Xem mẫu
- Việt Nam trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
(1914-1918)
1. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam Ngày 1-8-
1914, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ.
Đó là cuộc chiến tranh đế quốc nhằm chia lại thị
trường. Ngay từ khi chiến tranh bùng nổ, Đông
Dương đã trở thành đối tượng để vơ vét sức
người, sức của của thực dân Pháp.
1. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam
Ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
bùng nổ. Đó là cuộc chiến tranh đế quốc nhằm chia
lại thị trường.
Ngay từ khi chiến tranh bùng nổ, Đông Dương đã
- trở thành đối tượng để vơ vét sức người, sức của của
thực dân Pháp. Ngoài "thuế má” và các thứ thuế
khác, nhân dân Việt Nam còn phải mua phiếu quốc
trái và đóng tiền quyên góp các loại với một số lượng
khổng lồ mỗi năm tới 450.000.000 Phơrăng, nhiều
nhất so với các thuộc dịa khác của Pháp.
Những chiến dịch "săn người" của chính quyền
thuộc địa đã bắt hàng trăm ngàn thanh niên Đông
Dương, chủ yếu là Việt Nam, sang chết thay cho lính
Pháp trên các chiến trường Châu Âu.
Nếu đem so sánh với các thuộc địa khác của Pháp,
riêng số lính thợ Đông Dương phải cung cấp đã
chiếm 1/4 tổng số lính thợ trong tất cả các thuộc địa
của Pháp là 183.928 người, đứng đầu các thuộc địa.
Để phục vụ cuộc chiến ở Châu Âu, trong bốn năm
chiến tranh, thực dân Pháp đã khai thác ở Việt Nam
hàng vạn tấn quặng kim loại quý hiếm như kẽm, chì,
thiếc, kền, nhôm, ăngtimoan, 336.000 tấn nông lâm
- sản các loại.
Công nghiệp thuộc địa phải gánh đỡ cho công
nghiệp chính quốc vốn bị đình đốn do chiến tranh.
Các ngành chế biến gỗ, rượu cồn, hóa chất... cần cho
việc chế tạo vũ khí, quân nhu... đều gia tăng.
Nông nghiệp từ chỗ chuyên canh cây lúa đã
chuyển một phần sang trồng những cây công nghiệp
phục vụ chiến tranh như thầu dầu, đậu, lạc. Cây cao
su được đặc biệt chú ý khai thác, sản lượng từ 200 tấn
năm 1914 tăng lên 931 tấn năm 1917. Năm 1916,
chính quyền Đông Dương ra lệnh tăng diện tích trồng
thầu dầu để mỗi năm có thể xuất cảng sang
Pháp 3.000 tấn hạt.
Chính sách bắt dân phá lúa trồng thầu dầu, trồng
bông, nạn bắt lính, bắt mua công trái, bắt uống rượu
do nhà nước thực dân nấu, nạn quyên góp cho "mẫu
quốc"... đã khiến cho nông nghiệp Việt Nam khốn
đốn, tiêu điều. Đời sống của nông dân vô cùng bi đát.
- Trong suốt bốn năm chiến tranh người nông dân bị
bần cùng một cách ghê gớm.
Ảnh hưởng sâu sắc nhất của chiến tranh đối với
nền kinh tế Việt Nam rõ nhất là trong thương nghiệp.
Do chiến tranh nên việc độc chiếm thị trường của
Pháp ở Đông Dương có phần bị hạn chế. Hàng hoá từ
Pháp sang Việt Nam giảm sút nghiêm trọng, từ 58
triệu Phơrăng xuống còn 30 triệu Phơrăng, trong khi
đó hàng hoá xuất từ Việt Nam sang các nước khác
trong khu vực lại có phần tăng lên. Nội thương
và giao thông vận tải có điều kiện phát triển khiến
cho tư sản Việt Nam hoạt động trong các ngành ngày
càng có cơ hội để lớn lên, nằm ngoài ý muốn của
thực dân Pháp.
Do đó, cơ cấu xã hội Việt Nam trong những năm
chiến tranh đã có nhiều thay đổi.
+ Lực lượng sản xuất ở nông thôn bị giảm sút (do chế
- độ bắt lính, bắt phu tàn bạo).
+ Công nhân gia tăng về số lượng (riêng ngành mỏ
từ 12.000 năm 1913 tăng lên 17.000 năm 1916).
Công nhân làm việc trong các xí nghiệp tư bản Việt
Nam cũng tăng lên. Công ty Bạch Thái Bưởi có lúc
sử dụng tới 1.000 công nhân.
+ Tầng lớp tiểu tư sản thành thị ngày càng đông đúc
cùng với việc xuất hiện ngày càng nhiều trung tâm
hành chính, công thương nghiệp và dịch vụ.
+ Tranh thủ thời gian Pháp nới lỏng độc quyền, tư
sản Việt Nam cố gắng len lỏi vươn lên. Một số tư sản
ra đời từ trước như Nguyễn Hữu Thu, Phạm Văn
Phi... đẩy mạnh hoạt động. Một số tiểu chủ, tiểu
thương vươn lên hàng tư sản như Lê Quang Long ở
La Khê (Hà Đông), Bùi Tường ở Hoà (Hà Đông), Lê
Văn Nghị ở Nam Trực (Nam Định). Họ hoạt động
chủ yếu trong công thương nghiệp, giữ được vai
- trò đáng kể trong một số ngành kinh doanh.
Tuy có sự lớn lên ít nhiều về kinh tế, song nhìn
chung, trong thời gian chiến tranh, tư sản dân tộc
Việt Nam lại yếu hơn so với những năm đầu thế kỷ
XX về ý thức dân tộc .
Nắm được những nhược điểm của giai cấp tư sản
Việt Nam, thực dân Pháp đã kết hợp nhiều thủ đoạn
vừa đe doạ, vừa dụ dỗ mua chuộc tầng lớp thượng
lưu trí thức bản địa. Bằng việc đề ra một số cải cách
lừa bịp, đề cao uy thế của bọn bù nhìn Nam triều,
bằng cuộc vận động cải lương hương chính, bằng các
biện pháp phát triển văn hoá giáo dục nô dịch, mị
dân... và bằng cả các biện pháp thẳng tay đàn áp
các phong trào yêu nước..., thực dân Pháp đã cố gắng
khống chế về tinh thần, kết hợp với trấn áp bằng vũ
lực các cuộc nổi dậy của nhân dân Việt Nam.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp trong thời
kỳ chiến tranh đã gây nên những phẫn nộ, bất bình
- trong dân chúng Đông Dương.
2. Phong trào đấu tranh trong thời gian
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918)
Hoạt động trở lại của Việt Nam Quang phục hội
Trước khi chiến tranh bùng nổ, nhất là từ khi Phan
Bội Châu bị chính quyền Lưỡng Quảng bắt giam,
Việt Nam Quang phục hội bị tan rã. Tuy nhiên, nhiều
hội viên của hội còn rất hăng hái.
Tháng 9-1914, Đỗ Cơ Quang (có tài liệu ghi là Đỗ
Chấn Thiết) tập hợp 50 hội viên ở Vân Nam (Trung
Quốc) lập cơ sở chế bom ở Hà Nội, tiến hành vận
động binh lính, chuẩn bị bạo động. Nguyễn Hắc Sơn
làm phản, kế hoạch bị bại lộ, Đỗ Cơ Quang cùng 58
người khác bị bắt.
Cuối năm 1914, đầu năm 1915, một số người yêu
nước ở Phú Thọ đã tổ chức cuộc tấn công vào trại
lính khố xanh nhưng thất bại, 238 người bị bắt, 47
- người bị kết án, trong đó 28 án tử hình.
Cũng thời gian này, những hội viên Việt Nam
Quang phục hội đã tổ chức cuộc đánh đồn Nho Quan
(Ninh Bình), đồn Móng Cái, đồn Lục Nam (l0-1914)
nhưng đều không thành công.
Đầu năm 1915, một số yếu nhân trong Quang phục
hội ở nước ngoài tổ chức tập kích Móng Cái và đánh
đồn Tà Lùng (Cao Bằng) ngày 13-3-1915. Sau 45
phút chiến đấu, nghĩa quân không phá được đồn, phải
rút lui.
Tháng 9-1915, ở Lao Bảo, nơi giam giữ các loại
"tù quốc sự" xảy ra vụ bạo động giết lính phá ngục. Ở
đây có gần 200 tù nhân, trong đó có những hội viên
tích cực của Việt Nam Quang phục hội như Liêu
Thanh, Hồ Bá Kiện (thân sinh Hồ Tùng Mậu).
Trong những tháng tiếp theo còn nổ ra một số cuộc
đánh đồn khác như cuộc đánh đồn Bát Sát (Lào Cai)
- ngày 8-8- 1916, đồn Đồng Văn (Hà Giang) ngày 3-3-
1917, đồn Mường Thương (Lào Cai) ngày 7-2-
1918... tất cả đều nằm trong kế hoạch của Quang
phục hội hoặc chịu ảnh hưởng của hội, nhưng nhìn
chung, không mấy kết quả.
Sau những cuộc bạo động nói trên, chính quyền
thực dân ở Đông Dương đã thẳng tay đàn áp. Nhận
lời yêu cầu của Pháp, chính quyền Trung Hoa, Anh
và Xiêm đã bắt, giao cho chúng nhiều người yêu
nước Việt Nam.
Những cố gắng cuối cùng và sự thất bại của các
hội viên Việt Nam Quang phục hội đã chứng tỏ
đường lối của tổ chức này chưa đáp ứng được yêu
cầu của phong trào cách mạng Việt Nam lúc đó. Tuy
vậy, trong hoàn cảnh chưa xuất hiện một tổ chức
cách mạng mới có uy tín và trình độ lãnh đạo
cao hơn, danh nghĩa Việt Nam Quang phục hội, cùng
với uy tín của lãnh tụ Phan Bội Châu vẫn là nguồn cổ
- vũ và niềm tin cho các lực lượng yêu nước trong
những năm chiến tranh.
Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế (3-5-1916)
Sau phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm
1908, một số sĩ phu yêu nước ở các tỉnh Nam Trung
Kỳ chưa bị bắt vẫn nuôi chí căm thù, chờ cơ hội. Họ
tập hợp xung quanh Thái Phiên một yếu nhân của
Việt Nam Quang phục hội trước đây và Trần Cao
Vân một nhà yêu nước đã từng bị Pháp bắt năm
1907-1908.
Nhân khi thực dân Pháp thực hiện chiến dịch bắt
lính ráo riết, các nhà lãnh đạo phong trào đã đi đến
nhất trí tiến hành một cuộc khởi nghĩa dưới danh
nghĩa vua Duy Tân, lấy Huế làm địa bàn nổi dậy đầu
tiên. Lực lượng khởi nghĩa là những binh lính người
Việt, phần lớn là những lính tập, sắp bị đưa sang
chiến trường Châu Âu.
- Hàng ngàn người ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi đã tham gia khởi nghĩa. Ho lập xưởng rèn đúc
vũ khí, mua sắm quân nhu, quyên góp tiền chờ ngày
nổi dậy. Để gây thanh thế cho cuộc khởi nghĩa,
những người lãnh đạo đã giao nhiệm vụ cho Thái
Phiên và Trần Cao Vân liên lạc với vua Duy
Tân, mời ông tham gia cuộc bạo động, kế hoạch khởi
sự được dự kiến vào tối ngày 3 rạng ngày 4-5-1916.
Song việc chuẩn bị của những người lãnh đạo có
nhiều sơ hở nên kế hoạch bị bại lộ các trại lính Việt
đều bị đóng chặt cửa, khí giới bị tước. Thái Phiên,
Trần Cao Vân và nhiều yếu nhân khác bị bắt. Giặc
Pháp đưa vua Duy Tân đi đày và đưa Khải Định
con vua Đồng Khánh lên thay.
Kế hoạch khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao
Vân đã bị thất bại, song nó thể hiện tinh thần yêu
nước rất cao.
Cuộc khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở
-
- Thái Nguyên (từ 30-8-1917 đến ngày ll-1-1918).
Thái Nguyên là một tỉnh lớn, có tầm quan trọng
về chính trị và quân sự ở miền rừng núi Bắc Kỳ. Đó
là nơi hoạt động của nhiều lực lượng chống Pháp nổi
tiếng trong những năm thực dân Pháp xâm lược và
bình định vùng đất này.
Để bảo vệ Thái Nguyên, thực dân Pháp đặt ở đây
một lực lượng quân đội lớn, gồm cả lính Pháp và lính
khố xanh Việt Nam, nhằm bảo vệ tính và canh giữ
một trại giam có chừng 200 tù nhân là các chiến sĩ đã
từng tham gia vào phong trào Đông Du, Đông kinh
nghĩa thục, chống thuế, vụ đầu độc ở Hà Nội, khởi
nghĩa Yên Thế, v.v., tất cả đặt dưới quyền của tên
công sứ Đáclơ (Darles) tàn ác.
Sẵn có môi thù đối với bọn thực dân đế quốc,
những tù nhân đang bị giam giữ ở Thái Nguyên và
binh lính người Việt đang đóng ở tỉnh lỵ Thái
Nguyên và các đồn lân cận đã liên kết với nhau sự
- lãnh đạo của Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn.
Nghĩa quân đã nổi dậy ngày 30-8-1912, giết tên
giám binh Nhen và tên phó quản tay sai đắc lực của
Pháp, làm chủ tỉnh lỵ Thái Nguyên, giương cao lá cờ
Nam binh phục quốc. Những người nổi dậy còn phá
trại giam, giải phóng 203 tù nhân, thu 168 khẩu súng
và sáu vạn viên đạn. 311 nghĩa quân gồm 131 lính
khoanh và 180 tù phạm đã tình nguyện đứng dưới cờ
nghĩa.
Trong đêm, nghĩa quân lần lượt chiếm các cơ
quan cai trị của Pháp ở tỉnh, trừ trại lính Tây.
Sáng ra, nghĩa quân treo cờ năm sao đề Nam binh
phục quốc ngoài thành rồi dùng loa công bố "Thái
Nguyên độc lập", quốc hiệu Đại Hùng và truyền sao
bản Tuyên ngôn độc lập với lời lẽ vô vùng thống
thiết.
Sau khi làm chủ tỉnh lỵ Thái Nguyên, những
- người lãnh đạo khởi nghĩa mới bàn kế hoạch hành
động tiếp theo. Nhiều phương án được đề ra. Qua
một hồi bàn cãi, Đội Cấn quyết định cố thủ Thái
Nguyên để chờ ngoại viện.
Nhân dân nội, ngoại thị, công nhân mỏ than Phấn
Mễ và nông dân các huyện xung quanh gia nhập đội
nghĩa binh ngày càng đông.
Thực dân Pháp huy động 2.000 quân có pháo binh
và tàu chiến yểm trợ, dưới sự chỉ huy của viên thiếu
tướng, phó tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông
Dương và chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ, tìm mọi
cách để dập tắt cuộc khởi nghĩa.
Kịch chiến đã diễn ra suốt bốn ngày đêm tại tỉnh lỵ
Thái Nguyên. Sau đó, lực lượng nghĩa binh yếu dần,
phải rút khỏi tỉnh lỵ, dựa vào vùng núi và sự giúp đỡ
của nhân dân cầm cự với giặc. Các toán quân khởi
nghĩa đã phải bôn tẩu nhiều nơi từ Thái Nguyên sang
Tam Đảo, Vĩnh Yên, tản ra cả vùng Xuân Lai, Phú
- Xuyên, Hà Đông, xuống Phút Yên rồi có kế hoạch
quay về Yên Thế.
Cho đến tháng 1-1918, sau sáu tháng chiến đấu rất
anh dũng, tiêu diệt hàng trăm tên địch, cuộc khởi
nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên đã
thất bại. Đây là cuộc bạo động duy nhất trong thời
gian chiến tranh đã thành công trong việc lật đổ chính
quyền thực dân ở một thị trấn, được sự tham gia của
nhiều thành phần dân chúng. Đó là do cuộc khởi
nghĩa, trong chừng mực nhất định, đã đáp ứng
được nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng lao
động và nhất là của những người đang là nạn nhân
của bọn quan cai trị thực dân tàn bạo. Những người
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa cũng như những nghĩa quân
nòng cốt tỏ ra có lòng tin vững chắc vào hành động
chính nghĩa của mình và biết gắn hành động của
mình vào cuộc vận động cách mạng có xu
hướng chính trị tương đối tiến bộ của Việt Nam
- Quang phục hội.
Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn bị thất bại do những
lý do khách quan và chủ quan, thể hiện sự khủng
hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng ở
nước ta lúc đó. Dù sao, hành động của binh lính và tù
chính trị Thái Nguyên đã gây được tiếng vang lớn,
làm xôn xao dư luận ở Pháp và Đông Dương những
năm 1917-1918 và cổ vũ cuộc đấu tranh cách mạng
của nhân dân ta những năm sau Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất.
Những cuộc bạo động chống Pháp của đồng b ào
dân tộc ít người
Sự cướp bóc tàn bạo và dã man của thực dân Pháp
trong thời kỳ chiến tranh không những gây nên sự bất
bình của nhân dân miền xuôi mà còn gây nên những
phản ứng của cả nhân dân các dân tộc miền núi Việt
Nam.
- Tháng 10-1914, người Dao ở Lục An Châu và ở
Bảo Hà nổi dậy. Họ tấn công đồn binh nhằm cởi bỏ
ách nô lệ.
Tháng 11-1914, người Thái ở Tây Bắc do Bạc
Cầm Châu, Lương Bảo Định, Cầm Văn Tứ, Lương
Văn Nó... lãnh đạo đã đột nhập vào các đồn Pháp ở
Sơn La (Tây Bắc), Sầm Na và Phong Xa LÝ (Lào)
giết đồn binh Pháp, cướp súng rồi rút về hoạt động ở
vùng sông Mã.
Cũng trong năm 1914, đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên đã đứng lên tấn công đồn binh Pháp. Nghĩa
quân dưới sự chỉ huy của Nơ Trang Long đã diệt 40
tên Pháp ở Đắc Lắc, nhổ đồn Bumê, giết tên Phó sứ
tỉnh Crachê (Campuchia) là TruPhô (1-1915).
Tại Lai Châu, Sơn La, người Mèo dưới sự lãnh
đạo của Giàng Tả Chay (còn được gọi là Pachay hay
Bát Chai) nổi dậy từ tháng 8-1918. Nghĩa quân hoạt
động trên vùng biên giới Lào - Việt. Nhiều trận đánh
- đã diễn ra vào tháng 1-1918 và tháng 1-1919 tại Điện
Biên (Việt Nam) và Sầm Na (Lào).
Phong trào hội kín ở Nam Bộ Sau khi chiếm xong
ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, thực dân Pháp sử dụng
chính sách trực trị để khủng bố nhân dân ta. Mọi biểu
hiện yêu nước đều bị đàn áp. Phong trào phải
núp dưới các hình thức tôn giáo để tồn tại.
Năm 1863, xuất hiện giáo phái có xu hướng yêu
nước lấy tên là đạo Lành. Nông dân tham gia khá
đông. Tháng 5- 1873, thống đốc Nam Kỳ ra lệnh bắt
bớ, đạo Lành tạm thời rút lui, một thời gian sau đổi
tên là đạo Phật đường. Năm 1885, những ngời cầm
đầu đạo Phật đường đã trù liệu một cuộc bạo động võ
trang chống Pháp nhưng không thực hiện được bị
Pháp khủng bố, phong trào lắng đi một thời gian.
Những hội kín ở Nam Kỳ mang màu sắc tôn giáo,
nhưng tôn giáo chỉ là phương tiện để tập hợp, cố kết
lại với nhau, mục đích chung vẫn là đấu tranh chống
- bọn đế quốc cướp nước và bọn phong kiến tay sai
bán nước.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, phong
trào hội kín ở Nam Bộ gồm nhiều tổ chức như: Thiên
địa hội, Nghĩa hoà hội, Duy tân hội, Phục hưng hội,
Ái quốc hội, v.v..
Nghĩa quân của các hội này có chừng vài trăm
người được vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác đã tiến
hành đánh phá các trụ sở mộ lính, phá nhà giam, bắt
giết bọn quan lại tay sai gian ác.
Nơi có phong trào hội kín phát triển mạnh là Biên
Hoà, Gia Định, Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Bến
Tre, Châu Đốc.
Vào đêm 16-2-1916, gần 300 hội viên các hội kín
ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hoà mặc áo đen, quần
trắng, cổ quấn khăn trắng mang dao, giáo và kiếm, đi
đầu là người vác lá cờ lớn mang dấu hiệu hội đảng
- Phan Xích Long tập hợp ở cầu Ông Lãnh rồi chia làm
ba ngả tiến vào thành phố Sài Gòn. Mục tiêu của họ
là phá khám lớn, giải phóng Phan Xích Long đang bị
giam và các tù nhân khác, chiếm các công sở và
đưa Phan Xích Long lên làm vua. Do có phòng bị từ
trước, quân Pháp đã kịp thời đối phó. Chúng xả đạn
vào đám người chỉ có giáo mác và bùa chủ. Cuộc đấu
tranh nhanh chóng tan vỡ, một số nghĩa quân bị chết,
bị thương và nhiều người bị bắt.
Phong trào hội kín Nam Kỳ là một trong những
phong trào nông dân rộng lớn nhất ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX, nổ ra khi những sĩ phu yêu nước có xu
hướng tư sản đã đuối sức trước yêu cầu lịch sử,
không theo kịp phong trào quần chúng, còn giai cấp
tư sản dân tộc mới chỉ đang hình thành.
Nguồn:Lương Ninh 2000, Chương XIV – Việt Nam
trong và sau những năm chiến tranh thế giới lần thứ
nguon tai.lieu . vn