Xem mẫu
- Yếu tố nghệ thuật của thư từ và thư từ trong
tác phẩm văn học
1. Thư từ là phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, xuất hiện khá sớm,
đặc biệt đối với các nền văn minh cổ đại. Dấu vết sớm nhất của hình thức thư
được tìm thấy là giấy ghi nhận có nợ bằng tiếng Ackat (Mêdôpôtami, thuộc
miền Lưỡng Hà - Irắc ngày nay) khắc trên thỏi đất sét, khoảng vào thế kỷ
XIX tr. CN. Thư từ của các pharaông Ai Cập được viết trên giấy cói (-XIV-
XI); người Hi Lạp xưa định cư là chủ yếu và chuộng trao đổi bằng lời nói,
giao tiếp thư từ chủ yếu thể hiện thông qua các chiến binh, những người đứng
đầu nhà nước và các quan viên; người La Mã thể hiện mong muốn gìn giữ,
duy trì mối liên hệ với người vắng mặt qua việc trao đổi thư từ, do đó thư gia
đình tương đối phổ biến... Bắt đầu từ những dạng sơ khai ban đầu đó, thư từ
trở thành phương tiện liên lạc, và là hình thức giao tiếp tinh thần của con
người.
Giá trị thực tiễn của thư từ là trao đổi thông tin, bao gồm cả văn bản hành
chính và thư từ cá nhân. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới
thư từ cá nhân với những giá trị nghệ thuật vốn có như là đặc trưng của thể
loại. Với thư từ, ngôn ngữ viết được dung nạp vào đời sống giao tiếp nói năng
hàng ngày. Ngược lại cũng có thể nói, trong tất cả các thể loại viết, thư từ gần
với giao tiếp thường ngày nhất. Nó có tính xác thực rất cao và đồng thời thể
hiện đời sống tình cảm riêng tư rõ rệt. "Thực tế xác thực mà tiểu thuyết, thơ
không có khả năng tạo ra, lại có ở trong thư từ. Các bức thư chiếu sáng mười,
hai mươi, bốn mươi năm cuộc đời một con người, đó thực sự là lịch sử của
tâm hồn: đó là những thứ không thể phủ nhận, là tư liệu duy nhất của con
người" (G. Lanson, 1). Đối tượng phản ánh của thư từ là cái hiện tại, cái hàng
ngày, và động lực của nó là cảm xúc. Thư là để thông tin cho nhau, nhưng thư
cũng là để giãi bày. Nhật ký viết cho riêng mình, còn thư phải hướng đối
1
- tượng. Những bức thư hay được viết trong những thời điểm cảm xúc thăng
hoa, và niềm say mê trở thành sự thôi thúc không thể kiềm chế, phải được trải
ra bằng lời và thực hiện đối thoại với người vắng mặt trên trang giấy, với
niềm hi vọng và tin tưởng rằng nó sẽ đến tay người nhận và được thông tỏ nỗi
niềm. Điều này rất đúng với trường hợp của Bà de Sévigné (1626 - 1696),
người đã từng viết 1500 bức thư từ năm 1671 đến năm 1696. Đó là những bức
thư đầy xúc động nói lên niềm thương nhớ của một người mẹ đối với con gái
trong rất nhiều năm chờ đợi. Những bức thư đã từng chu chuyển qua hơn hai
trăm nơi chốn theo bước chân của hai vợ chồng bá tước De Grignan ghi lại
những thăng trầm của đời sống cũng như tình cảm trong hai mươi lăm năm xa
cách. Bà de Sévingé đã thực sự sáng tạo ra phong cách của riêng mình, bởi bà
viết một cách tự nhiên với những tình cảm tự nhiên, không gò bó theo phép tu
từ (trường học không dạy phép tu từ cho nữ giới, bản thân bà cũng không
được tham khảo những cuốn sách có tính lý luận), và lối viết không theo một
"trình tự nhận thức" như M. Proust (1871 - 1922) đã nói. Rất nhiều những bức
thư của bà đã làm say mê độc giả và người ta chuyền nhau chép lại. Người
phụ nữ này biết rằng một trong số những bức thư của mình sẽ có lúc trở thành
"thư ngỏ" với độc giả nhưng chắc chắn bà chưa bao giờ hình dung những bức
thư đó sẽ được xuất bản. Bà đã viết những bức thư bình dị nhất và chân thành
nhất, như bao lá thư thông thường của những người mẹ luôn lo lắng cho đứa
con đang ở xa mình. Thư của bà rất gần với đời sống tình cảm vốn có của con
người.
