Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 (31) - Thaùng 8/2015
Văn hóa học và ứng dụng trong nghiên cứu phim cải biên
Cultural studies and the application in film adaptation
ThS. Đào Lê Na
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia TP.HCM
M.A. Dao Le Na
University of Social Sciences and Humanities
National University Ho Chi Minh City
Tóm tắt
Lý thuyết văn hóa cho thấy tác phẩm cải biên có tiếng nói riêng trong việc xây dựng văn hóa của thời
đại mà tác giả cải biên đang sống. Bởi vì, không ai có thể phủ nhận được tính chất diễn ngôn của tác
phẩm cải biên. Mỗi tác phẩm cải biên đều mang trong đó mục đích của đạo diễn, tác giả điện ảnh nên nó
sẽ không bao giờ trung lập hoặc khách quan. Mặt khác, vì đóng vai trò diễn ngôn của đạo diễn nên tác
phẩm cải biên sẽ phục vụ cho mục đích của đạo diễn. Do đó, nó sẽ được lựa chọn cải biên những chi
tiết, những nội dung… phù hợp với tư tưởng của đạo diễn. Nhà làm phim sẽ tùy thuộc vào vị trí, điểm
nhìn của mình mà có những lựa chọn cải biên khác nhau.
Từ khóa: văn hóa học, cải biên, tác giả điện ảnh, diễn ngôn…
Abstract
Cultural theory shows that the adapted works have their own voice in building the culture of the era
which their authors are living. Because, no one can deny the quality of discourse in the adapted works.
Each work obtains the purposes of the director, auteur so it will never be neutral or objective. On the
other hand, because adapted work is the discourse of director, it will serve the director’s purposes.
Therefore, it will have adapted details, the contents matching the director's ideology. The film makers
will depend on their position and point of view so that there are different choices to adapt.
Keywords: cultural studies, adaptation, auteur, discourse…
1. Vài nét về văn hóa học người sáng tạo ra trong lịch sử”. Khái niệm
Lâu nay, khi bàn đến văn hóa, người này cũng gần với khái niệm về văn hóa mà
ta thường chú ý đến những khía cạnh như: UNESCO đưa ra năm 2002: “Văn hóa nên
giá trị, truyền thống, con người, lịch sử… được đề cập đến như là một tập hợp của
Trong Đại từ điển tiếng Việt do tác giả những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
Nguyễn Như Ý chủ biên và Nhà xuất bản thức và xúc cảm của một xã hội hay một
Văn hóa Thông tin xuất bản năm 1998 thì nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng,
khái niệm văn hóa được định nghĩa là ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống,
“những giá trị vật chất, tinh thần do con phương thức chung sống, hệ thống giá trị,
19
- truyền thống và đức tin”1. Rõ ràng, đây là phủ… Tuy nhiên, tên gọi Đạo Mẫu không
cách hiểu, quan điểm truyền thống về văn xuất hiện cùng thời với các tín ngưỡng thờ
hóa được sử dụng trong nhiều tài liệu, cúng đó mà xuất hiện lần đầu trong công
nhiều công trình nghiên cứu. Trong công trình Đạo Mẫu Việt Nam của nhà nghiên
trình Những vấn đề văn hóa học – Lý luận cứu Ngô Đức Thịnh xuất bản năm 1994.
