Xem mẫu
- Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, lý
luận thực trạng và giải pháp thực hiện ở nước ta
1
- MỤC LỤC
Lời mở đầu..................................................... Error! Bookmark not defined.
Nội dung ........................................................................................................... 4
I. Lý luận chung về quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. ................................... 4
1.Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội .............................. 4
2. Tính tất yếu và các loại hình quá độ lên CNXH. ............................... 4
2.1.Tính tất yếu của quá độ lên CNXH. ................................................ 4
2.2. Các loại hình quá độ lên CNXH. Error! Bookmark not defined.
3.Quá độ lên CNXH ở Việt Nam. .......... Error! Bookmark not defined.
3.1. Tính tất yếu của quá độ lên CNXH ở Việt Nam............................. 5
3.2. Khả năng tiến hành quá độ lên CNXH ở Việt Nam. ...................... 6
3.3. Nhận thức về quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB ở Việt Nam. Error!
Bookmark not defined.
3.4. Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt
Nam . ................................................... Error! Bookmark not defined.
4.Một số đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam ... 7
II. Thực trạng nền kinh tế quá độ ở nước ta ............................................ 8
1. Những thành tựu đã đạt được............................................................. 8
1.1. Về kinh tế ....................................................................................... 8
1.2. Về xã hội ...................................................................................... 10
1.3. Về chính trị................................................................................... 11
2. Những hạn chế .................................................................................. 13
2.1.Những hạn chế tồn tại trong kinh tế của thời kì quá độ. .............. 13
2.2. Hạn chế trong quản lý của Nhà nước. ........ Error! Bookmark not
defined.
III. Giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. ............. 15
1. Giải pháp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá .................................... 15
2. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường...................................... 17
2.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần....................................... 17
2.2.Phát triển đồng bộ các loại thị trường. ....... Error! Bookmark not
defined.
2.3.Giữ vững chính trị và hoàn thiện hệ thống pháp luật. ................. 18
3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước của Đảng ....................................................................................... 18
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .................................. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................................................................... 20
2
- LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới vẫn nói chung
đang tiếp diễn và con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa” tại các nước chủ nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ sở lịch sử, thực tiễn sâu xa, vững
chắc, mang tính quy luật khách quan, tất yếu và hoàn toàn khả thi. Việt Nam trong xu thế
chung của thế giới cũng đang tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài
và cũng có nhiều khó khăn. Có nhiều tài liệu đã nghiên cứu về vấn đề này nhưng ở mỗi tài
liệu thì mới đề cập đến một khía cạnh của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Là một
sinh viên đang theo học trong lĩnh vực kinh tế em muốn đi tìm hiểu những vấn đề chung,
khái quát về con đường quá độ của nước ta. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ cung cấp cho em
thêm những thông tin quý báu về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước để bước đầu
hình thành cho mình những tư duy kinh tế. Cùng với việc tích luỹ những kiến thức trong
những năm tiếp theo tại trường em mong muốn sau này sẽ góp được phần nhỏ bé của mình
để hoàn thành những nhiệm vụ kinh tế của thời kì quá độ.
Trong quá trình tìm hiểu về đề tài: "Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam, lý luận thực trạng và giải pháp thực hiện ở nước ta", do vốn kiến thức
của em và do thời gian có hạn nên em sẽ gặp phải những thiếu sót. Em rất mong thầy và các
bạn tham gia góp ý cho em để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
3
- NỘI DUNG
I. Lý luận chung về quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
1.Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Muốn hiểu được rõ thế nào là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH)
trước hết ta phải hiểu được thế nào là thời kì quá độ. Theo lý luận Mac- Lênin
đã khẳng định muốn tiến từ một phương thức sản xuất thấp lên một phương
thức sản xuất cao hơn cần bắt buộc phải trải qua thời kì quá độ. Mác đã khái
quát về mặt lý luận và chỉ rõ: “ Thời kì quá độ là thời kì cải biến Cách mạng
không ngừng, triệt để và toàn diện từ phương thức sản xuất này sang phương
thức sản xuất khác. Trong thời kì quá độ xét cả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội
đó là một thời kì có nhiều mâu thuẫn đặt ra đòi hỏi lý luận phải giải quyết triệt
để”.
2. Tính tất yếu và các loại hình quá độ lên CNXH.
2.1.Tính tất yếu của quá độ lên CNXH.
C.Mac cho rằng thời kì này bao gồm những cơn đau đẻ kéo dài có nghĩa
là tiến trình quá độ không dễ dàng, nhanh chóng và có thể phải trải qua nhiều
khúc quanh; những quãng cách mới đi đến kết quả cuối cùng. Điều đó cũng
được Lênin khẳng định rằng: Trong thời kì quá độ, sự nghiệp xây dựng CNXH
có khi phải “ làm lại nhiều lần” mới xong và trong thực tế diễn biến của tiến
trình quá độ trong gần 90 năm qua với những thất bại thăng trầm cũng đã chứng
minh điều đó.
