Xem mẫu

92 Xã hội học thế giới Xã hội học số 4 (56), 1996 Xã hội học và Xã hội học châu Á thế kỷ 21 LỤC HỌC NGHỆ Sự gặp gỡ có ý nghĩa thế kỷ của việc khai mạc Hội nghị Xã hội học châu Á lân thứ 6 khiến chúng ta nhớ lại lịch sử và so sánh sự đổi thay của xã hội châu Á thế kỷ 20, triển vọng tương lai của xã hội và nền Xã hội học châu Á thế kỷ 21. Đương nhiên hội nghị đã trở thành một môi trường tư tưởng chung trong việc thảo luận các chuyên đề của hội nghị lần này. Nhưng, sự đổi thay cũ, mới của thế kỷ vốn là việc bình thường. Cái gọi là "Suy nghĩ trong việc bước. vào thế kỷ”, không phải mỗi lần đều có chủ đề quan trạng đáng được mọi người quan tâm chung như thế. Vậy trước mắt chúng ta thì xã hội châu Á phải chăng đã có sự biến đổi mang ý nghĩa lịch sử thế giới, đáng để người đời nhìn vào. Điều đó chẳng phải đã trở thành đề tài chủ yếu của các nhà Xã hội học châu Á thảo luận mà không thể lẩn tránh được đó sao? Mọi người đều biết, từ 1500 năm nay “Hệ thống thế giới” trên ý nghĩa toàn cầu đã bắt đầu hình thành Tây Âu và Bắc Mỹ liên tục trở thành trung tâm của hệ thống này. Hơn 400 năm trước thế kỷ 20, mọi sự kiện đều xảy ra trên bờ biển Đại Tây Dương, những sự kiện đó đều có ảnh hưởng đối với tiến trình thế giới. Như cuộc cách mạng công nghiệp nước Anh, cuộc đại công nghiệp của nước Pháp; việc hình thành và thống nhất các quốc gia dân tộc ở Đức, việc xác lập địa vị một nước lớn như nước Mỹ, cuộc cách mạng tháng 10 Nga và rất nhiều nước khác ở châu Á, trong thời gian dài đã bị bài xích ra khỏi biên giới"của hệ thống này, bị sa sút và ngưng trệ. Vậy mà, nửa sau thế kỷ 20 có ngày càng nhiều các nước ở châu Á liên tục bước vào "con đường tốc hành”, mở đầu cho sự hưng thịnh cua phương Đông. Gần 30 năm nay, các nước Mỹ Âu đột nhiên bị các kỳ tích ở châu Á làm kinh hoàng. Sự vùng lên của châu Á, trước tiên là kỳ tích về kinh tế. Song lại không chỉ là kỳ tích về kinh tế. Nhìn trên tổng thể về sản lượng kinh tế ta thấy, căn cứ vào dự báo của tổ chức thế giới, năm 1990 sản phẩm ở vùng châu Á chiếm 1/4 tổng sản lượng thế giới. Đến năm 2000 sẽ chiếm 1/3 tổng sản lượng thế giới. Tới năm 2040 sẽ chiếm 1/2 tổng sản lượng thế giới. Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, căn cứ vào sự phán đoán cho thấy, năm 1992 châu Á mở ngân hàng. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của trung Quốc phát triển ở châu Á vào năm 1992 là 6,5%, năm 1993 là 6,7%. Cùng thời điểm đó, tỷ lệ tăng trưởng trung bình trên thế giới khác nhau là 1,8% và 3,3%. Trung tâm nghiên cứu kinh tế Nhật Bản cho rằng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình trên châu Á vẫn dừng ở mức 4% trở lên sau khi bước vào thế kỷ 21. Từ tình hình hợp tác kinh tế cho thấy trước mắt tiến trình hợp tác và nhất thể hoá nền kinh tế khu vực châu Á đang tăng nhanh. Mức trao đổi buôn bán trong nội bộ khu vực châu Á đã chiếm Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Lục Học Nghệ 93 65% tổng mức trao đổi buôn bán, đã vượt mức trao đổi buôn bán trong nội bộ cộng đồng các quốc gia châu Á (62%). Đồng thời, cũng vượt qua mức buôn bán của khu vực châu Á Thái Bình Dương và nước Mỹ. Nền kinh tế Âu Mỹ cho thấy bị ngưng trệ rõ rệt khi đối chiếu với thành tựu kinh tế của châu Á. Giải thích vấn