Xem mẫu
- Viêm khớp dạng thấp và hướng dùng thuốc mới
Vài thập niên gần đây, nhờ tiến bộ về miễn dịch học, sinh học phân tử
cho phép hiểu thêm sự khởi phát, duy trì, tiến triển bệnh viêm khớp dạng
thấp (VKDT) và xác định là bệnh tự miễn. Trong điều trị, trước chỉ dùng
cách chữa triệu chứng như kháng viêm không steroid (NSAIDs) thì nay còn
dùng nhóm thuốc mới gọi là nhóm chống thấp có cải thiện được bệnh, viết tắt
DMAD (disease modifying anthirheumatic drugs), các thuốc sinh học thế hệ
mới, các thuốc hỗ trợ nhằm giảm bớt sự thoái hóa khớp.
Nhóm DMAD
Nguyên tắc dùng, sự thận trọng
- DMAD là các chất ức chế miễn dịch nên không dùng cho người mắc bệnh:
suy giảm miễn dịch (nhiễm HIV), bị các bệnh khác hay quá lớn tuổi mà khả năng
miễn dịch đã bị sút giảm (vì làm các bệnh đó trầm trọng thêm). Không dùng cho
người bị nhiễm khuẩn nặng, đang dùng kháng sinh. Không dùng đồng thời với các
thuốc làm giảm miễn dịch khác như corticoid (trừ trường hợp đặc biệt, do thầy
thuốc chỉ định, theo dõi).
Các thuốc DMAD thường dùng
Methotrexat
Methotrexat không chỉ giảm đau kháng viêm như NSAIDs mà còn cải thiện
tình trạng bệnh. Trước chỉ dùng khi không đáp ứng với NSAIDs, corticoid; nay
cho dùng sớm, ngay sau khi chẩn đoán đúng bệnh, nhằm phát huy tối đa tính năng
cải thiện tình trạng bệnh. Methotrexat cho hiệu quả rất tốt (67%), khá tốt (gần
30%), trung bình (3,3%).
Hầu hết người bệnh dung nạp tốt (chỉ có 1,7% không dung nạp phải ngừng
thuốc). Tuy nhiên, thuốc cũng có một số tác dụng phụ (khoảng 14%): Những
người bị suy hay rối loạn chức năng thận nặng, suy hô hấp, suy gan tiến triển,
nhiễm HIV, rối loạn tạo máu (giảm sản tủy xương, giảm bạch cầu, tiểu cầu), thiếu
máu lâm sàng nặng, suy dinh dưỡng nặng thì sự miễn dịch của cơ thể đã bị sút
kém; không dùng methotrexat cho người bị các bệnh này (methotrexat ức chế
miễn dịch làm bệnh nặng thêm).
- Methotrexat gây quái thai, bài tiết qua sữa gây hại cho trẻ; không dùng cho
người có thai, đang cho con bú.
Sulfasalazin
Sulfasalazin làm giảm viêm (không giảm đau), ức chế miễn dịch. Dùng
trong VKDT khi không đáp ứng với NSAIDs.
Sulfasalazin ít gây tác dụng phụ nặng (giảm bạch cầu, mất bạch cầu hạt,
thiếu máu toan huyết, chứng đại hồng cầu…) nhưng thường gây các phản ứng phụ
nhẹ (chán ăn, buồn nôn, rối loạn tiêu hóa, đau đầu) lúc mới dùng với liều cao (quá
4g/ngày). Cần khởi đầu liều thấp (500mg/ngày) sau tăng lên mỗi tuần 500mg, có
thể tới liều 3.000mg/ngày. Nên phối hợp với thuốc giảm đau. Không ngừng thuốc
đột ngột.
Cyclosporin
Cyclosporin ức chế đặc hiệu có hồi phục các tế bào lympho nhất là lympho
T, ức chế sản xuất, phóng thích lymphokin nên ức chế miễn dịch. Dùng trong
VKDT tiến triển nặng khi đáp ứng kém với methotrexat. Có thể phối hợp nếu
dùng methotrexat đơn độc không giảm.
Cyclosporin không dùng cho người suy thận nặng, huyết áp cao, các bệnh
ác tính.
- Cyclosporin đi qua nhau thai, chưa biết rõ tác hại với thai; chỉ dùng khi lợi
ích cao hơn nguy cơ. Cyclosporin tiết vào sữa, gây hại, không dùng cho người cho
con bú.
Nhóm thuốc sinh học thế hệ mới
Từ sinh vật chiết ra các tế bào đơn dòng, rồi dùng chính kỹ thuật di truyền
nhân lên và cho chúng biến đổi gen, chiết ra các kháng thể đơn dòng hay các chất
có hiệu quả chữa bệnh. Chúng được gọi là các thuốc sinh học thế hệ mới
(SHTHM).