và ứng dụng của nhà nghiên cứu Trần Như vậy, tính lịch sử trong khái niệm về
Ngọc Thêm, khái niệm văn hóa được hiểu văn hóa cần được xem xét lại. Tương tự,
theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Theo Trống Đồng Đông Sơn, một hiện vật được
tác giả, “văn hóa theo nghĩa hẹp thường tìm thấy ở nhiều nước Đông Nam Á và
được đồng nhất với văn hóa tinh hoa. Văn Trung Quốc nhưng vẫn được cho là văn
hóa tinh hoa là một tiểu văn hóa chứa hóa của Việt Nam bởi theo Hậu Hán Thư,
những giá trị đáp ứng các nhu cầu bậc cao quyển 14 viết rằng: “Dân Giao Chỉ có linh
của con người. Quy luật chung là những vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất
giá trị đáp ứng các nhu cầu càng xa những hăng lúc lâm trận...”3. Nhiều nhà nghiên
đòi hỏi vật chất, đòi hỏi đời thường, đòi hỏi cứu còn xem những trang phục trên hình vẽ
nhất thời bao nhiêu thì tính giá trị, tính trống đồng là trang phục của người Việt
người càng cao bấy nhiêu, và do vậy càng Cổ. Cho đến tận cuối thế kỷ 19, nguồn gốc
mang tính tinh hoa về văn hóa. Theo nghĩa của trống đồng vẫn chưa được các học giả
này, văn hóa thường được đồng nhất với xác định. Nhiều học giả phương Tây tham
các loại hình nghệ thuật, văn chương”. Còn gia vào công cuộc khảo cứu nơi khai sinh
“giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được trống đồng nhưng kết luận vẫn chưa thống
dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh nhất: có người bảo ở Trung Quốc, có người
vực (văn hóa giao tiếp, văn hóa kinh bảo ở Việt Nam. Mặc dù chưa có sự ngã
doanh…). Giới hạn theo không gian, văn ngũ về xuất xứ trống đồng nhưng lịch sử
hóa được dùng để chỉ những giá trị đặc thù Việt Nam vẫn ghi nhận hiện vật này như
của từng vùng (văn hóa Tây Nguyên, văn biểu tượng của văn hóa Việt Nam. Vậy,
hóa Nam Bộ…), Giới hạn theo thời gian, khái niệm văn hóa ở đây nên được hiểu
văn hóa được dùng để chỉ những giá trị như thế nào? Và lý thuyết văn hóa học làm
trong từng giai đoạn (văn hóa Hòa Bình, sao có thể giải quyết vấn đề này?
văn hóa Đông Sơn…). Giới hạn theo hoạt Lý thuyết văn hóa học lấy đối tượng
động thì văn hóa theo nghĩa hẹp thường nghiên cứu chính là văn hóa. Ở đây, chúng
được đồng nhất với văn hóa ứng xử”2. tôi thống nhất sử dụng khái niệm văn hóa
Xuất phát từ những khái niệm thế này, được hiểu theo quan điểm phương Tây, tức
sẽ chẳng có bất kỳ nghi ngờ nào khi gọi là: địa thế có căn cứ vững chắc thực sự của
Đạo Mẫu là văn hóa của người Việt, áo dài thực tiễn, các đại diện, ngôn ngữ và phong
là văn hóa của người Việt, trống đồng tục của bất kỳ xã hội cụ thể. Quan điểm
Đông Sơn là văn hóa của người Việt… bởi quan trọng nhất về văn hóa chính là: “văn
người ta cho rằng tất cả đều là những vật hóa liên quan tới những câu hỏi về ý nghĩa
chất, tinh thần có giá trị trong lịch sử. Đạo xã hội được chia sẻ, có nghĩa là, chúng ta
Mẫu xuất phát từ tín ngưỡng thờ cúng các tạo ra ý nghĩa của thế giới từ những cách
Thánh Mẫu, Nữ thần trong dân gian. khác nhau thông qua các ký hiệu, đặc biệt
Chẳng hạn như thờ cúng Thánh Mẫu Liễu là ngôn ngữ”4.
Hạnh, mẹ Âu Cơ, Thánh Mẫu Tam phủ, Tứ Từ khái niệm văn hóa nêu trên, tiếp
20
- cận một vấn đề, hiện tượng nào đó theo nên có tên gọi là crime art9.
hướng nghiên cứu văn hóa, không phải là Từ ví dụ nêu trên, có thể thấy rằng,
mô tả vấn đề, hiện tượng đó như thế nào nghiên cứu văn hóa không thể tách rời yếu
mà là “tập trung vào câu hỏi của đại diện, tố chính trị. Bởi vì để củng cố quyền lực,
đó là làm thế nào thế giới về mặt xã hội các nhà cầm quyền xây dựng nên hệ thống
được xây dựng và đại diện cho và bởi diễn ngôn của riêng mình và thông qua đó,
chúng ta theo những cách có ý nghĩa”5. Để văn hóa được tạo lập. Rõ ràng, hệ thống
làm được điều này, cần phải bóc tách các diễn ngôn ấy được xây dựng với một mục
lớp vỏ văn bản của ý nghĩa. Như vậy, trong đích rõ ràng nên sẽ “không bao giờ là một
nghiên cứu văn hóa, cái cơ bản nhất theo hiện tượng trung lập hoặc khách quan mà là
Baker chính là trò chơi ngôn ngữ của vấn đề của tính vị trí, đó là của nơi mà từ đó
nghiên cứu văn hóa. người ta nói, với ai, và vì mục đích gì”10.
