Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017 Ý thức văn nghệ trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ Aesthetic consciousness of Nguyen Cong Tru PGS.TS. Nguyễn Viết Ngoạn Trường Đại học Sài Gòn Nguyen Viet Ngoan, Assoc.Prof.,Ph.D. Saigon University Tóm tắt Ý thức văn nghệ trong sáng tác sẽ tạo nên phong cách cá nhân của tác giả. Ở văn học Việt Nam thời Trung đại, đặc biệt là giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, chính ý thức văn nghệ này đã giúp cho thế hệ các nhà Nho tài tử - trong đó có Nguyễn Công Trứ - trở thành chủ nhân của một nền văn học chống Nho giáo và hướng về chủ nghĩa nhân đạo. Bài viết nhằm làm rõ hơn vấn đề chủ thể hóa sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ, để ông - trong sáng tác của mình, có được một phong cách cá nhân nổi trội và khác lạ so với đương thời. Từ khóa: ý thức văn nghệ, Nguyễn Công Trứ, phong cách cá nhân, chủ thể hóa, nổi trội, khác lạ. Abstract Aesthetic consciousness helps writers to construct their personal styles. Amorous-and-talented Confucian scholars in Vietnam from the late 18th to the early 19th century, among whom Nguyen Cong Tru was the most famous, were empowered by this aesthetic consciousness to create a humanistic literature against Confucianism. This article analyzes how Nguyen Cong Tru created the self in his writings, which helped to stand his style out of other literary works of the time. Keywords: aesthetic consciousness, Nguyen Cong Tru, personal style, self, stand out. 1. Có thể xem rằng, quá trình sáng tạo sáng tạo nghệ thuật, cá tính - do bản chất văn học của Nguyễn Công Trứ như là nhu của nó, bao giờ cũng có xu hướng đi tìm cầu tất yếu do một ý thức cá nhân đặc biệt cái phổ quát. Và cá tính càng mạnh thì nó tác động. Hành trình nghệ thuật cũng chính càng rộng mở để đi đến phổ quát. Nguyễn là hành trình bản ngã. Vì rằng, những sự Công Trứ làm văn chương cũng là một khai phá trong sáng tác cũng chính là do cách tạo ra một phương tiện lành mạnh và nhu cầu thể hiện giá trị con người mãnh liệt hữu hiệu nhất để hóa giải các mâu thuẫn nơi ông. Chính con người Nguyễn Công bản thể. Đối với văn chương Nguyễn Công Trứ mang trong nó cả một mớ mâu thuẫn Trứ, có lẽ sự triệt tiêu các mâu thuẫn này, của cái cá thể đang tồn tại trong một quần sự giải thoát khỏi chúng đã mang lại những thể (cộng đồng). Bị hữu hạn trong không cảm xúc thẩm mỹ. Nó buộc con người cá gian và thời gian, ông luôn khao khát sự vô thể nơi ông phải bộc lộ rõ tới tận cùng hạn, sự toàn diện. Trong sự đua nở đầy chiều sâu bên trong bằng sự tự ý thức. Nó 3
  2. Ý THỨC VĂN NGH TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ như là một cuộc đối thoại bằng thơ bắt còn ở tinh thần tự do, bay nhảy. Chúng ta buộc giữa Nguyễn Công Trứ với cuộc đời, quý trọng văn chương Nguyễn Công Trứ để ông tự nhận thức ra mình. Nó như là một phần cũng nhờ ở chỗ chính ông là một sự nhận đường, tự nhận thức kiếp nhân người biết chơi và dám chơi. Đành rằng cái sinh, cũng là cách tự nhận thức về bản thân chơi này không sản sinh ra cái gì cả, mà mình. Khi xem xét Nguyễn Công Trứ trên chỉ nhằm hoàn thiện bản thân mình. phương diện là một nhà sáng tác văn học, Tính cá biệt của phong cách sáng tác cần lưu ý cái cá biệt của văn chương ông, Nguyễn Công Trứ thể hiện rất rõ ở chỗ: vì cái cá biệt này là đặc trưng quan trọng, trong