng thời phân biệt cả thân phận “thần dân” đặc biệt lẫn vị
thế đặc biệt của “đất kinh” (đất có vua) ở trong vòng luỹ đất đó, so với
chúng dân và đất đai tại các nơi khác.
“ Thăng Long tứ trấn” ( bốn điểm thiêng trấn giữ 4 chính phương kinh kỳ)
đã được hình thành và xác định giữa bối cảnh đó. Trong đó, “Đông trấn”
- (trấn giữ phía đông) cũng đồng thời là mốc giới cực đông của địa giới
kinh kỳ, chính là toà kiến trúc “đền Bạch Mã”.
Nhiều chức năng và chức trách lịch sử lớn như thế, nhưng chốt lại, trước
mắt chúng ta bây giờ, ngôi đền quan trọng này, vẫn chỉ hiện hữu như một
kiến trúc tín ngưỡng, mang phong cách và đặc trưng của lịch sử và văn
hoá thế kỷ 19 thời Nguyễn.
Cái đặc sắc của công trình kiến trúc có niên đại chỉ là thời Nguyễn này
chính là cái “vỏ cua” (mái vòm hình mai con cua) thứ nhất liên kết giữa
phương đình và đại bái của ngôi đền. Rồi, nối Đại bái với Thiêu hương,
lại một “vỏ cua” thứ hai nữa.
Những chiếc “vỏ cua” này, ngoài hình thù độc đáo, còn có tác dụng khép
kín các đơn nguyên kiến trúc, liên kết chúng lại dưới một hình thức đặc
biệt che đỡ toàn bộ bên trên, tạo ra sự rộng rãi cho tổng thể kiến trúc,
đồng thời khiến cho ngôi đền Bạch Mã trở thành một công trình nghệ
thuật kiến trúc hiếm thấy, giữa các kiến trúc tín ngưỡng cùng niên đại,
trên vùng đồng bằng Bắc Bộ.
So sánh kiến trúc đền Bạch Mã với các kiến trúc không có “liên kết vỏ
cua”, người ta thấy các di tích không xuất hiện thứ kiến trúc này, có mặt
bằng kiến trúc bị chia ra từng phần, không gian sử dụng ít đi, mưa nắng
tự nhiên gây nên sự xuống cấp cho kiến trúc, đặc biệt là cung cấm thì
giảm bớt sự âm u huyền bí.
Vậy là, chính những cái “vỏ cua” của ngôi đền mà tính cổ kính chỉ đếm
được đến con số chưa đầy hai thế kỷ, đã khiến che đỡ (bảo lưu) được cả
niềm tin và nhận thức của người ta đối với lịch sử trường kỳ đến nghìn
năm, hơn cả nghìn năm !
ở trường hợp ngôi đền Bạch Mã / không / hoặc ít / có ai “thắc mắc” về sự
liên quan, thậm chí: sự đồng đại, giữa công trình kiến trúc này với thời
định đô Thăng Long. Mặc dù xét cho cùng, chính / và chỉ có truyền thuyết
là nền tảng, cả cho sự xuất hiện, lẫn sự tồn tại của công trình kiến trúc
luôn được đánh giá rất cao này.
3. Đền Cẩu nhi
Thời định đô Thăng Long, nếu ít có dấu tích kiến trúc đích thực để lại cho
đời thì cuộc đời lại cho thời này vô cùng nhiều huyền thoại truyền thuyết,
và các chứng tích huyền kỳ.
Người thiên đô Hoa Lư - định đô Thăng Long sinh năm 974 và thi hành sứ
mạng trọng đại của mình vào năm 1010. Ai cũng biết cách tính đếm năm
tháng như thế này, ở vào thời gian ấy, không tồn tại. Chỉ có hệ thống (10)
- “Can” - (12) “chi” và, theo hệ thống tính đếm này, thì đó là các năm Giáp
Tuất và Canh Tuất - tất cả đều “cầm tinh” con chó.
Những huyền thoại và huyền tính về / và của / con vật mà ngày ấy, chính
là “linh vật” (bởi khả năng xua đuổi tà ma của tiếng sủa) vì thế vô cùng
nhiều gắn bó với Lý Thái Tổ, đặc biệt là với cuộc định đô Thăng Long
của ngài.
Huyền thoại về thần Cẩu Nhi nằm trong số đó. Và, cũng như huyền thoại
về thần Bạch Mã đã gắn bó với huyền tích đền Bạch Mã, huyền thoại về
thần Cẩu Nhi cũng gắn bó với huyền tích đền Cẩu Nhi.
Về mặt văn bản và văn bản học, nếu sách “Việt điện U linh” là cơ sở văn
bản của cả huyền thoại lẫn huyền tích thần - đền Bạch Mã, thì cơ sở ấy
của huyền thoại - huyền tính thần - đền Cẩu Nhi, là sách “Tây Hồ Chí”.