Nghiên cứu văn hóa quả thực là một Bởi vì văn hóa liên quan đến các đại
lĩnh vực rất rộng lớn và có thể tìm thấy diện nên nghiên cứu văn hóa không tách rời
bóng dáng của nó trong nhiều nghiên cứu quyền lực. Các biểu hiện của quyền lực
tự nhiên lẫn xã hội như vật lý, sinh học, xã được nghiên cứu văn hóa khám phá bao
hội, nhân học, ngôn ngữ. Chẳng hạn, gồm giới tính, chủng tộc, giai cấp, chủ
“Thuyết Darwin mới về văn hóa xã hội”, nghĩa thuộc địa, các kết nối giữa các hình
“Ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc nhìn văn thức của quyền lực. Như vậy, trong nghiên
hóa”. Rõ ràng, khi đặt những vấn đề nghiên cứu văn hóa, các nhà nghiên cứu không bao
cứu như thế, ranh giới giữa nghiên cứu văn giờ được phép bỏ qua quyền lực vì nó chi
hóa và các loại hình nghiên cứu khác trở phối tất cả các mối quan hệ xã hội. Quyền
nên nhạt nhòa. Mặc dù vậy, nhà nghiên cứu lực vừa “gắn kết mọi xã hội với nhau”,
Hall (1992) vẫn cho rằng “phải có điều gì “làm cho tập hợp người này phụ thuộc
đó đang bị đe dọa trong nghiên cứu văn người khác” vừa “tạo ra và cho phép các
hóa làm cho nó khác với các khu vực lệ hoạt động, các mối quan hệ và trật tự xã
thuộc khác”6. Hall diễn giải thêm rằng, cái hội”11. Để duy trì và củng cố quyền lực, và
đang đe dọa ấy chính là “sự kết nối mà tạo ra bản sắc riêng cho quốc gia trong bối
nghiên cứu văn hóa tìm cách để làm thành cảnh toàn cầu, các nhà cầm quyền tạo ra ý
những vấn đề của quyền lực và chính trị thức hệ “như là những sự thật toàn cầu, là
văn hóa”7. Đó là “sự khám phá những đại sự hiểu biết cụ thể mang tính lịch sử”12.
diện của và ‘cho’ các nhóm xã hội bị thiệt Chẳng hạn, ở Mỹ, chế độ nô lệ da đen
thòi và sự cần thiết phải thay đổi văn hóa”8. thống trị trong một thời gian dài nên tâm
Sự ra đời của loại hình vẽ tranh tường thức ghét bỏ người da đen, phân biệt chủng
nghệch họa (graffiti/crime art) chính là một tộc đã ăn sâu vào tâm trí của nhiều người
đại diện như vậy. Nó đại diện cho nhóm xã nên họ bị gọi là mọi đen, bị xa lánh và thậm
hội bị thiệt thòi ở khu phố Bronx, New chí ngay cả những người da trắng giúp đỡ
York. Những hình vẽ bằng sơn phun trên họ cũng bị xa lánh. Đây là điều đã được nhà
ga tàu điện ngầm hay các bức tường nhà, văn Harper Lee phản ánh trong tác phẩm
đường phố như là một sự phản kháng đối Giết con chim nhại, tác phẩm sau này cũng
với những chính sách về văn hóa xã hội được cải biên thành một tác phẩm điện ảnh
của chính phủ hiện thời. Chính vì vậy, loại xuất sắc. Người bố Atticus trong tác phẩm
hình nghệ thuật này bị xem là bất hợp pháp là một luật sư, ông phải bào chữa cho một
21
- người da đen và phải chịu sự gièm pha của nghĩa cũng như tháo dỡ các khái niệm về
rất nhiều người. Cuộc trò chuyện của tính thứ bậc, cặp đôi.