đề đó ra sao? Nhận thức về vấn đề kinh tế châu Á đó chỉ là "sự vươn dài"của của nền kinh tế phương Tây và quan điểm "dựa vào sự phát triển” đã không thành công mà tự thất bại. Mọi người bắt đầu quan tâm tới tổ chức xí nghiệp theo kiểu phương Đông, chú ý tới môi trường nhân văn và chế độ quản lý. Điều đó thể hiện nền kinh tế thế giới thế kỷ 21 sẽ có thể chuyển từ mô hình tăng trưởng kinh tế mới sang trung tâm tăng trưởng mới. Sự vùng lên của châu Á có ý nghĩa chính trị. Điều đó không chỉ cho thấy cục diện đối lập về mặt chính trị hai giai cấp trên thế giới đang bị thay thế bởi sự đa cực hóa cục diện. Nó không chỉ cho thấy nhân dân châu Á chiếm 60% tổng số nhân khẩu thế giới, mà hàm ý chỉ khái niệm chính trị là chuyển từ nền chính trị bạ đạo sang nền chính trị vương đạo. Điều đó cho thấy, không phải nước Anh thống trị tất cả, mà là nước Anh chi phối tất cả. Chẳng phải là nước lớn phương Tây nào thống trị tất cả, họ lấy xâm lược và khuyếch trương; chinh phục và cướp đoạt làm lô-gic cường quyền đặc trưng điều đó sẽ bị loại bỏ. Châu Á vùng lên sẽ đem lại một kiểu lô-gic mới đối với thế giới, không phải là lấy lớn ức hiếp bé, lấy mạnh lấn yếu, mà là nền chính trị "Lấy đức làm gốc của con người" cùng tạo điều kiện cho nhau có lợi, cùng phát triển chung. Sự vùng lên của châu Á là hiện tượng văn hoá rất sâu sắc, nó cho thấy quan hệ giữa văn hoá truyền thống với văn hoá hiện đại. Nền văn minh tồn tại tới ngày nay, cho dù là 6 kiểu mà A. Toynbee đã nói hay 8 kiểu mà SP.Huatington đã nêu lên, phần lớn đều là những sáng tạo của người châu Á. Mấy tôn giáo lớn mang tính chất thế giới cũng hầu như đều bắt nguồn từ châu Á. Những, nền văn minh phương Đông cuối cùng là yếu tố thúc đẩy của việc hiện đại hóa hay là cái gốc căn bản trong sự lạc hậu của phương Đông? Cần phải nghiên cứu lại, không thể đơn giản được. Cách kiến giải về mối quan hệ của luân lý tôn giáo mới của M. Weber với chủ nghĩa tư bản sẽ có thể giải thích nền văn minh công nghiệp phương Tây ở một mức độ nhất định. Song, đặc biệt đối với châu Á lại là nguyên nhân văn hoá trong việc vùng lên của châu Á, xem ra cần phải có sự giải thích khác. Trường đại học Hoa Thịnh Đốn ở Mỹ đã nêu lên gốc rễ chính của xung đột thế giới thế kỷ 21 lại không phải là hình thái ý thức, và cũng không phải là kinh tế mà văn hóa - cái gọi là “Xung đột của nền văn minh”. Điều đó làm cho một số cái bị lệch về một phía, chưa có thể gọi là cùng chung một tiếng nói được. Nhưng cách nói của họ về việc kết hợp nền văn minh nho giáo với nền văn minh hồi giáo sẽ tạo thành "Sự uy hiếp". tức là giải thích sai về nền văn minh phương Đông. Khuynh hướng phát triển chính của nền văn minh phương Đông không phải là suy tôn đối kháng, mà là trung hoà việc suy tôn, không phải mở mang ra ngoài mà là điều tiết bên trong. Châu Á có thể đạt được sự tăng trưởng về kinh tế với tốc độ nhanh chóng, đồng thời có thể giữ được sự ổn định rất cơ bản của xã hội. Điều đó đã minh chứng cho đặc điểm của nền văn hoá phương Đông. Mô hình phát triển châu Á do sự kết hợp trong sự tích luỹ của nền văn hóa lâu đời với nền văn minh hiện đại, mô hình phát triển giữa sự tăng trưởng kinh tế với sự ổn định xã hội, giữa sự biến đổi xã hội với sự hài hoà trong mối quan hệ con người chính là sự cống hiến chủ yếu trong thế kỷ 21 đã cho thấy các ưu thế của nó. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 94 Xã hội và Xã hội học châu Á Sự vùng lên của châu Á là sự biến đổi xã hội toàn diện và sâu sắc liên quan tới nền kinh tế, chính trị và văn hoá. Thảo luận về ý nghĩa Xã hội học trong sự vùng lên ở châu Á và sứ mệnh lịch sử của các nhà Xã hội học châu Á là chủ đề của hội nghị lần này. Trở thành một bộ phận hữu cơ trong tiến trinh vùng lên ở châu Á, Từ năm 1978, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách cải cách mở cửa mà Đặng Tiểu Bình nêu ra cho tới nay, trên các mặt phát triển kinh tế và xã hội đã có sự tiến bộ đáng mừng và có lợi không chỉ đối với nước đó mà còn đối với cả châu Á và thế giới. Quãng thời gian 16 năm từ năm 1978 - 1994, tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm về giá trị tổng sản lượng quốc dân là 9,4%. Trong mấy năm sắp tới cuối thế kỷ này, có thể giữ ở mức trên 7% trở lên. Trên cơ sở đó, xã hội Trung Quốc đã nhanh chóng chuyển đổi một cách toàn diện từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, từ xã hội nông thôn sang xã hội đô thị, từ xã hội phong kiến và nửa phong kiến sang xã hội mở cửa, từ nền kinh tế có kế hoạch sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tiến trình này cùng với sự chuyển đổi trong việc điều chỉnh về cơ cấu lợi ích, cùng với sự biến đổi quan niệm về văn hoá và phương thức hành vi, về quy mô và mức độ sâu sắc của nó mà nói là tiến trình lịch sử hiện đại hoá xã hội phương Tây, hiện nay khó có thể so sánh được. Trong sự phát triển của Trung Quốc, có hai kinh nghiệm cơ bản : - Một là, kiên trì mô hình xuất phát từ thực tế của nước đó, đi theo con đường của mình, không làm theo mô hình phương Tây. - Hai là, nền kinh tế và xã hội cần phát triển nhịp nhàng. Kinh nghiệm thứ nhất quyết định phương hướng phát triển của Xã hội học. Kinh nghiệm thứ hai quyết định vị trí chủ yếu của Xã hội học. Sự biến đổi to lớn của Trung Quốc và cả xã hội châu Á đã đem lại cơ hội tốt đẹp cho sự phát triển của Xã hội học khó có thể có được. Cùng với sự vùng lên mạnh mẽ của thế giới phương Tây, ngành khoa học Xã hội học này đã ra đời. Bởi vậy, sự vùng lên của châu Á không phải dễ dàng đánh giá thấp ý nghĩa của nó đối với Xã hội học được. Sự vùng lên của châu Á không phải là hiện tượng mang tính khu vực, mà nó còn mang tính toàn cục đối với tiến trình của thế giới. Sự nghi ngờ trong việc vùng lên ở châu Á mà Xã hội học phương Tây nêu lên cũng không mang tính cục bộ mà lại mang tính toàn cục. Nó không thể hiện bề ngoài mà lại mang tính thực chất. Nhiệm vụ nêu lên đối với những nhà Xã hội học châu Á không chỉ là những hiện tượng xã hội, mà vấn đề của Xã hội học là cần phải miêu tả và giải thích cụ thể. Từ những vấn đề cơ bản nói trên cho thấy, phải xuất phát từ thực tế của xã hội châu Á để tổng kết và khái quát quy luật nội tại của sự phát triển và biến đổi của xã hội châu Á để tìm tòi và sáng tạo ra mô hình mới của nền Xã hội học châu Á thế kỷ 21 . Sự thay đổi lớn lao của xã hội châu Á và những kinh nghiệm về sự phát triển của các nước trên thế giới đã mang lại cơ sở phong phú cho sự phát triển của Xã hội học châu Á. Đồng thời còn đưa ra một số khái niệm cơ bản lô-gic đối