Xem mẫu

Xã hội học, số 3(115), 2011

9

VỐN XÃ HỘI VÀ MẤY VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TRONG NGHIÊN CỨU VỐN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
NGUYỄN TUẤN ANH

*

1. Lược sử khái niệm và những quan niệm khác nhau về vốn xã hội
Vốn xã hội (social capital) được quan niệm là một loại vốn, bên cạnh các loại vốn
khác như vốn kinh tế, vốn văn hoá, vốn con người. Lyda Judson Hanifan là người đầu tiên
đưa ra khái niệm vốn xã hội vào năm 1916. Ông dùng khái niệm này để chỉ tình thân hữu,
sự thông cảm lẫn nhau, cũng như tương tác giữa các cá nhân, hay giữa các gia đình trong
đời sống xã hội. Bốn mươi năm sau, vào những năm 1960, Jane Jacobs đề cập lại khái
niệm vốn xã hội trong nghiên cứu của mình (Smith và cộng sự, 2002: 153-154). Đến
những năm 1980, khái niệm này được đưa vào từ điển khoa học xã hội (Fukuyama,
2002:23). Tuy nhiên, vốn xã hội chỉ thực sự trở thành khái niệm quan trọng trong nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn kể từ khi tác phẩm “Các hình thức của vốn” của Bourdieu
được công bố (Smith và cộng sự, 2002: 154-155; Portes, 1998: 3).
Đến nay, đã có nhiều định nghĩa và cách giải thích khác nhau về vốn xã hội (Baker,
1990; Bourdieu, 1986; Coleman, 1988; Fukuyama, 2001, 2002; Halpern, 2005; Lin, 1999,
2001; Portes, 1998; Putnam, 1995, 2000). Phân tích một cách khái quát các định nghĩa,
cũng như các cách giải thích này cho thấy giữa các tác giả vừa có sự nhất trí, lại vừa có
cách hiểu khác nhau về vốn xã hội. Về sự nhất trí giữa các tác giả, mặc dù mỗi người dựa
trên kết quả nghiên cứu riêng của mình tại những quốc gia hay những vùng lãnh thổ khác
nhau, song đại đa số họ đều gặp nhau ở những điểm sau đây.
Thứ nhất, vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội. Chẳng hạn, vốn
xã hội kết nối với mạng lưới xã hội tương đối bền vững (Bourdieu, 1986: 248-249), vốn xã
hội nằm trong quan hệ xã hội (Coleman, 1988: 98-100), vốn xã hội ở trong mạng lưới xã
hội (Lin, 2001: 24-25), mạng lưới xã hội là một thành tố của vốn xã hội (Putnam, 2000:
19), cần quan sát vốn xã hội thông qua mạng lưới xã hội (Portes, 1998: 8).
Thứ hai, nhiều tác giả dùng khái niệm nguồn lực để định nghĩa vốn xã hội. Nếu
Bourdieu (1986: 248-249) quan niệm vốn xã hội là nguồn lực dựa trên mạng lưới được
thừa nhận hoặc quen biết, thì Lin (2001: 25) định nghĩa vốn xã hội là nguồn lực nằm trong
mạng lưới xã hội. Trong khi đó, Baker (1990: 619) lại cho rằng vốn xã hội là nguồn lực mà
*

TS. Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Email:
xhhanh@yahoo.com. Điện thoại: 04.37565776; 0985905712. Tác giả trân trọng cảm ơn PGS.TS. Mai Văn
Hai (Viện Xã hội học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), PGS.TS. Hoàng Bá Thịnh và PGS.TS. Nguyễn Thị
Kim Hoa (Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) đã
đọc và góp ý đối với bản thảo bài viết. Bài viết này nằm trong khuôn khổ đề tài nhóm A của Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2011: “Vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn Bắc Trung bộ Việt
Nam hiện nay”.

Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn

10

Vốn xã hội và mấy vấn đề đặt ra…...

các chủ thể hành động thu nhận được từ những cấu trúc xã hội cụ thể.
Thứ ba, vốn xã hội được tạo ra thông qua việc đầu tư vào các quan hệ xã hội, hoặc
mạng lưới xã hội, và các cá nhân có thể sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi ích. Với
Bourdieu (1986: 249), vốn xã hội là kết quả của sự đầu tư. Trong thời gian ngắn hạn hoặc
dài hạn, kết quả đó có thể được sử dụng để chuyển thành các loại vốn khác, chẳng hạn vốn
kinh tế. Coleman (1988: 118,101) thì khẳng định vốn xã hội là “sản phẩm phái sinh” của
các hoạt động khác, thông qua mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Người ta thiết lập
và duy trì những quan hệ như thế để tìm kiếm lợi ích. Theo quan điểm của Fukuyama
(2002: 26), cá nhân có thể tạo ra và sử dụng vốn xã hội để phục vụ mục đích của mình.
Trong khi đó Putnam (2000: 296-306, 319-325) cho biết vốn xã hội được dùng để tìm kiếm
sự thịnh vượng về kinh tế, hay thành công trong học hành. Lin (1999: 30) lại nói rõ vốn xã
hội phản ánh khả năng đầu tư và lợi ích thu về. Còn Portes (1998: 9) thì khẳng định cá
nhân sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi ích.
Thứ tư, sự tin cậy và quan hệ qua lại/sự có đi-có lại (trust and recipocity) được nhiều
tác giả đề cập đến khi bàn về vốn xã hội. Bourdieu (1986: 248-249) định nghĩa vốn xã hội
là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc quen biết, trong đó các thành viên
tương tác qua lại với nhau. Coleman (1988: 101-108) khẳng định trách nhiệm, sự mong đợi
và lòng tin là các hình thức của vốn xã hội. Chính trách nhiệm và mong đợi lẫn nhau đã tạo
nên sự tin cẩn giữa các cá nhân. Fukuyama (2001: 7-8) quan niệm vốn xã hội gồm có
chuẩn mực của sự có đi có lại, và vốn xã hội biểu thị sự tin cậy. Portes (1998: 7-8) lại nói
sự trao đổi qua lại và lòng tin là những nguồn gốc của vốn xã hội. Putnam (2000: 19) quan
niệm vốn xã hội gồm có các chuẩn mực của quan hệ trao đổi qua lại và sự tin cẩn.
Bên cạnh những điểm nhất trí với nhau, giữa các nhà nghiên cứu cũng có không ít
cách hiểu khác nhau, thậm chí là bất đồng trong quan niệm về vốn xã hội. Trong khi có
người cho rằng vốn xã hội gồm các mạng lưới xã hội (Putnam, 2000: 19) hay các khía cạnh
của cấu trúc xã hội (Coleman, 1988: 98), thì những người khác lại cho đó là nguồn lực liên
kết với các mạng lưới (Bourdieu, 1986: 248), hay nguồn lực nằm trong mạng lưới (Lin,
2001: 25). Cũng có người coi vốn xã hội là các chuẩn mực không chính thức (Fukuyama,
2001: 7), chuẩn mực của quan hệ trao đổi qua lại và niềm tin (Putnam, 2000: 19), hay phản
ánh khả năng của các cá nhân trong việc tìm kiếm lợi ích thông qua tư cách thành viên của
các mạng lưới, cấu trúc xã hội (Portes, 1998: 6-8). Quả thật, sự bất đồng hay khác biệt
trong quan niệm về vốn xã hội ở đây là rất lớn.
Khái niệm vốn xã hội hiện vẫn đang được tiếp tục thảo luận, phát triển với nhiều
định nghĩa, cách giải thích khác nhau, kể cả những phê phán đi kèm theo đó. Nhìn một
cách tổng quát, sự khác biệt trong các quan niệm về vốn xã hội đang tạo ra cả những thuận
lợi lẫn khó khăn cho việc áp dụng khái niệm này vào các nghiên cứu thực nghiệm. Về mặt
thuận lợi, sự đang dạng và phong phú về định nghĩa và cách giải thích cho thấy vốn xã hội
có liên quan và có thể được áp dụng nghiên cứu nhiều lĩnh cứu khác nhau của đời sống.
Chẳng hạn, Coleman (1988) sử dụng định nghĩa và cách giải thích của mình về vốn xã hội
để nghiên cứu các vấn đề về giáo dục, trong khi đó Fukuyama (2000) sử dụng khái niệm
này để tìm hiểu sự phát triển kinh tế, những người khác (Hendryx và cộng sự, 2002) lại

Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn

Nguyễn Tuấn Anh

11

vận dụng nghiên cứu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Sự khác nhau trong quan niệm về vốn xã hội cũng tạo ra không ít khó khăn, nếu
muốn thao tác chúng để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Chẳng hạn, trong khi Putnam
(2000: 19) coi vốn xã hội bao gồm các mạng lưới xã hội thì Lin (2001: 24-25) tuyên bố
vốn xã hội nằm trong/thuộc về các mạng lưới xã hội, chứ không phải là các mạng lưới xã
hội. Trong khi Fukuyama (2002: 29) xem vốn xã hội như là hàng hóa tư (private good), thì
Bourdieu (1986: 248-249) và Coleman (1988: 19) lại khẳng định đó là hàng hóa công
(public good). Rõ ràng là, về vốn xã hội, mặc dù vô cùng lý thú và bổ ích, song đó vẫn là
một thứ “trận đồ bát quái” mà người ta chưa dễ dàng nhất trí với nhau về cách hiểu, càng
chưa dễ dàng nhất trí với nhau về cách sử dụng.
2. Vốn xã hội và tác động hai chiều của nó đến sự phát triển con người và xã hội
Vốn xã hội hiện nay đang là một khái niệm mang tính thời thượng, không chỉ ở Việt
Nam mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Người ta tìm thấy ở hiện tượng xã hội này rất
nhiều ý nghĩa, kể cả về khả năng cũng như về quy mô tác động của nó đến sự phát triển
con người và phát triển xã hội.
Trước hết, về khả năng tác động đến đời sống con người và xã hội, người ta thấy
rằng vốn xã hội có thể giúp ích rất nhiều trong việc huy động các nguồn lực nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế (Woolcock, 1998; Woolcock, 2001; Woolcock và cộng sự, 2000). Ở
đây, các tác giả đã phân biệt hai loại vốn xã hội: vốn xã hội “co cụm” vào trong (bonding
social capital) và vốn xã hội “vươn” ra bên ngoài (bridging social capital). Vốn xã hội “co
cụm” vào trong được quan niệm là loại vốn tồn tại bên trong các nhóm, các cộng đồng; còn
vốn xã hội “vươn” ra bên ngoài tồn tại trong các quan hệ giữa các cá nhân vượt ra khỏi
khuôn khổ các nhóm, hay cộng đồng đồng nhất (các cá nhân ở nhóm này, cộng đồng này
với các cá nhân ở nhóm khác, cộng đồng khác). Hai loại vốn này không chỉ có những đặc
trưng khác nhau, mà tác động xã hội của chúng cũng không giống nhau. Nếu vốn xã hội
“co cụm” vào trong giúp giảm thiểu rủi ro, bảo vệ bí mật kinh doanh, và duy trì thực lực
kinh tế đã có, thì vốn xã hội “vươn” ra bên ngoài lại có vai trò quan trọng trong việc cải
thiện lợi ích vật chất, nâng cao sản lượng, lợi nhuận và giúp cho cá nhân vươn lên phía
trước (Woolcock và cộng sự, 2000: 233).
Cũng bàn về vốn xã hội trong lĩnh vực kinh tế, Grootaert (1999) đã nghiên cứu vai
trò của vốn xã hội trong lĩnh vực kinh tế vi mô ở một nước đang phát triển là Indonesia.
Tác giả này cho rằng vốn xã hội mang lại lợi ích lâu dài đối với các hộ gia đình, mà cụ thể
là việc tiếp cận đối với dịch vụ tín dụng nhằm xóa đói, giảm nghèo và tạo ra thu nhập ổn
định. Trong khi đó Guiso và cộng sự (2004) lại tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ giữa
vốn xã hội và phát triển tài chính ở một nước phát triển là Italia. Theo các tác giả này trong
những vùng có vốn xã hội cao, các hộ gia đình thường tiếp cận với hình thức tín dụng
mang tính thể chế, và ít sử dụng tín dụng phi chính thức. Qua nghiên cứu ở khu vực Mỹ La
tinh, Fukuyama (2002) đã giải thích rằng vốn xã hội giữ vai trò quan trọng trong sự phát
triển của nhiều doanh nghiệp ở Mỹ La tinh, và giúp cho nhiều người vượt ra khỏi những
khó khăn trong giai đoạn suy thoái kinh tế ở khu vực này. Qua một nghiên cứu khác,

Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn

12

Vốn xã hội và mấy vấn đề đặt ra…...