Francis và Jean Louise đã chứng thực điều Cả Derrida và Foucault đều chống lại
đó: “Bà nội nói chuyện ba mày để tụi mày cấu trúc ngôn ngữ và cho rằng đó là “một hệ
sống bừa bãi đã đủ tệ rồi, nhưng giờ ông té thống quy tắc điều chỉnh tự trị”14. Điều này
ra lại thành kẻ yêu bọn mọi đen thì chúng ta có nghĩa là các đối tượng vật chất lẫn thực
sẽ không bao giờ có thể đi lại trên đường tiễn xã hội bộc lộ ý nghĩa thông qua ngôn
phố Maycomb được nữa. Ông ấy đang hủy ngữ. Theo Foucault, “ngôn ngữ quy định
hoại dòng họ này, ông đang làm vậy đó”13. không chỉ những gì có thể được nói trong
Rõ ràng, chuyện “hủy hoại dòng họ”, điều kiện xã hội và văn hóa nhất định mà
chuyện “bọn mọi đen” không phải là những còn ai có thể nói, khi nào và ở đâu”15. Điều
cái cố hữu mà là do những định kiến xã hội, này sẽ dẫn đến sự phân tán quyền lực trong
chịu áp đặt từ quyền lực mà mặc nhiên thừa xã hội và quyền lực được hình thành thông
nhận như cái gì đó hoàn toàn đúng. qua “các mối quan hệ xã hội và bản sắc”16.
Nghiên cứu văn hóa được dẫn dắt bởi Đóng góp lớn nhất của giải cấu trúc
các nhà cấu trúc luận. Họ quan tâm đến việc trong nghiên cứu văn hóa chính là giải
tạo thành ý nghĩa văn hóa và tìm cách giải chân tính của ngôn ngữ bởi theo họ “có thể
mã nó. Các nhà cấu trúc luận xem tất cả các không có sự thật, đề tài, bản sắc bên ngoài
mối quan hệ của con người, hình ảnh, âm của ngôn ngữ”17. Rõ ràng, một khi ngôn
thanh, vật chất, ý thức… là những ký hiệu ngữ đã không có tính ổn định thì làm sao
văn hóa và có cấu trúc tương tự như ngôn có thể có đại diện cho chân lý hay bản sắc.
ngữ. Vì vậy, các nhà ngôn ngữ học mà tiêu Ngay cả trong toán học, cũng không có
biểu là Lévi - Strauss đã tiến hành phân tích những tiên đề, định luật luôn luôn đúng.
quá trình tạo nghĩa của các văn bản văn hóa Tiên đề Euclid thừa nhận tính chất: “Qua
bằng cách phân xuất các cặp đôi trong sự một điểm nằm ngoài một đường thẳng ta
tương phản nhau. Chẳng hạn, để phân tích vẽ được một và chỉ một đường thẳng song
mô hình mối quan hệ họ hàng, cấu trúc luận song với đường thẳng đã cho”. Tuy nhiên,
sẽ phân ra thành cặp đôi có thể kết hôn được tính chất này chỉ đúng khi và chỉ khi điểm
và bị cấm kết hôn; để phân tích mô hình và đường thẳng đã cho nằm trên cùng một
thực phẩm của con người, cấu trúc luận sẽ mặt phẳng. Còn nếu xét trong không gian
phân thành cặp đôi thực phẩm ăn được và thì tiên đề này sẽ không còn đúng nữa.
thực phẩm không ăn được… Giống như tiên đề vừa nêu, sự thật hay bản
Tuy nhiên, cách phân xuất cấu trúc sắc đều không phải là những vấn đề phổ
như thế này sẽ mặc nhiên thừa nhận sự ổn quát trong tự nhiên mà là những vấn đề
định của ngôn ngữ, văn hóa. Trong khi đó, tương đối và mang tính chủ quan, “là
ý nghĩa của các văn bản văn hóa lại được những sản phẩm của nền văn hóa trong
giải mã, chia sẻ bởi các người đọc khác thời gian và không gian cụ thể”18.
nhau và chúng được tạo ra một cách chủ Nghiên cứu văn hóa trong bối cảnh hậu
quan bởi người cầm quyền nên không thể hiện đại sẽ mỉa mai trước những đại tự sự,
có những ý nghĩa ổn định. Cùng với sự ra “từ chối sự thật như một đối tượng vĩnh cửu
đời của liên văn bản, các nhà hậu cấu trúc cố định” và bác bỏ tất cả những “tượng đài”
trên cơ sở kế thừa những luận điểm cơ bản ngôn ngữ, những tuyên ngôn, giáo huấn,
về cấu trúc đã bác bỏ tính ổn định về ý “những câu chuyện lớn có thể cung cấp cho
22
- chúng ta kiến thức chắc chắn để định Baker đã viết: “Nghiên cứu văn hóa không
hướng, ý nghĩa và con đường đạo đức của nói chuyện bằng một giọng điệu, nó không
“sự phát triển'con người”. Văn hóa hậu hiện thể được nói bằng một giọng điệu, và tôi
đại hoài nghi tất cả những gì được cho là cũng không có một giọng điệu nào đó để
chắc chắn, chân lý, vĩnh cửu, giáo điều…đã đại diện cho nó”20.