Chúng tôi muốn nói thêm rằng, thư từ không chỉ làm sáng tỏ cuộc đời
một con người, mà còn có thể chứng thực cho lịch sử một dân tộc ở một thời
điểm nào đó. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, hàng ngàn,
hàng triệu bức thư đã có mặt trong ba lô của người chiến sĩ vượt đường
Trường Sơn vào Nam ra Bắc. Năm 1963 - 1964, Nhà xuất bản Văn học đã
sưu tập và xuất bản gần 80 bức thư tiêu biểu của đồng bào miền Nam gửi ra
2
- Bắc, trong hai tập sách Từ tuyến đầu Tổ quốc. Từ những lá thư của các cá
nhân gửi cho người thân, bạn bè mình ngoài Bắc, tập hợp các bức thư dưới
dạng hồi ký đã là bằng chứng xác thực nhất về tội ác tày trời của bọn Mỹ
Ngụy, cũng như sự ghi nhận về tinh thần anh dũng kiên cường của đồng bào
miền Nam trong đau thương đã đứng lên đấu tranh với bè lũ cướp nước.
Chân thực trong phản ánh là đặc tính nổi bật của thư từ, nhưng là sản
phẩm của sáng tạo, thư từ cũng mang cấu trúc tưởng tượng - kể. Bắt đầu từ
khi người viết đặt bút viết một bức thư, anh ta đã bắt đầu "bịa chuyện", xây
dựng nhân vật - một cái "tôi" với một cuộc đời, một kinh nghiệm, hình dung
và thiết lập mối quan hệ với nhân vật mà anh ta giao tiếp. Thư từ như chiếc
cầu nối giữa hai đối tượng là người gửi - người nhận. Tuy nhiên, ở đây, vấn
đề người gửi - nhiều nhận không đơn giản. Một mặt, được viết ở ngôi thứ
nhất, nhưng cái "tôi" tác giả - tức người viết với kinh nghiệm, vốn sống của
mình - không hoàn toàn đồng nhất với cái "tôi" văn bản - tức chủ thể trong
thư, tương tự như ở thể loại tự truyện, tác giả thực tế không hẳn trùng khít
hoàn toàn với người kể chuyện và nhân vật chính. Mặt khác, bởi thư từ không
phải là một hình thức giao tiếp trực diện trong các cuộc gặp gỡ hay trao đổi
trực tiếp như qua điện thoại, cho nên luôn luôn tồn tại độc giả ngầm ẩn, ngôi
thứ hai do tác giả gợi lên, nhớ lại hay tưởng tượng ra, giống như một hình ảnh
vẽ trên trang thư. Tác giả (người viết thư) giao tiếp với độc giả thực tế thông
qua độc giả ngầm ẩn này. Thậm chí, có những trường hợp tác giả hoàn toàn
không quen biết, chưa quen biết người nhận thư, hoặc cũng có nhiều những
bức thư không gửi, cho nên tác giả chỉ giao tiếp với người đọc tưởng tượng.
Nhưng dù tưởng tượng thì người đọc đó cũng hiện diện bởi người viết gọi đến
anh ta như một độc giả và luôn hình dung, chờ đợi phản ứng của người đọc
này. Như vậy, đối với thư từ, có bốn nhân vật cùng tồn tại và mỗi nhân vật
như sống hai cuộc đời song song: tác giả (người viết thực tế), cái "tôi" văn
bản (chủ thể trong thư), ngôi thứ hai văn bản (người đọc tưởng tượng) và độc
3
- giả (người nhận thực tế), trong đó cái "tôi" văn bản và ngôi thứ hai văn bản là
sản phẩm của sự hư cấu.