Nếu “Việt điện U linh” đã được chứng minh là sản phẩm thư tịch có giá
trị của / ở đầu thế kỷ 14, thì “Tây Hồ Chí” cũng đã được minh chứng là
sản phẩm thư tịch có giá trị của / ở cuối thế kỷ 19.
Không ai cần khai quật khảo cổ học dưới nền đền Bạch Mã để tìm bằng
chứng khoa học và vật thể cho niềm tin và sự nhận hiểu về mối liên quan
giữa công trình kiến trúc này với thời định đô Thăng Long.
Thế thì cũng vậy, chẳng cần phải khai quật khảo cổ học, hoặc cả nghiên
cứu địa lý - địa chất, ở và cho hòn đảo nhỏ nằm trong Hồ Trúc Bạch, để
xác định độ tin cậy cho tâm thức và tri thức của mọi người, đối với thần
Cẩu Nhi tại ngôi đền Cẩu Nhi, từng đã tồn tại và sẽ được khôi phục ở
nơi này.
Bớt đi những “thắc mắc” không cần thiết, như đã là thế đối với công trình
kiến trúc đền Bạch Mã ở 76 phố Hàng Buồm, thì ở chỗ nước xanh Trúc
Bạch đang nhô đội lên um tùm cây cỏ một cù lao xinh xắn, sẽ là và có
một kiến trúc tín ngưỡng và cảnh quan xứng đáng, liên quan đến thời định
đô Thăng Long trong tâm thức - tâm linh và dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long Hà Nội của mọi người.
(GS. Lê Văn Lan )
Tìm trong di sản:ĐỀN BẠCH MÃ
- Bạch Mã là một trong những di tích lịch sử- văn hóa nổi tiếng của Hà Nội.
Người Hà Nội xưa và nay, cũng như khách thập phương trong, ngoài
nước vẫn coi đây là một trong những chốn hành hương không thể không
đến trong cuộc đời.
Đền Bạch Mã tọa trên phố Hàng Buồm, là nơi thờ một trong bốn vị thần
trấn giữ bốn phương của kinh thành Thăng Long xưa. Thần đền Bạch Mã
thuộc một trong (tứ thần tứ trấn ấy là: bắc Trấn Võ, nam Cao Sơn, tây
Linh Lang, đông Bạch Mã). Sự giao thoa văn hóa Hán - Việt trong thời kỳ
Bắc thuộc đã để lại những dấu ấn phong phú. Từ thực tế lịch sử đó, trong
thư tịch cổ vẫn còn một vài ghi chép chưa thật nhất quán về thần Bạch
Mã. Khi đọc tấm văn bia nói về việc trùng tu đền, dựng năm Đinh Mão,
niên hiệu Chính Hòa 8 (1687) và sách thờ cúng ở đền, thì đền thờ Mã
Phục Ba đời Hán, tức Mã Viện từng giữ chức Phục Ba tướng quân.
Nhưng theo các sách Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh thì đền thờ
thần Long Đỗ (hay Long Độ) của đất Đại La, tức Thăng Long, nay là Hà
Nội.
Trước khi bàn về vấn đề này, xin nhắc lại một chút sự tích thần Bạch Mã
hiện được chép trong các sách Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái.
Như chúng ta đã biết xưa kia khi Cao Biền người nhà Đường sang cai trị
nước ta, có cho bồi đắp thành Đại La. Một hôm Biền đang vơ vẩn dạo
chơi ngoài thành cửa Đông, thấy có đám mây 5 màu rực rỡ bốc lên từ mặt
đất, rồi tụ lại ở không trung. Giữa đám mây mông lung mờ ảo, Biền thấy
hiện ra một người cưỡi rồng vàng, đầu đội mũ hoa đỏ, mình mặc áo tía
xiêm thêu, đi giầy đỏ. Rồi mùi thơm tỏa ra ngào ngạt, tiếng nhạc vang
lừng, hồi lâu mới tan đi. Đêm hôm đó, Biền mộng thấy người gặp lúc ban
chiều. Người ấy bảo Biền rằng: “Ta là Long Độ vương khí quân, thấy
ông mở rộng kinh thành thì đến xem chơi, chớ có ngờ”. Biền tỉnh dậy sai
bọn thủ hạ dựng đền tô tượng, rồi ngầm dùng một tấm sắt đồng làm bùa
- trấn yểm. Bỗng một trận cuồng phong nổi lên quật đổ cây to, làm cho tất
cả đồ yểm bằng sắt đồng đều biến thành cát bụi. Biền than thở: “Ta sẽ
phải về đất Bắc thôi”. Quả nhiên sau đó, Biền phải trở về Trung Quốc.