tồn tại trong xã hội và đem đến “một cảm Mặt khác, vì đóng vai trò diễn ngôn
giác về chất lượng rời rạc, không rõ ràng và của đạo diễn nên tác phẩm cải biên sẽ phục
không chắc chắn của thế giới, cùng với mức vụ cho mục đích của đạo diễn và do đó, nó
độ cao của phản ứng cá nhân và xã hội”19. sẽ được lựa chọn cải biên những chi tiết,
Ranh giới giữa những phân biệt thực tế và những nội dung phù hợp với tư tưởng của
mô phỏng bị xóa mờ bởi tất cả các văn bản đạo diễn. Nhà cải biên sẽ tùy thuộc vào vị
văn hóa đều được xem xét trong tính liên trí, điểm nhìn của mình mà có những lựa
văn bản, đa phương pháp và tự ý thức. Điều chọn cải biên khác nhau. Cùng là một tác
này cũng giúp các nhà nghiên cứu đánh giá phẩm văn học, nhưng nếu nhà cải biên
lại những tác phẩm điện ảnh cải biên một đứng về phía những người nắm giữ quyền
cách khách quan hơn, công bằng hơn. lực thì sẽ có sự lựa chọn tác phẩm cho phù
Những “tượng đài văn hóa”, những vị trí hợp, còn nếu nhà cải biên đứng về phía
độc tôn của những sản phẩm được viết ra những người có vị trí thấp trong xã hội thì
bởi ngôn ngữ cũng bị đánh giá lại, bị hoài sẽ thường lựa chọn những tác phẩm mà
nghi. Nghệ thuật điện ảnh cũng tham gia nhân vật trung tâm của họ là những người
vào việc xây dựng các văn bản văn hóa của lao động, những người tri thức nghèo,
thời đại bằng những đặc trưng riêng của nó, những người nô lệ. Đó là lý do tại sao
bằng việc chiến thắng sự đồng thuận trong nhiều lần đạo diễn Kurosawa Akira thay
văn hóa đương đại. đổi bối cảnh của tác phẩm văn học mà ông
2. Văn hóa học trong nghiên cứu cải biên cải biên. Ở Kurosawa Akira, văn hóa Đông
Từ lý luận văn hóa học, có thể thấy rõ – Tây quyện hòa rất rõ rệt. Mặc dù phong
ràng, quy trình cải biên một tác phẩm văn cách làm phim của ông rất “Tây” nhưng
học sang tác phẩm điện ảnh được soi chiếu những nội dung mà ông đề cập, triết lý, văn
rất nhiều và tác phẩm cải biên cũng có hóa trong phim ông lại mang đậm chất
tiếng nói riêng của nó trong việc xây dựng phương Đông, chất Nhật Bản. Đặc biệt
văn hóa của thời đại mà tác giả cải biên nhất, phông nền văn hóa Phật giáo, tư
đang sống. Bởi vì, không ai có thể phủ tưởng Phật giáo là yếu tố quyết định phong
nhận được tính chất diễn ngôn của tác cách cải biên của Kurosawa Akira. “Loạn”
phẩm cải biên. Mỗi tác phẩm cải biên đều (Ran) là bộ phim như thế. Mặc dù được cải
mang trong đó mục đích của đạo diễn, tác biên từ tác phẩm Vua Lear (King Lear) của
giả điện ảnh và nó sẽ không bao giờ là William Shakespeare nhưng vua Lear của
trung lập hoặc khách quan. Người ta không Kurosawa lại là một lãnh chúa Nhật Bản.
thể đòi hỏi đạo diễn điện ảnh phải trung Cả bộ phim là một bức tranh cuộn mà khi
thành với tác phẩm văn học khi mà tác khai mở, triết lý Phật giáo dần dần được
phẩm văn học cũng là một văn bản văn hóa hiển lộ một cách sâu sắc.