Thư từ thường đề cao tính chính xác về thời gian. Mỗi bức thư được viết
ở một thời điểm cụ thể, và dấu ấn thời gian đó được ghi trên dòng đầu tiên
của bức thư. Nhưng giữa các bức thư trao đổi bao giờ cũng tồn tại khoảng
cách. Có thể nói khoảng cách, cả về khoảng cách địa lý và khoảng cách tình
cảm, là điều kiện tồn tại của thư từ. Nhiệm vụ của thư từ là rút ngắn khoảng
cách đó. Mặt khác giữa thời điểm bức thư được viết và thời điểm nó được đọc
luôn có độ chênh. Độ chênh này thường không ổn định, bởi nó tuỳ thuộc vào
khoảng cách không gian giữa người gửi và người nhận, tùy thuộc vào phương
tiện lưu chuyển, tùy thuộc vào quan hệ giữa các chủ thể liên lạc và độ mật
thiết trong quan hệ đó ở từng thời điểm khác nhau. Thời gian dường như bị
"hoãn lại". Thời hiện tại của người viết bao giờ cũng trở thành thời quá khứ
đối với người nhận. Giao tiếp người gửi - người nhận không cùng lúc đã tạo
nên sự hư cấu về thời gian.
Như vậy, thư từ không đơn giản chỉ là một phương tiện giao tiếp sử dụng
ngôn ngữ viết. Trong bản thân thể loại, thư từ chứa đựng những yếu tố nghệ
thuật sẽ vận dụng một cách hữu ích trong tác phẩm tác phẩm văn học. Thư từ
đã trở thành công cụ trao đổi, tranh luận về các vấn đề của văn học. Mặt khác,
đối với các nhà văn, như Voltaire (1694 - 1778), G. Sand (1804 - 1876)... nhất
là những nhà văn coi viết là nghề, thư từ là một phần hết sức quan trọng trong
sáng tác của họ - nó không chỉ là những tư liệu hay "lời tựa" về cuộc đời nhà
văn, không chỉ soi sáng mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm - độc giả, mà bản
thân thư từ là những văn bản văn học. Tuy nhiên, những nghiên cứu tiếp theo
của chúng tôi không nhằm vào những đối tượng này, mà là những thư từ với ý
nghĩa là một mặt gắn bó không tách rời của tác phẩm nghệ thuật hư cấu.
2. Thư từ là một mô típ trong các tác phẩm, đặc biệt là truyện ngắn và tiểu
thuyết. Nó thường được sử dụng với mục đích nhấn mạnh tính xác thực,
4
- thuyết phục độc giả về vấn đề được đặt ra trong truyện. Hoàng Ngọc Phách đã
gần như sử dụng nguyên những bức thư của Đạm Thủy và Tố Tâm cùng với
những trang nhật ký có thể coi là những bức thư được đọc muộn mằn của Tố
Tâm, như một minh chứng hết sức cụ thể cho mối tình đầy bi kịch của hai
người.
Có thư từ là đầu mối của sự kiện, trung tâm của cốt truyện, có những bức
thư chỉ xuất hiện vào một thời điểm nào đó trong tiến trình của câu chuyện,
như Bà Bovary (Madame de Bovary - 1851/1856) của G. Flaubert (1821 -
1880), Đỏ và Đen (Le Rouge et le Noir - 1830) của Stendhal (1783 - 1842),
Hội chợ phù hoa (Vanity fair - 1847) của W. M. Thackeray (1811 - 1863), Tố
Tâm của Hoàng Ngọc Phách (1896 - 1973) ... Cũng có những trường hợp thư
từ đơn thuần chỉ là một dạng trang trí hay làm phong phú hình thức của
truyện. Cuốn chuyên khảo Thư từ (La Lettre) của M. L Taymans, S.
Vandenschrick, H. Vellut-Abraham nêu ra ba mối quan hệ :
1) Thư - văn bản: thư từ làm chậm sự kiện: thư chuyển thông tin; thư từ
bình chú cho sự kiện: các bức thư có nội dung chứng minh, xin lỗi, hiệu
chỉnh, giải thích; thư từ kích động sự kiện: thư mời, thư đe dọa, thông báo
thừa kế, thông báo phá sản...
2) Thư - đối tượng: Thư từ chồng chéo, giao thoa với tiến triển của hành
động mà không được độc giả nêu lên: hoặc các bức thư này không có gì quan
trọng, hoặc nó không được đọc, hoặc là thực tế bức thư không hề được viết,
không có thực.