Thuốc SHTHM có ưu thế ngăn chặn tận gốc nguyên nhân bệnh, dung nạp
tốt, hiệu quả khá cao, tiện dùng. Có thể nêu một ví dụ: trước khi có các thuốc này,
VKDT được chữa bằng methotrexat. Nhưng sau một thời gian dùng methotrexat
thường bị kháng thuốc, tỷ lệ kháng rất cao (trên dưới 70%), số người bệnh thuộc
dạng kháng thuốc rất nhiều.
Các yếu tố gây miễn dịch như các cytokin TNF (tumo necrosis factor = yếu
tố hoại tử), interleukin-1 tăng quá mức, dẫn tới sản xuất thừa kháng thể và chính
các kháng thể dư thừa đó quay lại gây hại cho cơ thể (gây viêm đau thoái hóa
khớp). Đó là nguyên nhân gây ra các bệnh tự miễn như VKDT. Các thuốc
SHTHM như
- Humia, Remicade, Enbrel khóa TNF, Keneret khóa interleukin-1 lại nên
làm iảm đau, giảm viêm, đặc biệt nhất là làm ngừng sự thoái hóa khớp.
Riêng Remicade được FDA cho phép chữa 9 bệnh, trong đó bệnh vẩy nến
thể khớp với đặc trưng viêm khớp kèm theo ban đỏ, tổn thương da. Ở một số nước
Âu-Mỹ, thuốc SHTHM được chỉ định cho những người
VKDT kháng các thuốc nhóm DMAD, coi đó như một lựa chọn thích hợp,
đem lại niềm hy vọng cho người bệnh, tạo ra bước ngoặt trong điều trị.
Nhóm thuốc hỗ trợ chống thoái hóa khớp
Glucosamin sulfat
Có thể dùng glucosamin sulfat riêng lẻ hoặc kết hợp với chondroitin sulfat
và chất khác như (thực phẩm chức năng joint support supreme). Glucosamin sulfat
kích thích tế bào sản xuất ra mucopolysaccharid là thành phần thiết yếu cấu tạo
chất nền sụn, ức chế các men tiêu hủy protein làm hỏng sụn, cải thiện sự thu nhận
canxi vào xương, chống lại sự thoái hóa sụn xương; tăng sản xuất hoạt dịch, cải
thiện độ nhớt của hoạt dịch, làm giảm sự khô cứng khớp.
- Chondroitin sulfat làm tăng tính
vững bền collagen nội bào, duy trì tính
co giãn của mô liên kết, giữ vững tính
vững chắc và đàn hồi của sụn, kích thích
sản xuất mucopolysaccharid là thành
phần thiết yếu tạo nên sụn, giúp dẫn các
chất dinh dưỡng đến nuôi sụn, chống lại
sự thoái hóa sụn.
Glucosamin, chondroitin là
những chất nội sinh, vốn có sẵn trong cơ
thể. Glucosamin, chondroitin trong sản
phẩm là những chất thiên nhiên, chiết từ sụn cá mập, được dùng bổ sung cho các
chất nội sinh bị thiếu hụt, vì thế mà dùng thường xuyên, không bị độc như khi
dùng các hóa chất tổng hợp khác.
Khi có các triệu chứng thoái hóa khớp như mô tả trên có thể dùng liều tấn
công mỗi ngày uống 1.000mg (có thể dùng tới 2.000mg), chia làm 2 lần, sau khi
ăn; trong vòng 1-2 tuần sẽ hết ngay các triệu chứng trên. Tuy nhiên, để giữ vững
kết quả cần dùng liều duy trì mỗi ngày bằng một nửa liều trên, ít nhất là trong 6
tháng.
Hyaluronat sodium (hyazin)
- Là chất cao phân tử, chiết xuất từ mào gà trống. Tiêm trực tiếp vào khớp có
tác dụng: làm giảm đau, giảm viêm như các kháng viêm không steroid (do làm
giảm sinh tổng hợp prostaglandin, bradykinin, chặn tác dụng của cytokin.
Quan trọng hơn là chống thoái hóa khớp do ức chế sự phân hủy protein kết
khối với các proteoglycan (một chất nền của sụn), sinh tổng hợp tế bào sụn khớp.
Các nghiên cứu tại nước ngoài và ở nước ta đều cho biết, dùng hyaluronat
sodium cho kết quả ở mức tốt và rất tốt (73%), mức trung bình (20%), mức kém
(chỉ 7%).
Là một chất tự nhiên nên dung nạp tốt, chỉ gây đau ở chỗ tiêm (30%) mệt
mỏi (17%) đỏ sưng tại chỗ nhẹ và không kéo dài. Không dùng cho người quá mẫn
cảm với thuốc.
nguon tai.lieu . vn