Tượng thần Bạch Mã
Đến đời Lý Thái Tổ (1010), khi vua dời đô về đây, muốn mở rộng phủ
thành, nhưng đắp thành nhiều lần không được. Vua cho người đi hỏi dân
chúng, mới biết ở đất này có hiển linh từ trước, vua bèn sai biện lễ cầu
đảo. Đêm ấy vua nằm mộng gặp thần tới chúc mừng và dặn nhà vua rằng
cứ theo dấu vó ngựa mà đắp, tất sẽ thành công. Bấy giờ vua thấy có con
ngựa trắng phi thẳng vào đền rồi biến mất. Hôm sau, nhà vua thấy có dấu
chân ngựa in trên mặt đất thành đường vòng tròn, bèn sai người cứ theo đó
mà xây thành đắp lũy, xây tới đâu được chắc tới đấy. Nhà vua sai tạc một
con ngựa trắng để thờ và ban sắc phong cho thần làm “Thăng Long Thành
hoàng Đại vương”. Vì thế gọi đây là đền Bạch Mã (đền ngựa trắng).
Suốt từ đời Lý Thái Tông sang tới đời Trần, Thăng Long phát triển trở
thành nơi đô hội, song cũng không biết bao phen hỏa hoạn loạn tặc,
nhưng không biết vì lẽ gì đó riêng đền thờ thần Bạch Mã vẫn nguyên
vẹn. Vì thế, triều đình gia phong cho thần được hưởng lộc: Các kỳ nghinh
xuân đều cử hành tại đây.
Đền Bạch Mã trên phố Hàng Buồm
Hiện trong đền vẫn còn tấm biển gỗ đề thơ của Thái sư Trần Quang
Khải rằng:
Tích văn hách trạc Đại vương linh,
- Kim nhật phương tri quỉ mị kinh.
Hỏa bắc tam khu thiêu bất tận,
Phong lôi nhất trận phiến nan khuynh.
Chỉ huy vọng lượng tam thiên chúng,
Hô hấp tiễu trừ bách vạn binh.
Nguyện trượng dư uy thanh Bắc khấu,
Đôn linh vũ trụ lạc thăng bình.
Tạm dịch:
Hiển hách từng nghe tiếng Đại vương,
Nay hay quỉ quái thảy kinh nhường.
Lửa đốt bao phen không thể cháy,
Phong ba một trận chẳng hề long.
Ra tay trừ diệt loài hung quỉ,
Thét lớn một lời dẹp vạn binh.
Nguyện cậy dư uy trừ giặc bắc,
Khiến cho thiên hạ sống thanh bình.
Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào các sách Việt điện u linh, Lĩnh Nam
chích quái, Trấn Vũ quán lục, Bạch Mã thần từ khảo chính và truyện
Quảng Lợi thánh hựu uy tế phu ứng đại vương phân tích và chỉ ra rằng,
do nhân việc trùng tu đền Bạch Mã vào năm Đinh Mão (1687), bấy giờ
bức tường đằng Đông bị đổ nát, các thương nhân Bắc quốc như Chiêm
Trọng Liên đứng ra quyên góp tiền bạc để tu bổ lại đền
Trịnh Tuấn Am trong Bạch Mã thần từ khảo chính từng phân tích, nhân
dịp trùng tu đền, các thương nhân Bắc Quốc đã vô tình hay hữu ý đưa tên
hiệu của Mã Viện, một nhân vật lịch sử của Trung Quốc vào sách thờ ở
- đây, từ chữ “Bạch Mã” họ đã chữa ra Mã Viện, điều này không khó. Tác
giả kết luận: “Cái cảm ngư lỗ truyền ngoa chi ngộ” tức cảm thấy đây là
một sự lầm lẫn, chữ “ngư” đánh thành chữ “lỗ”, nhất thiết phải đính
chính, để khỏi truyền mãi cái sai về sau. Cho nên cần phải hiểu đó là nơi
thờ thần đất Hà Nội.
Theo một cách lý giải khác, từ cảm nhận của chúng tôi, như đã trình bày ở
đầu bài viết, Bạch Mã chính là nơi hội tụ tính linh thiêng thời gian trong
quá trình hình thành và phát triển của đất Thăng Long xưa, và cũng là nơi
ít nhiều để lại dấu ấn của những kiều dân Trung Hoa trong thời kỳ di dân
phát nghiệp xuống phía Nam từ thế kỷ 17. Đó chính là sự tất nhiên của
một nền văn hóa mà không ai có thể phủ nhận. Vấn đề ở đây là: Cốt lõi
văn hóa Việt của con người Việt được thể hiện một cách dung dị và mang
tính thuyết phục cao, qua kiến trúc, văn bia, thần tích, tục lệ, lễ hội của
đền Bạch Mã, đồng thời dung nạp những tinh hoa văn hóa bên ngoài một
cách có chọn lọc.
Bạch Mã - Huyền thoại và hiện thực đan xen nhau, tạo ra một bức tranh
lịch sử sinh động, rất đáng để cho mỗi chúng ta, những người con của Hà
Nội nay, suy ngẫm và cống hiến cho ngày mai của Hà Nội.
Vũ Xuân Hiển - Viện nghiên cứu Hán Nôm (Từ HNMĐT)
nguon tai.lieu . vn