3) Thư văn bản và đối tượng: thư được đọc nhưng người đọc thư không
phải là người được gửi; thư gán cho một người thực ra không phải là tác giả
của nó; thư được đọc hoặc viết không đúng lúc...(2)
Nhìn chung, trừ một số bức thư tham gia đắc lực vào tiến trình hành động,
dẫn dắt sự kiện hoặc thực sự gây "biến cố", sự có mặt của các bức thư trong
truyện thường làm chậm nhịp kể. Lượng thông tin trong thư thường không đủ
5
- để lập lại tính liên tục của câu chuyện. Nhưng ở góc độ khác, thư từ không
những là phương tiện hữu hiệu để rút ngắn khoảng cách, duy trì liên hệ mà
còn duy trì thông tin cho người đọc trong những lúc nhân vật thực hiện những
chuyến du hành của họ hay những lúc họ phải cách ngăn. Những bức thư gia
đình, đặc biệt là thư của người bố, chiếm một phần đáng kể trong cuốn tự
truyện Kí ức về cuộc sống (Mémoires de la vie) của G. Sand. Điểm nhìn bên
trong của tiểu thuyết và truyện ngắn được nhân lên qua các bức thư, trong đó
các nhân vật bộc lộ cảm nghĩ, đánh giá của mình về các sự kiện và về các
nhân vật khác. Tác giả có thể đi từ một điểm nhìn vô hạn định tới điểm nhìn
được hạn chế mà không đảo lộn lôgíc của dạng kể chuyện bởi độc giả hiểu rõ
sự kiện thông quan sự cảm nhận của nhân vật, đồng thời hiểu rõ bản chất của
nhân vật bộc lộ qua thư so với vẻ bề ngoài của anh ta. Hơn bất kỳ một lời nói
trực diện nào, bức thư đoạn tuyệt gửi Emma trong đó sự trốn chạy đê hèn đi
liền với những lời biện minh ngon ngọt giả tạo đã bóc trần bản chất đểu cáng
của Rodolphe (Bà Bôvary).
Thư từ cũng phân biệt lượng thông tin giữa độc giả và nhân vật. Độc giả
biết nội dung của bức thư trước khi nhân vật được đọc, và ngay cả khi nhân
vật không hề đọc; hoặc ngược lại, cũng có khi độc giả có khi có ít thông tin
hơn nhân vật bởi thư từ chỉ được nhắc đến mà không được trích dẫn văn bản,
như trong Hội chợ phù hoa, người kể chuyện nói rõ nguyên do: "Song, nếu
những bức thư của Ôxborn đều cộc lốc một cách rất nhà binh thì ta phải thú
thực rằng, giả sử phải đem in cả những lá thư cô Xetlê gửi cho Ôxborn, ắt
phải kéo dài cuốn truyện này thành nhiều tập, ngay cả những bạn đọc đa cảm
nhất cũng không thể chịu nổi" (3).
Đặc biệt, thư từ cũng góp phần cách tân nghệ thuật tiểu thuyết như Vườn
bách thú (1923) của V. Chklovski (1893 - 1984), Bọn làm bạc giả (Les Faux-
Monnayeurs - 1925) của A. Gide (1869 - 1951)... Bọn làm bạc giả là cuốn
tiểu thuyết về tiểu thuyết: nhân vật éduard viết một thuyết cùng tên với tiểu
6
- thuyết của Gide. éduard không chỉ là người bình luận duy nhất trong tác phẩm
mà Gide cũng can thiệp với vai trò tương tự. Sử dụng nhiều kĩ thuật khác
nhau: thư từ, trích đoạn nhật ký, lời đối thoại, lời gián tiếp.., tác giả nhân lên
nhiều điểm nhìn khác nhau và ngăn độc giả thoát ra ngoài tính chân thực
thống nhất, duy nhất của tổng thể tiểu thuyết.
Sự có mặt của thư từ ảnh hưởng đáng kể đến các yếu tố tổ chức tác phẩm.
Vận dụng thư từ là một sáng tạo độc đáo: phong phú hóa phương tiện chuyển
tải nội dung và đa dạng hóa hình thức tác phẩm.
3. Cuối cùng, chúng tôi dừng lại ở thể loại tiểu thuyết bằng thư (TTBT),
hình thức tiểu thuyết sử dụng thư như một phương tiện chuyển tải hữu hiệu
của quá trình tự sự, sử dụng lối kể và hư cấu của tiểu thuyết, vay mượn hình
thức của thư từ, trong đó các bức thư đóng vai trò quan trọng trong tổ chức
cốt truyện. TTBT ra đời từ các nước phương Tây, đặc biệt là ở Pháp. Nó có
tiền đề từ những sáng tác trữ tình bằng thơ - Héroides của Ovide (43 tr.CN -
17), Những bức thư của Abélard và Héroides (Lettres d'Abélard et Héroides),
tác phẩm của Dante (1265 - 1321) và Boccace (1313 - 1375), thư viết bằng
ngôn từ tình yêu của phong trào Phục hưng... Cùng với hồi ký và ngụ ngôn,
thư là một trong ba thể loại mới nảy sinh từ đời sống thượng lưu của thế kỷ
XVII, đặc biệt là những bức thư dành cho phái nữ - thư của các phụ nữ kiểu
sức, kiểu cách. Nhìn chung, TTBT là cuộc hội ngộ giữa hai dạng thư: thư trao
đổi, tranh luận triết học và thư bày tỏ tình yêu, thoát ra ngoài khuôn khổ của
văn bản chính thức: Những bức thư tỉnh lẻ (Lettres provinciales - 1656) của
Pascan (1623 - 1662), Những bức thư tình yêu (Lettres galantes - 1685) của
B.B. de Fontelle (1657 - 1757) ... "Thành công này được chuẩn bị trong một
thời gian dài cùng với biểu hiện trữ tình, nhất là tình yêu và sự phát triển của
hình thức nghệ thuật thư tín. Bi kịch của Raxin, nghệ thuật hùng biện của
Bossuet, tiểu thuyết tâm lý của Bà de la Fayette mách bảo cho TTBT nói về
7
- tình yêu một cách thành thực nhưng vẫn theo khuôn mẫu đạo đức thời đại"
(4).
Những bức thư của một nữ tu sĩ người Bồ Đào Nha (Lettres d'une
religieuse portugaises) của G. de Lavergne de Guilleragues (1628 - 1685) ra
đời vào năm 1669 là câu chuyện về một nữ tu sĩ Bồ Đào Nha bị quyến rũ và
bị bỏ rơi, đã viết thư 5 bức thư gửi cho người tình bội bạc là một sĩ quan
người Pháp. Thư trả lời không được đề cập đến, hay nói đúng hơn là không có
thư trả lời - Đây có thể coi như cuốn tiểu thuyết đơn thanh đầu tiên đánh dấu
sự ra đời của TTBT.
Thư từ nở rộ dưới mọi hình thức, như một thể loại quan trọng bậc nhất
của thế kỷ XVIII, đặc biệt vào nửa sau thế kỷ. Hầu hết các nhà văn lớn của
thế kỷ này đều chuộng viết thư, đặc biệt là Voltaire, người đã viết 21 000 bức
thư, tác giả của Những bức thư triết học (Lettres philosophiques - 1734) (5).
TTBT trở thành hình thức thông dụng của tiểu thuyết, thể hiện khuynh hướng
xã hội hóa, quan tâm đến hạnh phúc của mỗi cá nhân cũng như tiến bộ chung
của cộng đồng trong thế kỷ ánh Sáng. Sử dụng hình thức châm biếm, Những
bức thư Ba Tư (Lettres Persanes - 1721) của S-L. de Montesquieu (1689 -
1755) thể hiện thế giới phương Tây qua con mắt của hai người đi du lịch đến
từ BaTư - Uskek và Rica. Cuốn tiểu thuyết này là sự pha trộn giữa tình yêu và
triết học cuộc đời, cũng là tác phẩm mở đầu của TTBT đa thanh, nơi gặp gỡ
những thư từ đan xen, nhân lên nhiều giọng của các nhân vật khác nhau.
Nếu như nửa đầu thế kỷ XVIII, hồi ký - thể loại viết ở ngôi thứ nhất và
viết ở hồi quá khứ còn chiếm ưu thế thì những thập niên còn lại, TTBT, thể
loại viết ở ngôi thứ nhất nhưng ở thời hiện tại đặc biệt nổi trội hơn. Năm
1780, J-J. Rousseau (1712 - 1778) viết Julie hay nàng Héloise mới (Julie ou
la nouvelle Héloise) với một dàn hợp xướng nhiều giọng xoay quanh hai
giọng chủ đạo của nhân vật chính, diễn tả sự giằng xé giữa tình yêu và đạo
đức. P. C. de Laclos (1742 - 1803) nổi tiếng với Những cuộc tình nguy hiểm
8
- (Les Liaisons dangereuses), xuất bản năm 1782, gây xôn xao bởi đề tài trụy
lạc. Laclos đã sử dụng kỹ thuật thư một cách hoàn hảo, lấy thư làm công cụ đi
liền với đối tượng phản ánh, đây là cuốn TTBT đồng thời là tiểu thuyết về các
bức thư. Có thể coi hai cuốn TTBT này những tác phẩm đỉnh cao của văn học
thư từ nói chung và TTBT nói riêng.
Sang thế kỷ sau, khoảng cách không gian và thời gian của việc trao đổi
liên lạc được rút ngắn nhờ phương tiện xe lửa, mặt khác báo chí phát triển trở
thành phương tiện thông tin các vấn đề thời sự và cũng là nơi bàn bạc và trao
đổi của giới trí thức. Thư từ không còn là những bí mật cá nhân mà được công
bố rộng rãi, đặc biệt thư từ của các nhà tiểu thuyết lớn như V. Hugo (1802 -
1885), O. Balzac (1799 - 1850), G. Flaubert (1821 - 1880... Hồi ký của hai
người vợ trẻ (Mémoires de deux jeunes mariées- 1841) của Balzac khá độc
đáo với dạng hồi ký sử dụng 57 bức thư trong suốt mười hai năm của hai
giọng nữ, hai người bạn Renée de Maucombe và Louise de Chaulieu, bàn
luận tranh cãi về cuộc sống hôn nhân, hạnh phúc gia đình. ở các nước khác
cũng xuất hiện những tác phẩm đáng chú ý như Một lô thư từ (Un lot de
lettres - 1879) của nhà văn Mỹ H. James (1811 - 1882)... hay Những người
đáng thương (Les pauvres gens - 1845) - cuốn tiểu thuyết đầu tay của F. M
Dostoievski (1821 - 1881) đã đưa đến cho nhà văn sự nổi tiếng, và V. G.
Bielinski (1781 - 1848) đã coi đó là "cuốn tiểu thuyết xã hội Nga đầu tiên" -
thể hiện qua những bức thư tình yêu của một nhân viên văn phòng nghèo
Devouchkine. Vào những thập niên cuối thế kỷ XIX ở Pháp, trường phái tự
nhiên không hứng thú với thể loại TTBT và nhìn chung TTBT đã có những
bước chậm, rơi vào "chứng ngủ lịm" và hầu như ngừng lại bắt đầu từ đó.
TTBT tồn tại trong vài ba thế kỷ, nhưng đã đóng góp cho văn học nhiều
tác phẩm xuất sắc, và nhiều tiểu thuyết gia như thực sự là những văn sĩ viết
thư hay. Điều đó thúc đẩy chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về dạng thức tiểu thuyết
độc đáo này.
9
- Thư từ được đưa vào tác phẩm, trở thành yếu tố cấu thành cơ bản của
tiểu thuyết. Đó là những văn bản chính thức hay do tác giả đặt ra, nhưng
thường trong lời tựa mở đầu, tác giả nói rõ vai trò của mình. Rousseau viết:
"... Mặc dù ở đây tôi chỉ mang tên là người xuất bản, bản thân tôi đã có làm
việc vào cuốn sách này và tôi không giấu điều đó. Tôi đã có làm tất cả không,
và toàn bộ thư từ trao đổi có là một hư cấu không? Hỡi những người xã giao,
người cần chi điều đó? Đối với người chắc chắn đó là một hư cấu..." (6). Tác
giả là người xây dựng cốt truyện, chọn vai đóng người viết thư hay, lập trật tự
sắp xếp các bức thư, thay đổi luôn luôn lối viết cho phù hợp kiểu thư của mỗi
nhân vật... Tuy vậy, TTBT là thể loại mà tác giả vắng mặt nhiều hơn bất kì
thể loại nào khác. Do đó diễn ngôn của nhân vật (lời thư) luôn có tính liên tục,
không chịu sự can thiệp của tác giả và loại trừ được những dấu hiệu gián tiếp
về tổ chức hay lời đánh giá từ bên ngoài. Tác giả thường trao ngòi bút của
mình cho một "văn sĩ viết thư hay" mà anh ta tin tưởng, nhân vật đó mang
đậm dấu ấn phong cách của nhà văn nhất. Công chúng đọc thư là ngôi thứ hai
rất phong phú: người nhận hiện hữu, người nhận tưởng tượng, độc giả thực tế
giấu mặt, tiềm ẩn...
Cũng như thư từ nói chung, hai nhân vật không thể thiếu của TTBT là
người viết - người đọc hay người gửi - người nhận, đó là hai cực hút lẫn nhau
tạo nên tiến triển của câu chuyện được dệt nên qua những trang thư. Câu
chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nó ít hướng tới sự kiện hơn là quan sát
những gì đang diễn ra trong lòng nhân vật. Với điểm nhìn từ bên trong, nhân
vật không ngần ngại nói lên những gì mà anh ta cảm và nghĩ. Là thể loại văn
học mang đậm tính chủ quan, phân tích sâu rộng về đời sống tình cảm bên
trong của con người, TTBT đồng thời cũng là tác phẩm khách quan nhất do
đảm bảo tối đa về vẻ giống như thật.
TTBT thể hiện ở dạng đơn thanh và đa thanh. Ở dạng đơn thanh, chỉ có
một người viết thư (người nhận không trả lời, thư không thể tới hay thất
10
- lạc...). Do đó tiểu thuyết chỉ có một điểm nhìn duy nhất, ổn định. Trước khi
xuất hiện hình thức đa thanh, TTBT đơn thanh thường chỉ vang lên một giọng
nữ và người viết là nữ này nghe giọng của chính mình: Những bức thư của
một người phụ nữ Péru (Lettres d'une péruvienne - 1747) của Bà de Graffigny
(1695 - 1758), cuốn TTBT nổi tiếng đã 42 lần tái bản trong 50 năm, Những
bức thư Bồ Đào Nha của Guilleragues đã nói ở trên... ở dạng đa thanh, tồn tại
nhiều người viết thư và nhiều người đọc thư, vai trò người gửi - người nhận
chu chuyển liên tục, người thư từ trao đổi qua lại, vang lên nhiều giọng khác
nhau trong tiểu thuyết. Julie hay nàng Héloise mới (Julie ou la nouvelle
Héloise - 1761) của Rousseau tập hợp 173 bức thư, với mối quan hệ nhiều
chiều và các luồng thư đan chằng nhau giữa 9 nhân vật, xoay quanh những
khát khao tình cảm trong cô đơn, thiếu vắng của đôi thanh niên Julie và Saint-
Preux. Trong Những cuộc tình nguy hiểm, "bắt chéo" những dòng đối thoại
giữa hồn nhiên, đức hạnh và xảo quyệt để cáo giác mỗi một lời trong thư,
đồng thời thích thú đặt kề nhau những bản tường thuật khác nhau của cùng
một cảnh và đối lập điểm nhìn của nhân vật. Trong dạng tiểu thuyết này, do
điểm nhìn đa dạng, độc giả thực tế phải hướng theo điểm nhìn của nhân vật
chính, hay cố gắng hòa giải các điểm nhìn này trong một điểm nhìn duy nhất
là điểm nhìn của chính độc giả.
Dãy liên tiếp các bức thư mang lại tổ chức thời gian bên ngoài (ngày
tháng được ghi lại) và thời gian riêng (thời gian viết, thời gian đọc) hợp thành
hệ thống thời gian độc lập của TTBT. Thư từ luôn có tính hiện tại - dấu ấn
của thời gian sống của người viết, thời gian viết... Có tác phẩm ghi thời gian
rõ ràng, chính xác; có tác phẩm không ghi ngày tháng; có lúc thời gian mang
tính hư cấu; cũng có lúc thời gian đó chỉ được nêu trong lời tựa. Sự liên kết
các bức thư cho phép thiết lập một trật tự, một lịch biểu của tiến trình câu
chuyện. Tuy nhiên bản thân TTBT là thể loại lắp ghép với các bức thư đặt kề
nhau cho nên luôn tồn tại chỗ tạm ngưng ở khoảng giữa các bức thư. Hơn
11
- nữa, có những bức thư gửi nhận đều đặn, có lúc đến bất ngờ, có lúc thường
xuyên, có lúc thưa thớt, có lúc không thể tới nơi do hố ngăn cách, khoảng im
lặng giữa các nhân vật. Phía sau mỗi bức thư là khoảng giấy trắng, có thể coi
như khoảng trống không gian, "lỗ hổng" thời gian, chỗ tạm ngừng của truyện.
