Xem mẫu

  1. Khai đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Gọi là kết hôn có yếu tố nước ngoài, việc kết hôn giữa công dân Việt nam vối công dân nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà có một bên đang định cư ở nước ngoài, và giữa công dân nước ngoài đang sống tại Việt Nam với nhau10[10]. Theo đó: - Cơ quan đăng ký kết hôn là UBND tỉnh; - Không có thủ tục niêm yết; thay vào đó là thủ tục xác minh do Sở Tư pháp phối hợp với cơ quan Công an thực hiện. Nội dung xác minh tất nhiên cũng xoay quanh những điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp đặc thù, việc 10[10] Các phân tích chi tiết về việc khai đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài sẽ được thực hiện trong khuôn khổ môn Lu ật gia đình I
  2. xác minh còn nhằm làm rõ những hậu quả có thể có của việc kết hôn đối với an ninh quốc gia. Nội dung giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Ngày kết hôn là ngày tiến hành lễ đăng ký kết hôn tại UBND xã (ngày UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài). Giấy chứng nhận kết hôn phải có chữ ký của các bên kết hôn. C. Thay đổi, cải chính nội dung chứng thư hộ tịch
  3. Khái niệm. Thay đội nội dung chứng thư hộ tịch là việc sửa đổi các ghi chép trong chứng thư đó, một khi có lý do chính đáng hoặc trong những trường hợp khác được pháp luật thừa nhận. Cải chính nội dung chứng thư hộ tịch là việc làm cho các chi tiết trong chứng thư phù hợp với sự thật hoặc hợp lý hơn. Chứng thư hộ tịch được phép thay đổi, cải chính và nội dung thay đổi, cải chính được phép. Luật hiện hành chỉ dự liệu việc thay đổi, cải chính hộ tịch đối với chứng thư khai sinh. Tất nhiên, một khi nội dung chứng thư khai sinh thay đổi hoặc được cải chính, thì các giấy tờ hộ tịch khác cũng phải được điều chỉnh trên cơ sở áp dụng quy định tại Ðiều 55 Nghị định số 83-CP đã dẫn. Vấn đề là phải làm thế nào trong trường hợp Giấy khai sinh không thay đổi cũng không có cải chính, nhưng các chứng thư hộ
  4. tịch khác lại có những chi tiết không phù hợp với Giấy khai sinh (ví dụ: Giấy chứng nhận kết hôn ghi tên, họ hoặc ngày sinh, nơi sinh không đúng so với giấy khai sinh)? Có lẽ, trong trường hợp này, vẫn phải dựa vào Ðiều 55 Nghị định đã dẫn để điều chỉnh các chứng thư hộ tịch khác, trên cơ sở đối chiếu nội dung của các chứng thư đó với nội dung của giấy khai sinh11[11]. Mặt khác, Ðiều 55 chỉ nói về việc điều chỉnh các giấy tờ liên quan của người có hộ tịch được thay đổi, cải chính; nhưng nếu các dữ kiện được thay đổi, cải chính được ghi nhận trong giấy tờ của người khác, thì các giấy tờ của người sau này cũng phải được điều 11[11] Song, giải pháp này chỉ áp dụng được cho các ghi chép được thể hiện cả trên chứng thư hộ tịch khác và trên giấy khai sinh, ví dụ, họ t ên đương sự, ngày, tháng năm, nơi sinh. Có những ghi chép rất riêng của chứng thư hộ tịch khác, chẳng hạn, ngày kết hôn trên Giấy chứng nhận kết hôn. Trong điều kiện không có các quy định cho phép cải chính, điều chỉnh trực tiếp đối với các chứng thư hộ tịch khác không phải là chứng thư khai sinh, có lẽ phải thừa nhận rằng việc sửa chữa sai sót trong các chứng thư này được thực hiện theo cách thông thường: viên chức hộ tịch viết chồng lên chỗ có sai sót và ký tên, đòng dấu bên cạnh.
  5. chỉnh (ví dụ: nếu tên cha được thay đổi, thì tên cha ghi trên Giấy khai sinh của con phải được điều chỉnh). Ðối tượng thay đổi bao gồm họ, tên, chữ đệm; đối tượng cải chính bao gồm họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh. Dân tộc của một người, nếu được xác định không đúng, có thể được xác định lại. Nơi sinh không được liệt kê trong các đối tượng được cải chính. Nói chung, các đối tượng có thể được cải chính rất giới hạn, trong khi bất kỳ ghi nhận nào trong chứng thự hộ tịch cũng có thể sai. Không thể nói rằng những chi tiết nào trong giấy khai sinh mà không thể được cải chính hoặc điều chỉnh, thì có thể được sửa chữa trong trường hợp có sai sót, theo thủ tục thông thường: làm thế nào lý giải những cách xử lý không giống nhau
  6. đối với các ghi chép khác nhau trên cùng một chứng thư hộ tịch ? Hẳn pháp luật về hộ tịch còn cần được hoàn thiện ở điểm này. Người yêu cầu thay đổi, cải chính. Người có tên trong Giấy khai sinh có quyền yêu cầu thay đổi cải chính hộ tịch cho mình. Trong trường hợp người này chưa đủ 18 tuổi hoặc đã thành niên mà không có năng lực hành vi, thì việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người này do cha, mẹ hoặc người giám hộ yêu cầu (Nghị định đã dẫn Ðiều 53 khoản 2). Ðối với người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó (cùng điều luật).
nguon tai.lieu . vn