Theo V.I. Lênin tất yếu xảy ra quá độ lên CNXH là do đặc điểm ra đời
phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định, sự
hình thành chế độ mới có thể ví như một cơn đau đẻ kéo dài do đó nó cần phải
có thời gian, có những sự chuẩn bị và những tích luỹ vật chất cần thiết đủ cho
nó lọt lòng và phát triển.
Thứ nhất: Cách mạng vô sản có điểm khác biệt căn bản so với Cách
mạng tư sản. Đối với Cách mạng tư sản quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ
sản xuất Tư bản chủ nghĩa đều dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên
quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội phong
4
- kiến; nhiệm vụ của nó chỉ là giải quyết về mặt chính quyền Nhà nước làm kinh
tế thị trường thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
Thứ hai: Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là
một thời kì lâu dài, không thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát
triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời
gian, hay tất yếu phải có thời kì quá độ lên CNXH.
2.2. Tính tất yếu của quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH
cũng đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tế phát triển.
Con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển
rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu
khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên của Cách
mạng Việt Nam vì:
Thứ nhất là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời kì quá
độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là xã hội đã lỗi thời
về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa.
CNTB không phải là tương lai của loài người, nó không vượt qua những mâu
thuẫn mà mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất; mâu thuẫn này càng ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc hơn;
CNXH mà con người đang vươn tới là hình thái kinh tế xã hội cao hơn CNTB
đó là xã hội vì sự nghiệp giải phóng con người, sự phát triển tự do và toàn diện
của loài người. Chúng ta quá độ thẳng lên CNXH nghĩa là đi theo dòng chảy
của thời đại nghĩa là đi theo quy luật tự nhiên của lịch sử.
Thứ hai là do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng. Ngay khi
ra đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do
Đảng cộng sản lãnh đạo đã thành công thì chúng ta đã cởi bỏ được hai vòng
xích, đã thoát khỏi cảnh một cổ hai tròng, Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh,
5
- nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng, quyết tâm đi theo Đảng. Thành quả của
cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần được giữ vững, cuộc sống vật
chất cũng như tinh thần của nhân dân phải được cải thiện, nâng cao nhiều so với
những năm chiến đấu hy sinh. Có hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị
cần được giải quyết cấp bách sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ thành công.
Nhưng điều đó không ngăn cản việc tiến lên CNXH; hơn nữa, việc giải quyết
nó chỉ có thể bằng con đường xây dựng CNXH. Việc đưa miền Bắc tiến lên
CNXH có ý nghĩa rất lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước. Chính điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh
trong hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 “ Miền Bắc tiến lên CNXH để
làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh
thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên
CNXH”. Trong thời đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân dân lao động.
Vì những lẽ đó, Đảng tất yếu lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến
thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
2.3. Khả năng tiến hành quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Về khả năng khách quan: Yếu tố khách quan quan trọng đầu tiên giúp
chúng ta tiến lên CNXH là Liên Xô lúc đó đã tiến hành thành công cuộc Cách
mạng xã hội chủ nghĩa và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta cả về vật chất và tinh thần.
Sau đó hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã đưa ra cho
chúng ta tấm gương khá sinh động về sự thành công và thất bại đã sâu sắc và
chi tiếtđến mức có thể từ đó đưa ra những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo
và thực hiện tiến trình cách mạng. Còn đến ngày nay, xu thế quá độ lên CNXH
trên phạm vi toàn thế giới đã đóng vai trò tích cực, không những làm cho quá
độ bỏ qua CNTB là tất yếu mà còn đem lại điều kiện và khả năng khách quan
cho sự quá độ này. Quá trình quốc tế hoá sản xuất, toàn cầu hoá với sự phát
triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo khả năng cho những
nước kém phát triển đi sau tiếp thu, vận dụng đưa vào nước mình lực lượng sản
xuất hiện đại và kinh nghiệm của những nước đi trước cũng như tạo khả năng
khách quan cho việc khắn phục khó khăn về nguồn vốn, kĩ thuật hiện đại. Điều
6
- kiện đó giúp chúng ta tranh thủ được cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có
hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kì quá độ
lên CNXH ở nước ta.
Về khả năng chủ quan: Mọi thành công của chúng ta đạt được phải kể đến
yếu tố quan trọng bậc nhất là sự lãnh đạo của Đảng và liên minh công nông
vững chắc. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac – Lênin luôn luôn nhấn mạnh
vai trò của Đảng vô sản trong việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc
thực hiện quá trình phát triển rút ngắn ở các nước tiền tư bản nói riêng thì ở
Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam là một nhân tố có vai trò quyết định đối với
việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước .Và trong công cuộc đổi mới do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những kết quả khả quan như: đã củng cố
và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn. Sự
lựa chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN của nước ta là phù hợp
với sự lựa chọn của nhân dân ta. Các tầng lớp lao động công nhân, nông dân và
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng nhau chiến đấu, hy sinh để giành lại
độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Do đó họ sẵn sàng liên
minh chặt chẽ với nhau và cùng với Đảng để vượt qua mọi khó khăn, xây dựng
thành công CNXH.
Ngoài ra, khả năng và nguồn lực trong nước có thể đáp ứng được yêu cầu
của thời kì quá độ lên CNXH. Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, chăm
chỉ, khéo léo, dễ đào tạo, sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Tài
nguyên thiên nhiên của nước ta cũng hết sức giàu có và phong phú tạo điều kiện
hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tạo tiền đề xây
dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa
3.Một số đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Nước ta quá độ lên CNXH có những đặc điểm chung của quá độ lên
CNXH của các nước trên thế giới như: Đó là thời kì xét trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội đều do nhiều thành phần không thuần nhất cấu tạo lên; là thời kì
mà sự phát triển cái cũ của những trật tự cũ đôi khi lấn át những mầm mống của
cái mới của trật tự mới. Thời kì đó có nhiều khó khăn phức tạp, phải trải qua
7
- những lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những bước đi đúng đắn và
trong quá trình thử nghiệm.
Bên cạnh những đặc điểm chung đó chúng ta tiến hành quá còn có những
đặc điểm khác biệt với các quốc gia khác như :chúng ta bắt đầu tiến hành quá
độ khi đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền với những chiến lược và nhiệm vụ
khác nhau (Đại hội Đảng III năm 1960). Trong quá trình tiến hành quá độ từ
Đại hội Đảng III đến Đại hội Đảng VI chúng ta luôn nhận được sự viện trợ giúp
đỡ hợp tác của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới mà đặc biệt là Liên Xô
thời đó. Nhưng đặc điểm to lớn nhất của chúng ta trong thời kì quá độ là “ từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đó tuy không phải la một quy luật bình
thường nhưng rất phù hợp với điều kiện nước ta lúc bấy giờ.
II. Thực trạng nền kinh tế quá độ ở nước ta
1. Những thành tựu đã đạt được
1.1. Về kinh tế
Như ta đã biết dưới ách thống trị của thực dân Pháp nền kinh tế nước ta
phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc, kinh tế hết sức nghèo nàn, lạc hậu,
nạn đói xảy ra triền miên và kéo dài, nghiêm trọng nhất là vào năm 1945 có tới
hàng vạn người có nguy cơ chết đói. Nhưng từ khi cuộc kháng chiến trường kì
kết thúc thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì quá độ thì dưới sự lãnh đạo của
Đảng tính chất nền kinh tế đã thay đổi. Từ nền kinh tế thuộc địa nửa phong
kiến, chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mang tính độc lập mang tính chất
dân chủ nhân dân, thoát khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc.
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975 kinh tế đã có những bước phát triển
nhất định nhưng kết quả thực sự đáng lưu ý là từ năm 1986 đến nay (thời kì đổi
mới). Sau gần 20 năm đổi mới kinh tế đã có những bước chuyển biến đáng
mừng.
Thứ nhất: Nền kinh tế trong những năm qua tăng trưởng liên tục và có tốc
độ cao. Mức tăng GDP năm 2002 đạt 6,79%, năm 2003 đạt 7,26% và năm 2004
đạt 7,5% cao nhất từ năm 1997 trở lại đây. Cụ thể mức tăng của một số ngành
như sau.
8
- Ngành nông nghiệp: Mặc dù trong những năm qua thời tiết khắc nghiệt,
thiên tai và hạn hán thường xuyên xảy ra, nạn cúm gia cầm trong hai năm vừa
qua đã gây ảnh hưởng lớn nhưng tổng sản phẩm ngành nông, lâm, thuỷ sản vẫn
tăng 3,5% góp 0,7% vào tốc độ tăng trưởng chung. Sản xuất lương thực, thực
phẩm vẫn giữ vai trò lớn nhất trong sản xuất nông nghiệp. Nhờ áp dụng khoa
học công nghệ mà sản xuất lúa đã chuyển dịch mạnh theo hướng tăng năng suất
lao động, tăng chất lượng lúa gạo để phù hợp nhu cầu thị trường, tăng sức cạnh
tranh của gạo Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng ta vẫn giữ vững vị trí thứ
hai về xuất khẩu gạo, ngoại tệ thu được từ xuất khẩu gạo tăng từ 734 triệu USD
lên 900 triệu USD năm 2004.
Ngành công nghiệp: sản xuất vẫn phát triển ổn định và tăng trưởng cao.
Sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 10,2% chiếm tỷ trọng 3,9% trong tốc độ
tăng trưởng chung. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 đạt 354 nghìn
tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2003 trong đó tăng cao nhất là khu vực ngoài
quốc doanh (22,8%), khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 15,7%.
Thứ hai: Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế với sự chuyển dịch ngành và
chuyển các thành phần kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm
nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục
nhưng tỷ trọng đã giảm xuống trong đó tỷ trọng khu vực II (công nghiệp và xây
dựng cơ bản) và khu vực III (gồm các ngành dịch vụ) đã tăng lên. Đến năm
2003 tỷ trọng của khu vực I là 22%, khu vực II là 39%, khu vực III là 39%;
năm 2004 thì tỷ trọng các khu vực tương ứng là 21.8%; 40.1%; 32.2% .Các
thành phần kinh tế trong GDP cũng có sự chuyển dịch từ chủ yếu là quốc
doanh, hợp tác xã sang đa thành phần nhung vai trò chủ đạo của kinh tế quốc
doanh vẫn được tăng cường.
Thứ ba: Về cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành. Nhà
nước đã xoá bỏ về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp,
xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
quá trình hình thành cơ chế thị trường, Nhà nước đã dần dần cải tổ bộ máy và
9
- các công cụ quản lý. Từ chỗ chủ yếu sử dụng phương pháp hành chính coi kế
hoạch hoá với các chỉ tiêu pháp lệnh là công cụ để quản lý, điều hành nền kinh
tế sang chủ yếu quản lý bằng pháp luật kết hợp chính sách và các công cụ điều
tiết vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, thu nhập và chính sách kinh tế đối
ngoại.
Thứ tư: Kinh tế nước ta đã đạt thành công lớn trong việc kiềm chế và đẩy
lùi lạm phát. Trong những năm từ 1986 đến 1988 lạm phát tới ba con số (cao
nhất là 774,7% năm 1986) nhưng đến năm 1989 lạm phát đã được chặn lại ở hai
con số sau đó giảm xuống một con số (năm 1997 là 3,7%; năm 1999 là 0,1%;
năm 2001 là 0,8%; năm 2002 là 4%; năm 2003 là 3% thậm chí còn có giảm
phát vào năm 2000 là - 0.6%. Năm 2004 vừa qua lạm phát đã tăng lên 9,5%.
Thứ năm:Về kinh tế đối ngoại. Trong thời kì quá độ cũng phát triển mạnh
mẽ. Chúng ta đã tham gia vào các tổ chức khu vực cũng như trên thế giới: gia
nhập ASEAN năm 1995, gia nhập AFTA năm 1996, gia nhập APEC năm 1998,
ký hiệp định thương mại Việt – Mĩ, nộp đơn gia nhập WTO năm 1994 và hiện
nay đang xúc tiến đàm phán để thực hiện mục tiêu gia nhập WTO trong năm
nay. Tháng 10 năm 2004 vừa qua chúng ta đã tổ chức thành công Hội nghị
thượng đỉnh Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5). Và đến tháng 11 năm 2004 Việt Nam
đã kí 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tư, 40 hiệp định chống đánh thuế hai lần đối với các nước, vùng lãnh thổ
có quan hệ thương mại với 160 nước và nền kinh tế, thiết lập quan hệ với các tổ
chức tài chính, tiền tệ như WB, FDI, IMF, ODA…
1.2. Về xã hội
Trong suốt thời kì quá độ chúng ta đã đạt được những chuyển biến tốt về
mặt xã hội. Nhìn chung đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn nhân dân được
cải thiện một bước rõ rệt. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên (
hiện nay lớn hơn 10%), GDP bình quân đầu người trong cả nước đạt 484,8
USD, khu vực thành thị đạt tới 794,8%, khu vực Đông Nam Bộ đạt 820,8 USD.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 10,8% năm 2003 và 9,03%
năm 2004.
10
- Một thành quả to lớn về xã hội phải kể đến là sự phát triển của hệ thống y
tế, giáo dục. Mạng lưới y tế bây giờ đã rộng khắp luôn kịp thời chăm lo sức
khoẻ cho nhân dân. Ở hầu hết các xã phường thị trấn đều có các trạm xá với
những cán bộ y tế đã được qua đào tạo. Thành công về y tế lớn nhất trong năm
vừa qua là chúng ta đã nhanh chóng kìm chế, khoanh vùng được dịch Sar cũng
như dịch cúm gia cầm, rồi những ca phẫu thuật cấy ghép tuỷ, thận…
Về giáo dục: Giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn được
coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách hỗ trợ
và đầu tư cho phát triển giáo dục như đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật, trợ cấp cho
học sinh, sinh viên…Kết quả là số người tham gia xóa mù chữ ở tất cả các cấp
tăng lên 12%. Về cơ bản nước ta đã phổ cập được tiểu học. Đến tháng 6 năm
2004 đã có 19 tỉnh trong cả nước được công nhận phổ cập trung học cơ sở. Tính
năng động sáng tạo của người dân được khơi dậy và phát huy. Người lao động
ngày càng chủ động hơn trong tìm kiếm việc làm tìm cách tăng thu nhập, tự cải
thiện đời sống, tham gia ý kiến đóng góp vào các sinh hoạt chung của cộng
đồng, xã hội. Không còn nhiều hiện tượng ỷ lại, thụ động, trông chờ Nhà nước,
dựa dẫm tập thể.
1.3. Về chính trị
Thứ nhất đã thực hiện tốt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một tất
yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Từ khi giành được thắng lợi trong cuộc
cách mạng Tháng 8 năm 1945, Đảng cộng sản Việt Nam về thực chất đã trở
thành một Đảng cầm quyền. Trong suốt mấy chục năm qua Đảng đã thành công
trong việc vừa lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm, bảo vệ độc lập và xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đảng luôn là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng và lãnh đạo nhân
dân, Đảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước và mọi mặt của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, Đảng không tự biến mình thành Nhà nước.
Thứ hai: Trong suốt thời kì quá độ vừa qua nhìn chung chúng ta tiếp tục
giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chế độ, chủ
quyền đất nước. Mặc dù những kẻ thù địch không ngừng chống phá cách mạng
11
- trong nước, mặc dù xảy ra khủng hoảng kinh tế, xã hội vào thời kì những năm
1996 – 2000 nhưng chính trị của nước ta vẫn được ổn định. Thành quả này là
kết quả tổng hợp của công cuộc đổi mới trong đó quốc phòng an ninh giữ vai
trò đặc biệt quan trọng. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, cải thiện đời sống của
lực lượng vũ trang luôn được quan tâm đáp ứng. Chất lượng và sức mạnh quân
đội luôn được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân luôn được củng cố vững
chắc, chủ quyền đất nước càng được khẳng định rõ ràng. Như vậy, chúng ta đã
thực hiện tốt chính sách kết hợp kinh tế và an ninh quốc phòng.
Thứ ba: chúng ta thực hiện có kết quả nhiều bước quan trọng về hệ thống
chính trị.
Về củng cố Đảng: Trong thời gian qua Đảng đã từng bước bổ sung, cụ thể
hoá đường lối đổi mới, làm rõ dần con đường đi lên CNXH ở nước ta, củng cố
về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội.
Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Tuy thực hiện cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý nhưng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền dân
chủ, do dân và vì dân. Điều đó thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử Đại biểu
hội đồng nhân dân các cấp theo chế độ phổ thông đầu phiếu, chính người dân
đã trực tiếp được cầm phiếu đi bầu người đại diện cho mình – những người sẽ
thay mặt họ trình bày lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền những vấn đề bất cập
trong cuộc sống hàng ngày, sẽ thay mặt họ đòi hỏi những quyền lợi hợp pháp
mà họ được hưởng. Bên cạnh đó, đời sống của nhân dân các vùng dân tộc cũng
được đặc biệt chú ý quan tâm, Đảng và Nhà nước đã tạo mọi điều kiện để các
dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự
phát triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam . Đảng luôn luôn tôn trọng lợi
ích, truyền thống, văn hoá, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo của các dân tộc, luôn
thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo nhưng cũng đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để xâm hại đến
lợi ích quốc gia dân tộc.
Thứ tư: chúng ta phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá vỡ thế bao
vây, cô lập, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã
12
- triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương
hoá, đa dạng hoá. Chúng ta đã khắc phục và tăng cường quan hệ với các nước
công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ, mở
rộng quan hệ với các nước Nam á, Châu Phi, Mỹ Latinh, Trung Đông, với các
tổ chức quốc tế, khu vực, đã tham gia vào các tổ chức ASEAN, AFTA,
APEC…và sắp tới đây sẽ gia nhập WTO . Chúng ta đã nối lại quan hệ với các
quỹ tiền tệ như IMF, ODA… nên chúng ta đã được hỗ trợ rất nhiều về vốn –
một yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất. Đồng thời, chúng ta tiếp tục duy trì
phát triển quan hệ đoàn kết hữu nghị với các Đảng cộng sản và công nhân các
phong trào độc lập, các tổ chức và phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới;
thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ
vững hoà bình, phá bỏ thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện môi trường quốc tế,
nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
2. Những hạn chế
Tuy đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng trong thời kì quá độ và
trong công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã còn mắc không ít khuyết điểm và
yếu kém.
2.1.Những hạn chế tồn tại trong kinh tế của thời kì quá độ.
Một là: Nước ta đã có nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển cơ chế thị
trường nhưng cho đến nay cơ chế thị trường vẫn còn sơ khai. Hệ thống quản lý
kinh tế nước ta còn đang trong quá trình chuyển đổi, luật pháp, cơ chế, chính
sách chưa đồng bộ, nhất quán và tác động cùng chiều để thúc đẩy nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả và đúng hướng. Các kế hoạch định
hướng phát triển kinh tế về quy hoạch, xây dựng, quản lý, sử dụng đất đai, tài
nguyên thiên nhiên…, thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ nhưng còn chậm
chạp. Thường có sai sót mới sửa đổi bổ sung chứ chưa đưa ra được từ khi ban
hành nên còn nhiều bất cập trong hệ thống hành chính quốc gia. Về thương
nghiệp thì Nhà nước còn “bỏ trống” một số “trận địa” quan trọng, chưa phát
huy tốt được vai trò chủ đạo trong lưu thông hàng hoá, ổn định giá cả thị
trường, bảo vệ sản xuất và tiêu dùng làm cho giá cả năm vừa qua tăng lên tới
13
- 9,5%, xảy ra cả ngộ độc thực phẩm, người tiêu dùng mua phải hàng giả, hàng
kém chất lượng. Khâu quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực như
nhập lậu, trốn thuế, nhận hối lộ… gây ra những tác động xấu không nhỏ cho đối
với sản xuất trong nước.
Ngoài tích luỹ nội bộ thấp thì vấn đề sử dụng vốn đầu tư cũng là vấn đề
nan giải. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được phản ánh qua chỉ số ICOR. Vào
đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX chỉ số ICOR khoảng 0,4:1 – 0,5:1 thì năm 2001 là
4,12:1, năm 2003 là 4,92:1 chỉ số ICOR tăng cho thấy tốc độ phát triển của vốn
lớn hơn giá trị tăng thêm suy ra chúng ta sử dụng vốn đầu tư còn rất kém hiệu
quả.
Ba là: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh nhưng năng suất hiệu quả còn thấp.
Nhìn chung tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa xứng với mức tăng đầu tư và
thấp hơn so với kế hoạch, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch còn chậm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá xong tỷ trọng
tăng chậm trong cơ cấu GDP thậm chí năm 2004 còn giảm so với năm 2003 là
6,8%. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ sản xuất vừa thiếu vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ
cấu lao động chuyển dịch chậm không tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nhất là trong khu vực nông nghiệp nông thôn ( năm 2003 còn chiếm lớn hơn
60% lao động).
Bốn là cạnh tranh còn yếu và trình độ kĩ thuật lạc hậu. Sức cạnh tranh và
năng lực quản lý của các doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó
hiệu quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng (thể hiện rõ ở
việc các doanh nghiệp chưa thực sự chú ý đến việc đăng kí nhãn hiệu cho sản
phẩm của mình). Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất
lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ thì hàng hoá của Việt Nam cũng có sức cạnh
tranh yếu. Những mặt hàng xuất khẩu chưa có được hàm lượng công nghệ cao,
giá trị gia tăng lớn, hàng xuất khẩu chủ yếu là thô hoặc sơ chế ví dụ như dầu
khí, than… và chất lượng thấp. Bên cạnh đó chưa xây dựng và sử dụng các biện
pháp bảo vệ thị trường nội địa. Một trong những nguyên nhân khiến cho cạnh
tranh yếu là hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, trình độ lao động của Việt
Nam còn thấp. Theo con số thống kê Việt Nam có gần 40 triệu lao động thì có
14
- tới 83% lao động không có trình độ chuyên môn kĩ thuật, số lượng công nhân
được đào tạo nghề chiếm chưa tới 26 %.
III. Giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường quá độ trong thời gian qua, chúng ta có quyền tự
hào về những thành tựu đã đạt được. Tuy nhiên đến nay vẫn còn một số mặt
chưa được củng cố vững chắc. Chính từ những thành tựu và những hạn chế còn
tồn tại chúng ta có thể đưa ra được những giải pháp để trong thời gian tới chúng
ta đạt được những thành tựu quan trọng hơn để hoàn thành nhiệm vụ của thời kì
quá độ lên CNXH của Việt Nam để tiến đến một tương lai tươi đẹp xã hội xã
hội chủ nghĩa.
1. Giải pháp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay đang tạo cho chúng ta những thời cơ, những
thách thức. Do đó chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo
ra cơ sở vật chất kĩ thuật để chuyển dịch cơ cấu, để sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực khan hiếm của đất nước, tạo năng suất lao động xã hội cao, thúc đẩy
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta cần phải có giải pháp để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước hết, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất lớn do đó
chúng ta phải huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Chúng ta có thể huy
động vốn từ trong nước hay nước ngoài. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ
nội bộ nền kinh tế quốc dân, muốn huy động được nguồn vốn trong nước điều
kiện cần là phải nâng cao hiệu quả sản xuất trên cơ sở ứng dụng khoa học công
nghệ, hợp lý hoá sản xuất như thế sẽ làm tăng nhanh thu nhập của người lao
động thì họ sẽ có các khoản dư để tiết kiệm. Nhưng để có được tiết kiệm lớn thì
Nhà nước và các ngân hàng phải có những chính sách khuyến khích tiết kiệm
như giảm thuế đánh vào lãi suất, nâng lãi suất tiết kiệm, đấu tranh triệt để với
nạn tham nhũng, lãng phí. Nhưng nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn nên tích
luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế là hết sức khó khăn, do đó cần tận dụng mọi khả
năng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Muốn thu hút được vốn đầu tư nước
ngoài buộc chúng ta phải có những chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, giảm
15
- bớt rườm rà trong thủ tục hành chính, cải thiện được môi trường đầu tư theo
hướng giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc độc quyền nhà nước như là điện,
viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường…
Về nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động :Vấn đề thiếu lao
động có tay nghề đang là một vấn nạn chung. Để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng mục tiêu phát triển và hội nhập của đất nước thì Đảng, Nhà
nước và địa phương cần phải có chiến lược đào tạo nghề, chuẩn đội ngũ lao
động có kĩ năng tay nghề, trình độ chuyên môn kĩ thuật cao. Cần phải chuyển
dần việc đào tạo nghề đơn giản sang đào tạo đội ngũ lao động có nghề, có kĩ
năng và có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, có khả năng thích ứng nhanh với
thị trường lao động. Cụ thể là ưu tiên đào tạo những ngành nghề mũi nhọn có tỷ
trọng kinh tế cao, đòi hỏi kĩ thuật, công nghệ mới như ngành cơ khí, chế tác,
sinh học và dịch vụ tiên tiến…Muốn nâng cao được trình độ đội ngũ lao động
thì đầu tiên cần phải phát triển giáo dục phải tăng mức chi phí giáo dục bình
quân đầu người lên (hiện nay Việt Nam đang đứng gần cuối bảng xếp hạng của
ngân hàng Deustche thấp hơn 24 lần so với Singapo) và cũng phải đưa ra được
chiến lược giáo dục hướng tới các kĩ năng mà thị trường đang cần.
Về phát triển khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ cũng là một nhân
tố của lực lượng sản xuất. Để phát triển kinh tế buộc phát triển mạnh mẽ hơn
nữa về khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ sẽ đáp ứng được yêu cầu nâng
cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và hiệu quả
kinh doanh… Phát triển khoa học công nghệ thì phải đi thẳng vào công nghệ
hiện đại đối với các mũi nhọn, lựa chon công nghệ thích hợp, khai thác được lợi
thế của lao động. Cùng với việc nhập công nghệ của nước ngoài chúng ta phải
khẩn trương đổi mới tổ chức, sắp xếp hợp lý các viện, trung tâm, các cơ sở
nghiên cứu trong cả nước. Phải dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ
bản trong các ngành khoa học, phải phát triển khoa học công nghệ, tạo môi
trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ. Phải đổi mới chính sách đào tạo, sử
dụng và đãi ngộ trí thức để tránh chảy máu chất xám. Khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ,
thu hút chuyên gia giỏi của thế giới.
16
- Về mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Trong xu thế toàn cầu hoá hiện
nay, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu
thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được thuận lợi và
nhanh chóng thành công bấy nhiêu. Trong suốt thời gian qua, chúng ta luôn tích
cực tham gia vào xu thế chung của quốc tế, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo
lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta. Nhà nước phải có chính sách khuyến
khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập
khẩu hàng hoá, dịch vụ, nâng cao được sức cạnh tranh, phát triển mạnh sản
phẩm, xây dựng được quỹ hỗ trợ xuất khẩu; đẩy mạnh các lĩnh vực thu ngoại tệ
như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, thu hút kiều hối…
2. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường
2.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Để phát triển được kinh tế thị trường thì việc đầu tiên là phải phát triển
các thành phần kinh tế và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần. Khi đó, mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo
các hình thức do pháp luật quy định và bảo vệ.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền chủ sở hữu
và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước
kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp mà Nhà nước không cần
nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng
động, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.Ưu tiên cho người lao động
được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài.
Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng, chuyển đổi
hợp tác xã cũ theo Luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã
kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để kinh doanh phù hợp quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
17
- Kinh tế cả thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị cần được Nhà nước
tạo điều kiện để phát triển
Kinh tế tư bản tư nhân phải được khuyến khích phát triển không hạn chế
về quy mô trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm, cần được khuyến
khích hợp tác liên doanh với nhau và liên doanh với doanh nghiệp Nhà nước để
chuyển thành doanh nghiệp cổ phần hay bán cổ phần cho người lao động.
Kinh tế tư bản Nhà nước cần được phát triển dưới các hình thức liên
doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước
phát triển đa dạng.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là một bộ phận của kinh tế Việt Nam
Khu vực kinh tế này ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, điều đó rất phù
hợp với mong muốn của Đảng và Nhà nước nhưng bên cạnh việc khuyến khích
phát triển thì chúng ta cũng cần phải chú ý đến quyền công dân của lao động
trong các doanh nghiệp này đồng thời phải cảnh giác những âm mưu chính trị
được nguỵ trang trong việc đầu tư kinh tế ở Việt Nam.
2.3.Giữ vững chính trị và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Để giữ vững chính trị thì Đảng và Nhà nước phải quan tâm nhiều hơn nữa
đến đời sống hàng ngày của nhân dân, phải luôn chú ý đến những kẻ sống lưu
vong trong nước nhằm gây dựng các tổ chức chống phá cách mạng nước ta ví
dụ như tổ chức tôn giáo. Đảng phải thường xuyên duy trì được khối liên minh
công - nông – trí thức, phải cùng với các tổ chức chính trị, các đoàn thể như hội
cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, mặt trận tổ quốc… thường xuyên
tổ chức các hoạt động văn hoá nhằm tuyên truyền về đường lối chính sách đúng
đắn của Đảng, phải tạo được lòng tin ngày càng sâu sắc của dân vào Đảng.e
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện nghiêm
chỉnh và thống nhất: “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” phải trở
thành đạo đức hàng đầu, thành nếp sống tốt đẹp của mọi người. Do đó, để hệ
thống pháp luật được hoàn chỉnh hơn thì cùng với việc sửa đổi, bổ sung các văn
bản pháp luật thì chính nhân dân phải nghiêm túc chấp hành pháp luật.
3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước của Đảng
18
- Muốn hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước thì chúng ta phải thực hiện cải cách bộ máy hành chính, phải tăng cường
khả năng kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước, phải đổi mới pháp chế và phải hoàn
thiện chính sách về thuế, tiền lương, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
Về cải cách bộ máy hành chính: Bộ máy hành chính của Nhà nước Việt
Nam còn chứa nhiều bất cập, để phù hợp với điều kiện nền kinh tế qua độ hiện
nay buộc Nhà nước ta phải tiến hành cải cách bộ máy hành chính, các cơ quan
quản lý. Đảng và Nhà nước phải tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Phải chăm lo công tác đào tạo, kể cả việc đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ, công
chức Nhà nước theo yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Đảng phải lãnh đạo
công tác quy hoạch và chiến lược phải thực hiện tinh chế cơ quan Nhà nước để
tránh cồng kềnh mà kém hiệu quả.
Đối với chính sách về lương thì phải có những chính sách đãi ngộ hợp
pháp và thoả đáng để người lao động an tâm gắn bó với công sở. Phải có thay
đổi về mức lương tối thiểu vì chính sách này chưa thay đổi từ tháng 7 năm 1997
Chính sách tiền tệ, tài chính, ngân hàng: những chính sách này có tác
động trực tiếp đến việc huy động vốn cho đầu tư – nhân tố đầu vào quan trọng
của sản xuất. Do đó phải bám sát vào diễn biến của thị trường, phải thông qua
cho vay, huy động tiền gửi định ra các chính sách tiền tệ để điều tiết giá cả và
nhu cầu tiền tệ để hỗ trợ thêm vào việc tăng trưởng nhanh và ổn định nền kinh
tế. Ngân hàng Nhà nước phải tham gia xây dựng những chiến lược, kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội và các chính sách có liên quan đến hoạt động tiền tệ,
tín dụng cho phù hợp nhất với điều kiện kinh tế nước ta hiện nay.
19
- KẾT LUẬN
Qua cơ sở lý luận và qua thực tiễn đã nêu ở trên, có thể khẳng định lại
một lần nữa rằng con đường quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN ở Việt Nam là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan. Đó là sự vận dụng đúng
đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tiến trình
thực hiện quá độ ở nước ta thì Đảng và Nhà nước đóng một vai trò quan trọng
hàng đầu, Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, xã
hội . Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ của thời kì quá độ thì Đảng và Nhà
nước phải đưa đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại
hoá có như thế chúng ta mới xây dựng được cơ sở vật chất cho nền kinh tế quá
độ sssmới giảm bớt khoảng cách lạc hậu về khoa học công nghệ và kĩ thuật so
với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Trong quá trình thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kì quá độ, chúng ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Nhưng bên cạnh
đó cũng chưa tránh khỏi những hạn chế, lúng túng trong quản lý, trong thực
hiện cơ chế, chính sách và những tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Nhưng em
hy vọng với những giải pháp thích hợp thì những hạn chế đó sẽ sớm được khắc
phục để nước ta có những bước tiến nhanh hơn trên con đường quá độ lên
CNXH.
20
nguon tai.lieu . vn