với Xã hội học phương Tây. Thí dụ như: cá nhân và xã hội là một đôi phạm trù cơ bản, Xã hội học phương Tây hoặc giữ bản vị cá nhân hoặc giữ bản vị xã hội hoặc nhấn mạnh tính cơ bản của hoạt động cá nhân đối với sự giải thích xã hội, hoặc nhấn mạnh tính có trước của cơ cấu xã hội đối với cá nhân . Tóm lại, với những hình thức khác nhau đã dự báo được sự Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Lục Học Nghệ 95 phân chia và đối lập giữa cá nhân và xã hội. Đã trở thành một suy luận lô-gic của khái niệm này, xã hội châu Á có thể bị phê phán là kìm hãm tính tích cực của cá nhân, cũng có thể bị cho rằng do hiệu quả thấp của cơ cấu và chế độ. Quả thật như vậy thì những kỳ tích về kinh tế ở châu Á là từ đâu mà có? Trên thực tế, trong quá trình phát triển của châu Á, sự tồn tại của quần thể và tập thể thường biểu hiện ở hoàn cảnh và điều kiện được sự giúp đỡ tích cực của cá nhân. Sự tương phản giữa việc mở rộng và sự hạ thấp vị trí gia đình ở xã hội phương Tây trong mối quan hệ gia đình. Ở châu Á, gia đình và gia tộc hạ thấp việc trao đổi, đồng thời do cạnh tranh kéo dài đã nhanh chóng điều chỉnh sự mâu thuẫn của xã hội. Đương nhiên, trong thực tế cũng làm tăng thêm khoảng cách xã hội. Nhiều mối liên hệ mà gốc rễ là ở huyết thống, ở mối quan hệ giao tiếp của con người hoặc nguồn gốc xã hội trên cơ sở vững chắc của lịch sử và văn hoá, có thể có tác dụng tích cực đối với sự phát triển xã hội, còn có thể có ảnh hưởng của một khía cạnh khác. Tính không xác định và tính phức tạp của nó đã làm rõ xã hội phương Tây, hơn nữa việc giải thích các giả thuyết cơ bản một cách giản đơn rõ ràng không còn tính thuyết phục. Không chỉ trên quan hệ giữa cá nhân và xã hội mà còn trên quan hệ vê các khái niệm: giữa nhà nước và xã hội, giữa kinh tế và xã hội, giữa tính truyền thống và tính hiện đại, giữa đô thị và nông thôn, giữa con người và tự nhiên. Về mặt phương pháp luận là giữa chủ quan và khách quan giữa vi mô và vĩ mô, giữa xung đột và bình đẳng, giữa kinh nghiệm và lý luận, giữa lý tình và phi lý tính cũng đều có tình hình như vậy. Tình hình thực tế xã hội châu Á và mối quan hệ giữa lô-gic hành vi của khái niệm với tôn chỉ của khái niệm. Lô-gic khái niệm vẫn có sự không xác đáng, không tự nhiên, không nhịp nhàng ở bất cứ mức độ nào. Nếu tình hình này chỉ là phát sinh trên một số quan niệm cụ thể thì vẫn không thể coi là đáng trách được. Song trong mối quan hệ của những khái niệm nói trên, trên các khía cạnh khác nhau liên quan tới cách giải thích của Xã hội học phương Tây thì chúng ta đưa ra sự tìm tòi và xây dựng ra mô hình của Xã hội học xuất phát từ thực tế xã hội châu Á là lẽ đương nhiên. Các nhà Xã hội học châu Á lại càng không coi Xã hội học phương Tây là chuẩn mực. Không thể có tư tưởng trói buộc mình và chờ đợi các nhà Xã hội học phương Tây trả lời vấn đề phát triển của nền Xã hội học châu Á. Chúng ta đưa ra mô hình mới để hình thành và phát triển nền Xã hội học châu Á là hợp lý, hợp tình. Châu Á vùng lên, cần phải có sự vùng lên của Xã hội học. Dừng lại ở hiện thực châu Á gốc rễ của nền văn hóa châu Á, có thể giải thích về sự thần bí trong việc châu Á vùng lên. Còn có thể có nền Xã hội học mang ý nghĩa chung trên thế giới. Nó là của châu Á đồng thời cũng là