và đòi hỏi phải được luận giải bằng nhiều Vua Lear của Shakespeare bắt đầu bi
cách khác nhau. Ngay khi mở đầu cuốn kịch khi các cô con gái chia sẻ tình cảm
sách lý luận về văn hóa học của mình, của mình đối với cha. Tuy nhiên, cách chia
23
- sẻ thẳng thắn và chân thật của cô con gái út có một vị cha tốt, sẵn sàng chia sẻ giang
khiến nhà vua nổi giận và ông quyết định sơn cho mình thì tại sao lại đối xử với vua
chia giang sơn của mình cho hai cô con gái cha như thế? Chính vì mang theo những
lớn và thu hồi phần tài sản của cô con gái hoài nghi đó, Kurosawa đã quyết định cải
út. Bi kịch của ông mở ra khi hai cô con biên Vua Lear để giải tỏa nỗi niềm chất
gái lớn có được đất nước của vua cha nên chứa trong lòng.
bộc lộ rõ chân tướng và đuổi ông ra khỏi Việc Kurosawa đi tìm nguyên nhân
giang sơn. Từ đó, nhà vua bắt đầu chặng dẫn đến bi kịch của vua Lear là do ông bị
đường gian khó để đến với triết lý nhân ảnh hưởng bởi triết lý nhân – quả của Phật
sinh của cuộc đời, đến với cuộc sống của giáo. Hậu quả mà vua Lear gánh chịu ngày
những người cùng khổ và thấu hiểu được hôm nay, ắt hẳn phải do cái “nghiệp” trong
tấm chân tình thực sự của cô con gái út. quá khứ tạo sinh. Cái nghiệp ấy đáng sợ
Tuy nhiên, khởi nguồn bi kịch này của hơn khi sự độc ác từ quá khứ của vua Lear
vua Lear khiến Kurosawa cảm thấy vô in hằn lên các con của ông, những người có
cùng thất vọng. Với tư cách là một độc giả, quan hệ tương sinh với ông và đồng thời
ông nói: “Tôi yêu Shakespeare bao nhiêu lại in hằn lên kẻ thù của ông, những người
thì tôi lại thất vọng về vở kịch Lear bấy có quan hệ đối kháng với ông. Như vậy,
nhiêu... Từ quan điểm Nhật Bản, Lear việc đánh tráo cốt truyện, phân đôi hai hệ
dường như không có bất kỳ sự phản chiếu thống nghiệp báo mà vua Lear phải gánh
nào vào quá khứ của mình. Nếu anh ta bắt chịu là cách mà Kurosawa đã khai thác rất
đầu ở một vị trí quyền lực lớn như vậy, và triệt để quan điểm nhân – quả và nghiệp
sau đó ông điên loạn vì các cô con gái quay báo luân hồi của đạo Phật.
sang chống lại ông, hẳn phải có một lý do Bên cạnh đó, mỗi bộ phim được cải
nào đấy… và lý do duy nhất phải nằm biên cũng chính là một đại diện văn hóa
trong hành vi quá khứ của ông. Ông ấy được tạo tác nên nó liên quan đến câu hỏi
phải là một bạo chúa khủng khiếp khi bắt tại sao nó lại được tạo ra và có ý nghĩa như
đầu vở kịch. Và các cô con gái của ông thế nào? Nghiên cứu văn hóa sẽ đem đến
phải học được từ ông điều ấy”21. Có thể câu trả lời cho câu hỏi tại sao tác giả cải
thấy, Kurosawa đã tiếp cận bi kịch của biên lại phải cắt bỏ những chi tiết như thế
Shakespeare trên tinh thần đối thoại. từ tác phẩm gốc. Ví dụ như, trong tác phẩm
Những hoài nghi, những trăn trở của Cuộc đời của Pi của Yan Martel, tác giả đã
Kurosawa thông qua việc tiếp nhận vở kịch dành rất nhiều trang để mô tả câu chuyện
Vua Lear không phải không có lý. Khi con hổ ăn thịt một người đàn ông mù khi Pi
bước vào vở kịch, người ta không biết gì ở trên thuyền và gặp ông ta ở chiếc thuyền
về vua Lear, không biết tại sao vị vua già đối diện. Câu chuyện này sau đó cũng
với nhiều năm kinh nghiệm trên ngai vàng, được Pi kể lại thành một kiểu khác, trong