văn thơ của ông xuất hiện đậm đặc là nguồn gốc sinh động của tính cách và các danh xưng: kẻ tài tử, kẻ tài bộ, đấng hình tượng. anh hùng, đấng phi thường, ông Hy Văn tài Sáng tác văn chương ở Nguyễn Công bộ… Hoàn cảnh nói năng và phát ngôn Trứ đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh thời trung đại, do các quy phạm nghiệt ngã, vực bảo tồn và phát triển nguyên lý chơi nên con người thường không dám xưng mà ông tôn thờ, nên nó là một hoạt động có danh, nên đại từ nhân xưng Việt luôn ở vào tính hai mặt: vừa làm, vừa chơi. Tất nhiên, tình trạng phi trung tính, thường là nghiêng Nguyễn Công Trứ sáng tác văn chương về phía nhún nhường, mặc cảm. Thế mà, không chỉ để mà chơi: Nguyễn Công Trứ chẳng những không e Ngồi buồn mà trách ông xanh ngại, mà lại vừa xưng danh, vừa giới thiệu Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười về mình. Điều đó có nghĩa là, không chỉ ở Kiếp sau xin chớ làm người cuộc đời thực, mà kể cả trong văn chương, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. tâm thế sáng tác của ông luôn hướng tới (Vịnh cây thông) đích là nhằm khẳng định cá nhân mình Cái tầm thường, tẻ nhạt, chán ngắt của trong nội dung phản ánh và tuân theo quy nền chính trị lỗi thời, khiến ông chỉ biết luật chủ thể hoá trong sáng tạo nghệ thuật. cười chua chát, khi ông đã qua bao phen Chính cái cá biệt của phong cách Nguyễn dày vò, phẫn uất. Sự cười của ông như là Công Trứ đã nâng tầm vóc ông lên và khái hình thái tương phản của tiếng khóc, khi quát nó tiêu biểu cho một khuynh hướng không còn nổi nước mắt nữa. Như vậy, văn sáng tác văn học của thời đại. Tác giả chương đâu phải là chuyện đùa? Xuân (Nguyễn Công Trứ) cũng đồng thời là nhân Diệu cho rằng “ngoài cuộc đời vui, vui hể vật văn học. Dĩ nhiên, cũng cần hiểu rằng, hả, phè phỡn, dung tục, thì chỉ làm cho thi phong cách Nguyễn Công Trứ và các tác sĩ (NCT) khóc; ngoài cuộc đời buồn tênh giả của cả xu hướng đó là những lát cắt của bởi chán quá, tầm thường quá… thì nhà một phong cách thống nhất. Nói rõ hơn, thơ bèn cười, cười gằn” [1, tr.466]. phong cách cá nhân Nguyễn Công Trứ là Ở Nguyễn Công Trứ, sáng tác văn một dạng cá thể của phong cách thời đại. chương và chơi không đồng nhất, nhưng Trong cả dàn hợp xướng chung của cả gắn bó với nhau hết sức chặt chẽ, hữu cơ. dòng văn học vì con người đó, Nguyễn Sáng tác văn chương ở ông như là một thứ Công Trứ cũng như mọi tác giả khác đều lao động đặc biệt, một kiểu làm như chơi. có âm chủ riêng. Có điều, nếu ta xem cái Sức hấp dẫn của văn chương Nguyễn Công nhìn nghệ thuật của cả dòng thơ này như ở Trứ không những chỉ là ở sự tài nghệ, mà một chuẩn, thì cái nhìn nghệ thuật của 4
  3. NGUYỄN VIẾT NGOẠN Nguyễn Công Trứ vừa tách bạch, đồng thời văn học hiện đại. Nói cho cùng, phong cách vừa là một lệch chuẩn. Chính sự lệch sáng tác Nguyễn Công Trứ mới chỉ là sản chuẩn này mới tạo nên phong cách cá nhân phẩm của một lối sống theo sở thích cá độc đáo Nguyễn Công Trứ, nhất là trong nhân, một cá nhân sống ngoài và không một giai đoạn hết sức đặc biệt của xã hội chịu ràng buộc của cộng đồng cổ truyền. phong kiến Việt Nam, do nhiều tác nhân, Cũng nhờ tính chất vị ngã của quy luật đã làm xuất hiện cả một thế hệ nhà Nho tài chủ thể hóa nghệ thuật, mà tiếng nói văn tử. Ở họ có chung những cảm nhận cuộc chương ở Nguyễn Công Trứ như là một đời lẫn những khúc xạ của lòng trắc