Fukuyama (2001) khẳng định vốn xã hội là những chuẩn mực không chính thức thúc đẩy
sự hợp tác giữa các cá nhân. Theo ông, trong các hoạt động kinh tế, mỗi cá nhân sẽ giảm
được nhiều chi phí giao dịch nhờ vào vốn xã hội giữa họ.
Vốn xã hội cũng có thể góp phần vào việc phát triển vốn con người, nhất là đối với thế
hệ trẻ. Minh chứng cho nhận định này là công trình nghiên cứu “Vốn xã hội trong việc tạo ra
vốn con người” của Coleman (1988). Trong công trình này, Coleman đã trình bày những
phát hiện của ông về tỷ lệ bỏ học của học sinh trong mối quan hệ với vốn xã hội trong gia
đình. Từ đó Coleman chỉ ra rằng vốn xã hội của các bậc cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến
thành tích học tập của con cái họ. Vai trò của vốn xã hội trong việc hình thành vốn con người
còn được thể hiện qua kiểm soát xã hội. Dựa vào dữ liệu từ nghiên cứu của Zhou và
Bankston về cộng đồng liên kết chặt của người Việt Nam định cư ở New Orleans (Hoa Kỳ),
nhà xã hội học Portes (1998) cũng cho rằng nhờ có vốn xã hội trong cộng đồng người Việt ở
đây nên việc học tập của con cái họ được kiểm soát hiệu quả.
Nói đến những tác động của vốn xã hội, các nhà nghiên cứu cũng không quên vai trò
quan trọng của nó trong việc hình thành và phát triển xã hội dân sự. Theo Fukuyama
(2002) vốn xã hội đóng vai trò thiết yếu đối với nền dân chủ, mà xã hội dân sự thì đi liền
với nền dân chủ. Dựa vào vốn xã hội, các cá nhân tập hợp lại với nhau để hỗ trợ những nhu
cầu tập thể, và cỗ vũ sự phân quyền trong xã hội. Trong khi đó Putnam (1995, 2000) chỉ ra
rằng vốn xã hội mang sẵn trong nó hàng loạt các thuộc tính giúp cho xã hội vận hành hài
hòa và trôi chảy, đó là tăng cường các chuẩn mực, làm đơn giản hóa sự hợp tác, cung cấp
khuôn mẫu cho sự hợp tác, từ đó mang lại các giải pháp cho những tình huống khó khăn
của các hành động tập thể. Qua nghiên cứu, Putnam rút ra nhận xét là: vốn xã hội không
chỉ giúp nâng cao học vấn, cải thiện điều kiện chăm sóc trẻ em, nó còn mang lại sự an toàn
cho cộng đồng và tạo ra hạnh phúc cho các thành viên cộng đồng. Cũng theo nhà nghiên
cứu này, vốn xã hội biểu thị sự cam kết công dân và là công cụ hướng tới sự thịnh vượng
chung.
Tuy nhiên, vốn xã hội cũng có mặt trái của nó. Theo nhà xã hội học Portes (1998: 1517) vốn xã hội chứa đựng trong nó ít nhất là bốn hậu quả tiêu cực. Thứ nhất, vốn xã hội
mang lại cố kết bên trong nhóm, tuy nhiên, những cố kết như thế lại ngăn cản sự tham gia
của những người bên ngoài. Thứ hai, vốn xã hội trong các cộng đồng và nhóm khép kín có
thể ngăn cản sự thành công trong kinh doanh của các thành viên. Thứ ba, với những ràng
buộc do nó tạo nên, vốn xã hội hạn chế tự do cá nhân của các thành viên. Thứ tư, với đặc
tính liên kết, trong nhiều tình huống, sự thành công của cá nhân làm xói mòn cố kết nhóm.
Bổ sung vào danh sách liệt kê này, Fukuyama (2002: 27-28) còn cho rằng vốn xã hội trong
các quan hệ họ hàng, mặc dù tạo ra sự trợ giúp hiệu quả cho cá nhân hoặc doanh nghiệp
trong những thời điểm kinh tế khó khăn; song do những hệ quả tiêu cực kéo theo như sự
thiếu tin cậy đối với người xa lạ, nên gây ra khó khăn khi mà các doanh nghiệp lớn mạnh,
phát triển lên. Cũng trên tinh thần đó, Putnam còn cho rằng vốn xã hội có thể tạo ra bè phái
và tham nhũng (trích theo Smith và cộng sự, 2002: 173). Nói tóm lại, bên cạnh những tác
động tích cực, vốn xã hội cũng tạo ra những hệ quả tiêu cực đối với sự phát triển con người
và xã hội. Người ta gọi đó là bản chất hai mặt của vốn xã hội.

Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn

Nguyễn Tuấn Anh

13

3. Nghiên cứu vốn xã hội ở Việt Nam và mấy vấn đề đặt ra
Có thể chia các nghiên cứu đã có về vốn xã hội ở Việt Nam thành hai nhóm: nhóm
giới thiệu lý thuyết về vốn xã hội, và nhóm vận dụng lý thuyết vốn xã hội trong các nghiên
cứu thực tiễn. Về hướng nghiên cứu thứ nhất, nổi bật nhất là Trần Hữu Dũng (2003) với
bài viết “Vốn xã hội và kinh tế”. Trần Hữu Dũng đã lược duyệt và đánh giá một số quan
niệm khác nhau về vốn xã hội của Pierre Bourdieu, James Coleman, Robert Putnam,
Francis Fukuyama, Hernando de Soto. Ông cho rằng cần phải làm rõ hơn đặc điểm của vốn
xã hội trong mối quan hệ với các loại vốn khác. Trong một bài viết khác với tên gọi: “Vốn
xã hội và phát triển kinh tế” (Trần Hữu Dũng, 2006), tác giả này cũng chỉ ra mối quan hệ
giữa vốn xã hội và phát triển kinh tế, vốn xã hội và chính sách kinh tế. Bằng cách điểm lại
các luận điểm đã có, Trần Hữu Dũng nhấn mạnh rằng vốn xã hội giúp tiết kiệm phí giao
dịch, nâng cao mức đầu tư. Ông cũng cho biết vốn xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến
chất lượng và tốc độ tích lũy vốn con người.
Tiếp đến là Trần Hữu Quang (2006b) với bài viết “Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội”.
Trong bài viết này Trần Hữu Quang bàn về quan điểm vốn xã hội của nhiều tác giả nước
ngoài như Bourdieu, Putnam, Fukuyama, qua đó nhấn mạnh rằng “vốn xã hội là một hiện
thực đặc trưng của những mối dây liên kết giữa con người với nhau trong một cộng đồng
hay một xã hội” (Trần Hữu Quang, 2006b: 4). Theo Trần Hữu Quang thì cần bàn về vốn xã
hội trong mối quan hệ với chuẩn mực, sự cố kết, và hợp tác. Ông lưu ý đến việc phân tích
vốn xã hội trong bối cảnh văn hóa-xã hội và các định chế xã hội. Bàn về vốn xã hội còn có
thêm các tác giả khác như Lê Ngọc Hùng, Hoàng Bá Thịnh. Lê Ngọc Hùng (2008) giới
thiệu khái quát lí thuyết về vốn xã hội từ tiếp cận kinh tế để bàn sâu về vốn xã hội và mạng
lưới xã hội ở Việt Nam. Hoàng Bá Thịnh (2009) tập trung phân tích quan niệm về vốn xã
hội, mạng lưới xã hội.
Có thể điểm thêm một số bài viết như: “Vốn xã hội và phát triển” (Nguyễn Ngọc
Bích, 2006), “Vốn và vốn xã hội” (Nguyễn Quang A, 2006), “Vốn xã hội ở Việt Nam”
(Nguyễn Vạn Phú, 2006), “Phát huy dân chủ để làm giàu vốn xã hội” (Phan Đình Diệu,
2006), “Lòng tin trong xã hội và vốn xã hội” (Trần Hữu Quang, 2006a), “Lời giải cho bài
toán phát huy vốn xã hội” (Phan Chánh Dưỡng, 2006), vv...Tuy nhiên, các bài viết này vẫn
chỉ dừng lại ở việc giới thiệu và bàn luận về lý luận chung chứ chưa tạo nên được luận
điểm lý thuyết cụ thể làm cơ sở cho các nghiên cứu thực nghiệm.
Về hướng nghiên cứu thứ hai, tức là hướng nghiên cứu thực nghiệm về vốn xã hội.
Với hướng nghiên cứu này Stephen. J Appold và Nguyễn Quý Thanh đã chỉ ra vai trò của
vốn xã hội trong các doanh nghiệp nhỏ ở Hà Nội. Các tác giả cho biết vốn xã hội có vai trò
quan trọng giúp các doanh nghiệp vay vốn để khởi nghiệp (Appold và cộng sự, 2004).
Nghiên cứu “Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu ở Việt
Nam” của Lê Ngọc Hùng (2008) bàn về các quan niệm khác nhau về vốn xã hội. Tác giả
đề cập đến mô hình tổng hợp về vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội. Trên cơ
sở đó, ông bàn thêm về kết quả của một số nghiên cứu cụ thể trên các phương diện: mạng
lưới xã hội của người lao động, mạng thông tin của doanh nghiệp, mạng di cư, vai trò của

Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn

nguon tai.lieu . vn