với quyền lực cao quý như vậy lại không đó nhân vật con hổ đã biến thành. Đây là
phân biệt được lời nào là nịnh bợ, lời nào chi tiết quan trọng trong tác phẩm để thấy
là chân thật để dẫn đến sai lầm trong việc rõ sự khắc nghiệt của Pi khi ở trên chiếc
đánh giá tình cảm của những cô con gái. thuyền có con hổ Bengal và nguy hiểm
Bên cạnh đó, cách ứng xử của các cô con luôn rình rập bất cứ lúc nào nhưng trong bộ
gái đối với ông có phải là do học theo sự phim cải biên, đạo diễn điện ảnh đã cắt bỏ
bạo tàn của ông hay không bởi nếu các cô đi chi tiết đó. Điều này, một phần xuất phát
24
- từ quan điểm văn hóa của Lý An mà có thể của bộ phim, giới tính của nhà làm phim,
là được di truyền từ “các chuẩn mực xã đề tài, nhân vật chính của phim… Những
hội”, “biểu hiện những thiên hướng sinh yếu tố này hợp lại với nhau sẽ giải mã được
học ăn sâu vào các gien con người”22. tư tưởng, chủ đề của nhà làm phim, đồng
Ngoài việc bị kiểm duyệt bởi chính thời thấy được những ảnh hưởng mang tính
người cải biên, tác phẩm cải biên còn bị văn hóa của nhà làm phim và bộ phim của
các cơ quan văn hóa kiểm duyệt khi bộ họ. Chẳng hạn, khi xem phim “Rừng Na
phim được trình chiếu công khai và được Uy” Trần Anh Hùng, nếu người ta giải mã
lưu truyền như một sản phẩm văn hóa. Sự bộ phim từ góc nhìn của một đạo diễn Việt
kiểm duyệt lần thứ hai này sẽ khiến cho bộ kiều thì cách giải mã đó sẽ hoàn toàn thất
phim hai lần chịu sự thiệt thòi, trong đó sự bại. Người xem phải biết kết hợp phong
thiệt thòi sau phải gánh chịu hậu quả nặng cách phim Trần Anh Hùng với phông nền
nề hơn. Sự thiệt thòi đầu tiên là người cải văn hóa Nhật Bản, và chủ đề của tác phẩm
biên, vì một số quan điểm đạo đức, văn hóa văn học mà Trần Anh Hùng tiếp nhận để
của xã hội hiện thời mà phải kiểm duyệt, thấy được vì sao Trần Anh Hùng lại sắp
cắt bỏ và có sự lựa chọn các chi tiết từ tác xếp khuôn hình các nhân vật chông chênh,
phẩm văn học cho phù hợp. Tuy nhiên, vì hiểu được vì sao đằng sau những khuôn
sự tự kiểm duyệt này mà người cải biên có hình tuyệt đẹp lại ẩn chứa sự chết chóc, giải
thể sáng tạo ra những tình tiết, chi tiết khác mã được sự song hành của yếu tố nước và
phù hợp hơn để thay thế và đôi khi nó lại là lửa, nóng và lạnh trong bộ phim.
mảnh đất ươm mầm sáng tạo. Thế nhưng, Giống như bản sắc trong nghiên cứu
sự kiểm duyệt lần thứ hai thì đem đến kết văn hóa, phong cách làm phim của người
quả ngược lại. Đó là các nhà làm phim bắt cải biên cũng cần được chú ý. Đó là những
buộc phải cắt bỏ một số chi tiết không phù nét độc đáo mang thương hiệu riêng của nhà
hợp với quan điểm văn hóa, xã hội, chuẩn làm phim, khiến cho bộ phim dù có phải là
mực đạo đức hiện thời khi trình chiếu công cải biên hay không cũng tạo ra được sự
khai hoặc lưu hành. Trong điện ảnh, mỗi khác biệt và mang dấu ấn tác giả rõ nét. Nhà
cảnh, mỗi hành động, mỗi chi tiết đều có ý làm phim có thể thực hiện quyền bá chủ đối
nghĩa hết sức quan trọng. Dưới bàn tay của với tác phẩm của mình, xây dựng bản sắc
một nhà làm phim tài hoa, không bao giờ riêng cho tác phẩm để nó hoàn toàn thoát
có chỗ cho những điều “dư thừa”. Do đó, khỏi cái bóng của tác phẩm mà nó cải biên.