ẩn, nhân danh cá nhân. Minh chứng sống động cũng như chất bẩm sinh đa cảm của người nhất cho điều đó chính là Bài ca ngất nghệ sĩ, khiến họ trở thành chủ nhân của ngưởng. Bài ca như một thông điệp văn một khuynh hướng văn học đầy tính chất chương nhằm tổng kết cuộc đời của bản nhân đạo. Bằng phong cách của mình, thân ông bằng cảm thức ngất ngưởng. Nguyễn Công Trứ trở thành một tiêu điểm Nguyễn Công Trứ tỏ ra rất tự bằng lòng về quan trọng để tìm hiểu quy luật cho sự phát mình bằng một từ tự khen - đó là ngất triển của cả một giai đoạn văn học này. ngưởng - Trong triều ai ngất ngưởng như 2. Dựa trên lí thuyết mỹ học, nếu ông. Giọng điệu có vẻ khoa trương, nhưng chúng ta nhìn nhận và thừa nhận sáng tác người ta vẫn cảm thấy thiện cảm. Chắc là văn chương Nguyễn Công Trứ là lối chơi Nguyễn Công Trứ không phủ định công nghệ thuật như vừa nói, thì có nghĩa là, các tích của mình, nhưng cái nhìn với công tích tác phẩm của ông (đặc biệt là các bài Hát vẫn là cái nhìn khinh bạc. Cũng có thể xem nói và kể cả bài phú Hàn nho phong vị) đây là nhật kí bằng thơ nhưng rất đặc biệt. nghiêng về chủ thể, phản ánh cuộc đời qua Nó có cái khác lạ của phong cách Nguyễn trải nghiệm và kinh nghiệm cá thể. Dù sao Công Trứ. Đặc điểm tự sự của ông thường đi nữa, do quy luật chủ thể hóa chi phối, rất chân thật. Trong những tình thế chênh nên động cơ sáng tạo văn chương của vênh của cuộc đời, thậm chí trong cả Nguyễn Công Trứ trước hết là vị ngã (vì những trường hợp trước các đối kháng mình), vì nhu cầu nội cảm hóa. Nguyễn nguy hiểm, Nguyễn Công Trứ vẫn tỏ ra Công Trứ không hề giấu diếm về điều này, thượng phong trước các cung bậc của sự tức là phải từ động cơ vị ngã này mới đến thách thức. Nó không đến nỗi quá văn vị tha (vì người khác), đến được với những chương mà quên đi sự thật phũ phàng, ai tri âm tri kỉ: nhưng cũng không hẳn là trần trụi để đánh … Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười mất đi giá trị của những lời bộc bạch, tâm Kiếp sau xin chớ làm người sự. Đây chính là sự trộn lẫn, dung hợp giữa Làm cây thông đứng giữa trời mà reo nghệ thuật và đời sống. Chẳng những ông, Giữa trời vách đá cheo leo mà cả con bò vàng hình như cũng trở nên Ai mà chịu rét thời trèo với thông ngất ngưởng. Bài thơ quả như là một sinh (Vịnh cây thông) thể nghệ thuật cựa quậy và phấn khích. Dĩ nhiên, sự nội cảm hóa này được bộc Cũng có lúc, đây đó chúng ta như nhận ra lộ qua nhu cầu tự biểu thị trong sáng tác nơi những khoảng trống vắng: Kìa núi nọ phau Nguyễn Công Trứ, chưa hẳn phải là của con phau mây trắng. Có gì như thoáng chút người cá nhân hoàn thiện như sau này trong bâng khuâng, chua chát? Nhưng thực tình, 5
  4. Ý THỨC VĂN NGH TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ với con người sôi nổi như ông, một chút càng về sau này họ cũng đã để cho phương bâng khuâng triết học này dù đã xuất hiện tiện tự ý thức và tự biểu hiện nhiều hơn. nhưng không dừng lâu được. Một lằn ranh Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Du rất nhỏ giữa vô vi của Lão với hư vô của đều không ngần ngại việc tự thuật. Yếu tố Trang. Rất dễ trở thành con bướm, nhưng tự thuật trở nên bằng chứng tiêu biểu của cũng không được phép vướng tục. Nhờ đã việc xuất hiện chủ thể trữ tình trong lịch sử thăng bằng trên các chênh vênh đó, nên văn học. Tuy nhiên, chỉ đến (nếu như tiếng nói cảm xúc trở nên viên mãn, đĩnh