của thế giới thế kỷ 21. Động viên các nhà Xã hội học châu Á dấn thân vào việc nghiên cứu và tổng kết sự biến đổi và phát triển của nền Xã hội học châu Á thế kỷ 21, dấn thân vào sự tìm tòi và sáng tạo mô hình mới của nền Xã hội học châu Á thế kỷ 21 . Thống nhất nhận thức, động viên khí thế, xác định rõ mục tiêu Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 96 Xã hội và Xã hội học châu Á tăng cường hợp tác, đó là nhiệm vụ của hội nghị Xã hội học châu Á lần thứ 6. Để thực hiện mục tiêu này cần thực hiện các nhiệm vụ : * Thứ nhất, phải kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của của những nhà Xã hội học châu Á thế kỷ 20 đã đi vào thực tế, điều tra nghiên cứu. Phải tìm hiểu kỹ xã hội châu Á, đồng thời phải tích cực mở rộng việc nghiên cứu so sánh với xã hội phương Tây với các loại hình xã hội. Nắm vững đặc trưng, tính chất xã hội châu Á một cách chính xác và sâu sắc. * Thứ hai, tăng cường nghiên cứu tư tưởng xã hội phương Đông. Từ trước tới nay, truyền thống tư tưởng phương Đông coi trọng xã hội và nhân sinh hơn truyền thống tư tưởng phương Tây. Về di sản tư tưởng xã hội lại càng phong phú hơn phương Tây. Vậy mà lại nói là Xã hội học phương Tây cung cấp lô-gic khái niệm. Thế thì, tư tưởng xã hội phương Đông chính là thể hiện một cách sinh động "lô-gic cuộc sống" trong hành vi của người phương Đông. Đó là cái gốc của nền Xã hội học châu Á. Dùng cái gốc này để rút ra những kinh nghiệm sống tốt của người phương Đông, hấp thu những cái hay của nền Xã hội học phương Tây, mới có thể có những cây đại thụ xum xuê, tươi tốt của nền Xã hội học châu Á thế kỷ 21 . * Thứ ba, cần lý giải một cách toàn diện và nghiên cứu một cách hệ thống nền Xã hội học phương Tây. Đồng thời còn phải tìm hiểu sự tiến triển mới nhất hiện nay của nó, cần phải coi trọng việc nghiên cứu xã hội phương Tây. Chúng ta còn cần phải quan tâm tới các thành quả nghiên cứu của họ đối với xã hội phương Đông. Đương nhiên, sự vùng lên của xã hội châu Á là kết quả tất yếu trong sự phát triển của toàn xã hội trên thế giới về mặt kinh tế. Nó là một bộ phận hợp thành trong dòng sông dài của sự phát triển lịch sử thế giới. Bởi vậy chúng ta phải phá bung sự trói buộc của chủ nghĩa trung tâm ở phương Tây. Hơn nữa, cần đề phòng chủ nghĩa phong kiến phương Đông. Sự vùng lên của châu Á là một vấn đề lớn mà các học giả phương Đông và phương Tây cùng phải quan tâm. Sự vùng lên của nền Xã hội học châu Á không thể tách rời được sự liên kết, giao lưu và hợp tác của các nhà Xã hội học phương Đông và phương Tây. * Thứ tư, việc ra sức đẩy mạnh sự giao lưu và hợp tác mang tính thường xuyên của các nhà Xã hội học các nước châu Á lại càng là vấn đề cấp bách trong nhiệm vụ hiện nay. Xu thế và sự phát triển dưới ánh mắt của các nhà Xã hội học châu Á thế kỷ 21 được chuyển sự tập trung chú ý tương đối nhiều từ phương Tây sang nền Xã hội học trong khu vực bản địa. Do nguyên nhân lịch sử và văn hoá, vấn đề trước mắt của các nhà Xã hội học châu Á càng trở nên gần gũi, càng dễ học tập lẫn nhau, gợi ý cho nhau. Vì thế, sự giao lưu lẫn nhau sẽ càng ngày càng được chú trọng hơn. Nguồn : Tạp chí Nghiên cứu Xã hội học. Số 1 - 1996 . Tiếng Trung Người dịch : NGUYỄN AN TÂM Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn