Xem mẫu
- trong chứng thư khai sinh, trong những trường hợp mà luật
không cấm. Ðặc biệt, họ và tên thật phải được sử dụng trong các
giấy tờ giao dịch với cơ quan Nhà nước.
Song, nguyên tắc sử dụng họ và tên thật, được thiết lập như trên,
không cứng nhắc. Tục lệ Việt Nam thừa nhận rằng người phụ nữ
có chồng sẽ mang họ và tên chồng trong quan hệ với người
ngoài gia đình. Tục lệ này có nguồn gốc trong chế độ phụ quyền
áp dụng đối với gia đình Việt Nam cổ xưa: người cha trong gia
đình là người duy nhất có quyền đại diện cho gia đình trước
người thứ ba. Tục lệ hiện đại không còn coi việc người vợ mang
tên chồng như là một nghĩa vụ, nhưng tiếp tục thừa nhận quyền
của người vợ sử dụng tên chồng trong các giao dịch xác lập với
người ngoài gia đình. Có trường hợp người vợ mang tên chồng
- cả khi tham gia vào các hoạt động chính trị hoặc các hoạt động
của bộ máy Nhà nước, chứ không chỉ khi xác lập các giao dịch
dân sự hoặc thương mại.
Mặt khác, có những nhân vật được xã hội nhận biết nhờ bí danh,
bút danh, biệt danh nhiều hơn nhờ họ và tên thật. Trong trường
hợp này, luật cho phép cá nhân sử dụng bí danh, bút danh, biệt
danh khi thực hiện các hoạt động trong những lĩnh vực mà do
những hoạt động trong lĩnh vực đó, đương sự trở nên nổi tiếng
dưới bí danh, bút danh, biệt danh của mình. Ví dụ: nhà hoạt động
chính trị, khi giữ một chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước,
có thể ký bí danh, bút danh, biệt danh của mình trong văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản hành chính.
- 2. Ðặt họ
Nguyên tắc lấy họ cha. Cá nhân, khi sinh ra, được mang họ
cha. Trong một số cộng đồng dân tộc ít người ở Việt Nam có thể
tồn tại tục lệ cho con lấy họ mẹ. Bởi vậy, BLDS Ðiều 55 khoản 1
quy định rằng “họ của trẻ sơ sinh là họ của người cha hoặc họ
của người mẹ theo tập quán...”. Dẫu sao, tục lệ lấy họ mẹ không
phổ biến; điều đó có nghĩa rằng tục lệ lấy họ cha mang tính
nguyên tắc.
Nguyên tắc lấy họ cha không được xếp vào nhóm các quy phạm
của luật mệnh lệnh trong luật thực định. Cha và mẹ có thể thỏa
- thuận cho con mang họ mẹ (Ðiều 55 khoản 1). Từ câu chữ của
luật viết, có thể tin rằng, một khi có cha hoặc mẹ, thì con chỉ có
thể mang họ của một trong hai người: cha, mẹ không thể cho con
mang một họ thứ ba nào khác.
Do nguyên tắc lấy họ cha mà: 1 - Tất cả các con cùng cha đều có
cùng một họ; 2- Họ được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ
khác bởi những người có giới tính nam: con gái cũng mang họ
cha, nhưng không thể chuyển giao họ đó cho con trai của mình,
nếu không có thỏa thuận khác giữa cha và mẹ.
Ðặt họ cho trẻ bị bỏ rơi. Luật viết hiện hành không có quy định
về việc đặt họ cho trẻ bị bỏ rơi. Trong trường hợp có người nhận
- nuôi trẻ bị bỏ rơi, thì theo quy định của luật, họ và tên của người
nhận nuôi được ghi vào các ô dành cho cha, mẹ trong giấy khai
sinh (Nghị định số ngày Ðiều 21 đoạn chót). Ðiều đó cho phép
nghĩ rằng trẻ bị bỏ rơi trong trường hợp này sẽ mang họ của
người cha nuôi (nếu có đủ cha, mẹ nuôi hoặc chỉ có cha nuôi)
hoặc họ của mẹ nuôi (nếu chỉ có mẹ). Nhưng trong trường hợp
không có ai nhận nuôi trẻ bị bỏ rơi, thì cơ quan hộ tịch vẫn phải
đăng ký khai sinh: hẳn khi đó chính cá nhân, tổ chức nhận nuôi
dưỡng cùng với cơ quan hộ tịch phải chọn cho trẻ bị bỏ rơi một
họ, theo tập quán của nơi đăng ký khai sinh2[2]. Thông thường,
họ được lựa chọn trong trường hợp này là họ được mang bởi đa
số hoặc nhiều cư dân trong vùng nơi phát hiện đứa trẻ hoặc bơi
đăng ký khai sinh cho đứa trẻ.
2[2] Trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở Pháp, họ trong trường hợp này sẽ được lựa chọn giữa
các từ được dùng để đặt tên.
- 3. Ðặt tên
Tên ở Việt Nam đi sau họ và được sử dụng để xưng hô, cả trong
quan hệ xã giao hoặc gia đình, bè bạn, và cả theo nghĩa nghiêm
trang lẫn theo nghĩa thân mật3[3].
Nguyên tắc tự do đặt tên. Khác với họ (được đặt theo họ cha,
họ mẹ hoặc theo quyết định của cơ quan hộ tịch, trong trường
hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi và không có người nhận nuôi), tên
3[3] Ở phương Tây, tên dùng để xưng hô thân mật; còn họ dùng để xưng hô theo nghi thức, theo
phép lịch sự hoặc trong các quan hệ xã giao.
Có kiến cho rằng người Việt Nam dùng tên cả trong xưng hô trang trọng, bởi vì tên Việt Nam rất
đa dạng và có tác dụng phân biệt được cá nhân, trong khi họ lại không được đa dạng lắm. Ý kiến
này không tỏ ra thuyết phục, bởi Trung Quốc cũng có nhiều t ên và không có nhiều họ như ở Việt
Nam, nhưng người Trung Quốc lại có thói quen dùng họ để xưng hô trang trọng như người
phưong Tây.
Trong tập quán giao tiếp hiện đại ở Việt Nam, việc xưng hô trang trọng đang dần dần được đặc
trưng bằng việc xướng cả họ và tên.
nguon tai.lieu . vn