không muốn gọi là đợi đến) Nguyễn Công đạc. Cảm hứng sáng tác của ông không chỉ Trứ, thì việc tự biểu hiện mình, nhìn mình là sự xung động mạnh của tình cảm, không như một kẻ xa lạ, kể cả việc không ngần chỉ là sự gắn bó với cuộc đời, mà nó còn là ngại nói về những khuyết tật của mình, chiều sâu của quan niệm sống. Chính tầm mới thực sự là những dấu hiệu đặc biệt sâu rộng này đã định hình được chân dung định tính. Nguyễn Công Trứ - con người ngất 3. Lối văn chương của Nguyễn Công ngưởng. Hơn nữa, ông như đã khởi xướng Trứ là lối văn chương thị Tài cậy Tài, đầy được một khuynh hướng mới trong sáng chất tài tử. Nhờ lối văn chương này, khiến tác tả thực, ảnh hưởng không những cho ông như có những khoảnh khắc bất chợt đương thời (Cao Bá Quát, Nghè Tân), mà dành cho thi hứng, đồng thời nó tạo ra còn tới cả hậu thế (Tú Xương, Tản Đà…). những cấu tứ bất ngờ. Cho nên, muốn hiểu Quả đúng như ông tự nhận xét và tiên nội dung cuộc sống được phản ánh, ta phải đoán: Trong triều ai ngất ngưởng như ông. cảm được lối văn chương họ Nguyễn. Lối Sự thức tỉnh cái Tôi khi xét trên văn chương ở đây bao gồm cái nhìn nghệ phương diện sáng tác còn giúp Nguyễn thuật, cách tư duy, cách cảm nhận của Công Trứ gắn liền và gần như thôi thúc để chính ông. Nói như M.B. Khrapchenco là cho xuất hiện loại thể chân dung tự họa. “Chân lí cuộc sống trong sáng tác nghệ Trong khi đó, ở các tác giả khác, dù cho thuật không tồn tại ngoài cái nhìn nghệ vẫn sử dụng bút pháp tự trào có đôi nét cá thuật có tính cá nhân đối với thế giới vốn nhân, nhưng xét đến cùng, đấy vẫn chỉ là có ở từng nghệ sĩ thực thụ, không tồn tại phương tiện để nói về nhân tình, thế thái. bên ngoài các đặc điểm về tư duy hình Các đặc điểm cá nhân bị tẩy xóa hoặc uốn tượng, bút pháp sáng tác của nghệ sĩ” nắn cho phù hợp, khiến cho chân dung cổ [2, tr.72]. Thời đại mà Nguyễn Công Trứ truyền chỉ là tranh thờ hay thơ chúc tụng. sống và hoạt động, đã xuất hiện loại đô thị Bằng bút pháp lạ hóa “Ông Hy Văn tài bộ phong kiến kiểu phương Đông, tác nhân cơ đã vào lồng”, “Trong triều ai ngất ngưởng bản để ra đời cả một thế hệ nhà Nho tài tử. như ông”, Nguyễn Công Trứ đã nhìn mình Họ cũng là chủ nhân của một nền văn học từ ngoài vào với con mắt của kẻ khác, biết chứa đựng mầm mống chống Nho giáo và biến mình thành đối tượng quan sát của hướng về nhân đạo chủ nghĩa. Tuy sắc thái chính mình, và để có thêm điều kiện nói rõ biểu hiện ra ngoài có khác nhau, nhưng hầu về mình hơn, chi tiết hơn, xác thực hơn. hết các tác giả tài tử đều có chung một loại Thực ra, cũng ở các tác giả khác, nếu ở giai thái độ tự xác định cho mình đứng một tầm đoạn đầu chỉ sử dụng liệu pháp chân dung cao hơn hẳn so với thế tục, so với người người khác để tìm cách thể hiện mình, thì đời. Trong số này, Nguyễn Công Trứ là 6
  5. NGUYỄN VIẾT NGOẠN một đại diện tiêu biểu, là tác giả có lối văn thì các cá nhân - tài tử lại phải tìm đến cái chương thị Tài và cậy Tài điển hình nhất. tài như là một chỗ dựa ưu thắng cho mình. Trời đất cho ta một cái Tài Do đó, khuynh hướng tiêu biểu thứ hai Dắt lưng ngày tháng để dành chơi trong ý thức của các nhà sáng tác đều nhằm Dở dang với rượu khôn từ chén vào sự hãnh diện về cái tài của bản thân, và Trót nợ cùng thơ phải chuốc lời đều đòi hỏi phải đãi ngộ xứng đáng với cái (Cầm, kỳ, thi, tửu) tài đó. Nguyễn Hữu Chỉnh, Phạm Thái, Dĩ nhiên, do quy định của lịch sử, như Đặng Trần Thường, Cao Bá Quát và đặc bao nhà Nho tài tử khác khi sáng tác văn biệt là Nguyễn Công Trứ là những tác giả chương, Nguyễn Công Trứ càng tự biểu tiêu biểu cho khuynh hướng văn học chữ hiện mình một cách trực tiếp bao nhiêu, thì TÀI, thị Tài và cậy Tài. Ý thức về cái tài càng cảm nhận được những giới hạn nghiệt và cậy tài này như tạo ra một nguồn cảm ngã mà ông phải chịu đựng bấy nhiêu. Giới hứng mới, rất đậm nét của cả giai đoạn, rồi hạn lịch sử đó nếu khiến cho người “hồng khép lại bởi hình ảnh một bậc đại trượng nhan” phải bạc mệnh thì người “tài tử” phu, người anh hùng thư kiếm trong văn phải chịu cảnh đa cùng bấy nhiêu. Đến chương Nguyễn Công Trứ. ngay Nguyễn Du mà còn phải tự nhận Chính ý thức về cái tài cá nhân và mình khi làm nghệ thuật, văn chương cũng trông cậy vào cái tài đó khiến cho văn chỉ là kiếp điệp tử thư trung (con bướm chương Nguyễn Công Trứ như có sự uyển chết trong sách). Ở hầu hết các tác giả chuyển nghệ thuật. Dù rằng, ở ông lắm lúc chính của văn học Việt Nam giai đoạn này như là sự tập hợp các xu hướng triết học đã diễn ra cuộc vật lộn giữa tài và mệnh. trong một giai đoạn suy tàn của lịch sử, sự Và tất nhiên, mỗi một tác giả - tài tử đều có giằng xé của các hệ tư tưởng Nho, Lão, lối thoát riêng ra khỏi hoàn cảnh này. Đây Phật, đủ để lại cho ông khối mâu thuẫn, và cũng là tác nhân và là nguyên nhân của sự cả một bế tắc chung, nhưng niềm cảm xúc xuất hiện hai khuynh hướng sáng tác cơ thi ca của ông vẫn vút lên trên cái nền nặng bản của giai đoạn văn học nửa cuối thế kỉ nề đó. Tư duy thơ Nguyến Công Trứ có XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX: khuynh nhiều điểm mới lạ, tức là đã hòa hợp được hướng văn học chữ THÂN và khuynh giữa con người xã hội hướng ngoại và con hướng văn học chữ TÀI. Trần Đình Sử người cá nhân hướng nội. Nó là sự trộn lẫn khẳng định: “Từ Chinh phụ ngâm khúc, giữa thực và mộng, mộng và thực. Hơi thở Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân nhân văn là luồng sinh khí của tư duy thơ, Hương… đã nổi lên con người cá nhân với cảm xúc thơ. Ông đã mượn chất tự nhiên tình cảm thương thân xót phận. Có thể nói để thi vị hóa cuộc sống: trong văn học thời này đã khởi đầu một … Thêm hương khi gió lá mưa cành khuynh hướng văn học chữ THÂN mà Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím Truyện Kiều là tiêu biểu nhất” [3, tr.175]. (Yêu hoa) Bên cạnh đó, do ở trong một hoàn cảnh 4. Cũng nhờ cái phong khí thị Tài và “đến nay tan tành phong cảnh, nát bét quy cậy Tài mà trong sáng tác của mình, mô” (Phạm Thái), “nước Nam từ khi có Nguyễn Công Trứ nói nhiều tới chủ đề “cầu vua đến nay không thấy có ông vua hèn hạ nhàn hưởng lạc”. Điều này đã tạo ra trong nào như thế - Hoàng Lê nhất thống chí”, lòng độc giả một hình ảnh Hy Văn thi nhân 7
  6. Ý THỨC VĂN NGH TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ có diện mạo riêng, không giống và khó so Goethe - con người Đức vĩ đại nhất (cách sánh với các tác giả khác. Nhờ vậy mà văn gọi của Engels), người sống và sáng tác thơ của Nguyễn Công Trứ, băng qua hai thế gần như cùng thời với Nguyễn Công Trứ, kỉ, từ đời này sang đời khác, chúng được đã có hẳn một tập thơ Đông Tây thi tập mà lưu truyền rộng rãi trong công chúng độc trong đó cái hoan lạc của sự giao hòa thân giả trí thức Việt Nam, được tán thưởng và xác và tâm hồn được nâng