các chi tiết bị cắt đi sẽ làm cho tính nghệ Văn bản văn hóa trong bối cảnh hậu
thuật và những tạo dựng “có ý đồ” riêng hiện đại hoài nghi toàn bộ tính ổn định, sự
của nhà làm phim bị mất. Kết quả, sẽ dẫn thật của ngôn ngữ. Tác phẩm cải biên theo
tới những diễn giải sai lệch nếu khán giả đó cũng có quyền chất nghi lại tác phẩm
không được xem tác phẩm đầy đủ. mà nó cải biên. Nhà làm phim từ đó có thể
Một bộ phim cũng giống như một văn sáng tạo lại tác phẩm cải biên theo quan
bản văn hóa, một sản phẩm mang tính đại điểm văn hóa của riêng mình. Khi một tác
diện nên khi nghiên cứu cũng cần phải phẩm văn học cũng là một văn bản văn
tránh khuynh hướng giản luận hóa. Thế hóa, nhà làm phim cũng sẽ có vai trò như
nên, khi nghiên cứu một bộ phim được cải một độc giả đặc biệt. Vị độc giả này sẽ có
biên theo hướng văn hóa cũng cần phải có cách giải mã văn bản văn hóa riêng của anh
sự phối hợp giữa các yếu tố như nơi ra đời ta và chia sẻ cách giải mã ấy thông qua bộ
25
- phim của mình. Từ bộ phim này, một văn 16
Practice, SAGE Publications, UK and USA
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
bản văn hóa mới ra đời.
Practice, SAGE Publications, UK and USA
Như vậy, nghiên cứu văn hóa trong 17
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
phim cải biên không phải là nghiên cứu các Practice, SAGE Publications, UK and USA
sản phẩm văn hóa thể hiện trong bộ phim 18
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
mà chính bản thân bộ phim cải biên ấy là Practice, SAGE Publications, UK and USA
19
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
một sản phẩm văn hóa, một văn bản văn Practice, SAGE Publications, UK and USA
hóa. Nghiên cứu cải biên sẽ xem xét văn 20
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
bản văn hóa này trong bối cảnh xã hội cụ Practice, SAGE Publications, UK and USA
21
thể, sự tự điều chỉnh của văn bản văn hóa, Peter Grilli (1985) “Kurosawa Directs a Cinematic
Lear” New York Times 15 Dec. 1985: 1, 17
tính diễn ngôn của nó và sự thể hiện quyền 22
Dominique Guillot (Tân Phong lược dịch) (2009),
lực của nhà làm phim. “Thuyết Darwin mới về văn hóa xã hội”, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật số 298, tháng 4-2009
Chú thích
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a
2
Trần Ngọc Thêm, (2013), Những vấn đề văn hóa học 1. Chris Barker, (2007), Cultural Studies:
– Lý luận và ứng dụng, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, TP Theory and Practice, SAGE Publications, UK
Hồ Chí Minh and USA.
3
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%91ng_%C4 2. Triệu Thanh Đàm (2009), “Michael Jackson
4
%91%E1%BB%93ng và nền văn hóa ảo phản nhân loại”, Tạp chí
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and Văn hóa nghệ thuật, số 304, tháng 10-2009.
Practice, SAGE Publications, UK and USA
5 3. Trần Thị Bích Điệp (2009), “Văn hóa hip
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA
hop”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 304,
6
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
tháng 10 năm 2009.
Practice, SAGE Publications, UK and USA 4. Dominique Guillot (Tân Phong lược dịch)
7
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and (2009), “Thuyết Darwin mới về văn hóa xã
Practice, SAGE Publications, UK and USA hội”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 298,
8
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and tháng 4-2009.
Practice, SAGE Publications, UK and USA 5. Happer Lee, (2008), Giết con chim nhại, Nxb
9
Trần Thị Bích Điệp (2009), “Văn hóa hip hop”, Tạp Văn học, Hà Nội.
chí Văn hóa Nghệ thuật số 304, tháng 10 năm 2009
10 6. Peter Grilli (1985) “Kurosawa Directs a
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA Cinematic Lear” New York Times 15
11
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and Dec. 1985: 1, 17.
Practice, SAGE Publications, UK and USA 7. Trần Ngọc Thêm, (2013), Những vấn đề văn
12
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and hóa học – Lý luận và ứng dụng, Nxb Văn hóa
Practice, SAGE Publications, UK and USA - Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.
13
Happer Lee, (2008), Giết con chim nhại, Nxb Văn 8. http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%
học, Hà Nội C3%B3a
14
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and
Practice, SAGE Publications, UK and USA 9. http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%91
15
Chris Barker, (2007), Cultural Studies: Theory and ng_%C4%91%E1%BB%93ng
Ngày nhận bài: 07/6/2015 Biên tập xong: 15/8/2015 Duyệt đăng: 20/8/2015
26
nguon tai.lieu . vn