Tính đứt quãng, không liền mạch, cùng với độ dài ngắn của từng bức thư (có
khi thư được thay bằng thiếp ngắn) tạo nên nhịp điệu phong phú của TTBT.
TTBT chú trọng miêu tả tâm lý, nhưng ít miêu tả không gian, môi trường,
trừ những tác phẩm trong đó thư từ được kết hợp với loại truyện du hành
(récit de voyage) như Những bức thư của một người du hành Nga (Lettres
d'un voyageur russe) của Karamzine (1789 - 1790) - tập hợp lại những ghi
chép của Karamzine trong chuyến du lịch tới nước Anh, với sự pha trộn giữa
nghệ thuật, lối hài hước và giai thoại, ghi lại những ấn tượng, mô tả phong
cảnh xen lẫn với những điều tra và những châm biếm... Tuy nhiên, do tính
chất lưu chuyển, trao đổi, TTBT rất coi trọng những chỉ dẫn địa lý. Thư từ đòi
hỏi phải có nơi gửi và nơi nhận xác định, cụ thể. Mặt khác bản thân khía cạnh
tiểu thuyết trong TTBT cũng lưu ý tới những nơi chốn với ý nghĩa là "sân
khấu của hành động". Trong Những cuộc tình nguy hiểm, nông thôn và Paris
là môi trường, không gian thực tế của hành động và sự kiện. Tuy nhiên, ở đây
không gian được nhìn nhận về mặt ẩn dụ nhiều hơn, xoay quanh mối quan hệ
về tình yêu và sự sa ngã, đức hạnh và trụy lạc...
TTBT gần như đã thuộc về quá khứ, nhưng không có nghĩa đã hoàn toàn
đóng kín và không còn tiếng vọng. Chứng điên của Lithuanie (La folle de
Lithuanie) của B. Poirot-Delpech (1929 -) - Giải thưởng lớn về tiểu thuyết của
Viện Hàn Lâm Pháp năm 1970 - và Chuyển đổi (Transfert) của E. Kaufmann
gợi lại hình thức của TTBT qua phương tiện biểu hiện và phân tích tâm lý khi
nhân vật tự bộc lộ ở ngôi thứ nhất. ở thập niên 90, một số tác phẩm của B. H.
Lévy (1948 -), F. Ségan (1935 -), A. Maillett (1929 -)... đã kết hợp được tính
xã hội (vốn là đặc tính cơ bản của thể loại TTBT lúc khởi đầu) - con người
12
- hiện đại mong muốn gìn giữ chút gì còn sót lại của tính nhân văn - và tính cá
nhân (tiêu biểu cho TTBT thời kỳ đỉnh cao) - nét hiếm thấy trong một thời đại
mà con người đánh mất cả chính mình.
Kĩ thuật truyền thông ngày càng phát triển có ảnh hưởng đáng kể đến văn
học. Giải thưởng mang tên Sévigné - được mệnh danh là người phụ nữ của
thư từ nước Pháp - góp phần khẳng định điều này (7). Văn học sử dụng thư từ
vẫn còn phổ biến vào giai đoạn hiện nay và thư từ vẫn tiếp tục đóng góp vào
sự thành công của những tác phẩm văn học với ý nghĩa là một nội dung hay
hình thức chuyển tải một quá trình tự sự.
13
- Chú thích:
(1) (2) (4) M-L. Taymans, S. Vadenschrick, H. Vellut-Abraham - La
lettre, Didier Hatier, Bruxelles 1992, tr. 38-39, tr. 67-69, tr. 48.
(3) W. M. Thackơrê - Hội chợ phù hoa (Trần Kiêm dịch), tập 1, Nxb. Văn
học - Nxb. Đà Nẵng 1988, tr. 225.
(5) Còn gọi là Những bức thư Anh (Lettres anglaises).
(6) Rútxô - Juyli hay nàng Hêlôidơ mới (Hướng Minh dịch và giới thiệu),
Nxb. Văn học, H. 1982, tr. 23.
(7) Ken sợi (Fil à fil) của M. Cassan đạt giải Sévigné năm 1965.
14
nguon tai.lieu . vn