lên thành bình phẩm nhiều. Dĩ nhiên trong văn học nguyên tắc tối cao, đồng thời là hạnh phúc quá khứ, ở các chủ đề khác, các tác giả cũng viên mãn nhất của nhân sinh. Dergiavin, đã tạo được cái đặc sắc riêng của họ. Chẳng nhà thơ Nga đầu thế kỉ XIX, dù là kẻ dị hạn Hồ Xuân Hương đanh thép và sắc bén tộc, dị giáo nhưng có số phận, hành trạng, khi châm biếm xã hội hủ bại với lũ hiền cá tính giống Nguyễn Công Trứ lạ lùng. nhân quân tử giả dối, đạo đức giả. Cao Bá Ông có tập Những bài ca Anacreontiques, Quát cũng rất siêu việt khi diễn tả tâm trạng trong đó có bài Tự nhủ nổi tiếng, với thần bi phẫn, bất đắc chí. Sau Nguyễn Công Trứ thơ, tứ thơ rất tương hợp với cốt cách, bản còn có Nguyễn Khuyến, Tú Xương quá cụ ngã thơ hành lạc của Nguyễn Công Trứ. Sự thể, quá chua cay khi phỉ báng thói đời lố gặp gỡ ngẫu nhiên và tương đồng kỳ lạ này lăng, ô trọc… Tuy nhiên chỉ có Nguyễn càng chứng tỏ tính chất thời sự của văn Công Trứ cùng bộ phận văn thơ với chủ đề chương Nguyễn Công Trứ về lẽ nhân cầu nhàn hưởng lạc mới khẳng định nhu sinh,về những đòi hỏi của lí tưởng nhân cầu hưởng thụ của con người, nâng nó lên văn. Chính nền tảng nhân văn đã tạo nên thành cả một quan niệm nghệ thuật. mọi sáng tạo nghệ thuật. Đào Tấn, nhà soạn tuồng nổi tiếng, lúc Cũng cần hiểu giá trị nhân đạo này của làm Tổng đốc An Tịnh, khi bàn về Nguyễn văn chương Nguyễn Công Trứ nằm trong Công Trứ, cũng từng hạ bút mà phê rằng: khuôn khổ của lịch sử. Do mục đích hành Hoàng độc thi nhân kim bất tại lạc, do nhu cầu khẳng định cá nhân, cũng Dữ quân thùy phục đính tao phùng như các giá trị sống khác, khiến Nguyễn (Nhà thơ cưỡi bò vàng nay không còn ở đây Công Trứ nếu thích sử dụng lối văn Chắc ngài đang bận hẹn gặp cùng ai) chương đậm màu cầu nhàn, hành lạc cho Cũng nhờ thế mạnh đặc sắc này mà mình, thì đây cũng là ý thức văn nghệ mới, văn chương Nguyễn Công Trứ được tiếp một biểu hiện nhân đạo đúng nghĩa trong nhận một cách khoái khẩu, thậm chí còn hoàn cảnh đương thời. Nói như N.Konrat: được mô phỏng cho đến cả hậu sinh. “Văn học phương Đông vào thời kì này Nếu nhìn rộng ra các nền văn hóa của lịch sử dường như phát triển gấp gáp khác, ta thấy hình thành từ rất sớm những hơn. Vừa đi trên con đường lãng mạn chủ dòng thơ ca với mô-típ cầu nhàn hưởng nghĩa, còn chưa thành thục trên con đường lạc. Thời Phục hưng, thi hào nước Pháp ấy, nó đã phải vội vã đi tiếp đến chủ nghĩa Ronsard, sau những thất bại liên tiếp của hiện thực… Đồng thời với khát khao trường ca, tụng ca đã chuyển sang sáng tác hướng đến chủ nghĩa hiện thực một cách thơ tình, thơ hành lạc. Cùng với Ronsard không ngần ngại, đã lộ ra hết sức rõ ràng còn có Rabelais, Montaigne… cũng là những yếu tố của chủ nghĩa lãng mạn, hơn những nhà nhân văn luôn hướng đến giá trị nữa thường là hình thức tình cảm cá nhân” tối thượng của con người. Thú vị vẫn là [4, tr.331]. 8
  7. NGUYỄN VIẾT NGOẠN TÀI LIỆU THAM KHẢO 3. Trần Đình Sử và các tác giả (1997), Về con 1. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào dân tộc, người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo 4. N.Konrat (1996), Phương Đông và phương và sự phát triển của văn học, Lê Sơn dịch, Tây, Trịnh Bá Đĩnh dịch, Nxb Giáo dục, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. Hà Nội. Ngày nhận bài: 10/01/2017 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017 9
nguon tai.lieu . vn