Xem mẫu
- Vấn đề tạm giữ trong Luật tố tụng hình sự Việt
Nam
1. Khái niệm chung
Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của
luật TTHS. Đó là những quan hệ luôn có 1 bên là quyền lực cơ quan Nhà
nước có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác
tội phạm là hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà
hành vi nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng
đồng, do vậy trong tố tụng hình sự các cơ quan có thẩm quyền có quyền
áp dụng các biện pháp cưởng chế để tác động tới đối tựợng. Đặc điểm
chung của các biện pháp cưởng chế là sự tác động một chiều không phụ
thuộc vào ý trí của bên bị tác động xuất phát từ những căn cứ điều kiện do
pháp luật quy định.
Tùy thuộc vào mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng hoặc những tiêu
chuẩn khác mà các nhà làm luật phân chia các biện pháp cưỡng chế thành
những nhóm khác nhau và trong mỗi nhóm lại có những biệm pháp khác
nhau, vói những trình tự thủ tục khác nhau : bao gồm 2 nhóm chính. Nhóm
các biện pháp ngăn chặn và nhóm các biện pháp điều tra.
Những biện pháp cưỡng chế điều tra có mục đích nhằm thu thập chứng
cứ của vụ án làm căn cứ xem xét việc truy cứu THHS đối với người
phạm tội, ví dụ như biện pháp khám xét có thể áp dụng đối với khám
người, khám đồ vật, thư tín, khám chổ ở, địa điểm hoặc như biện pháp kê
biên tài sản, tạm giữ đồ vật, tài liệu… theo Điều 79 BLTTHS 2003 bao
gồm các biện pháp sau: Bắt ( bao gồ bắt người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã
- và bắt bị can bị cáo để tạm giữ, tạm giam cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh
đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, như vậy tạm giữ là một trong những
biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS hiện hành. Vấn đề
đặt ra là biện pháp tạm giữ được áp dụng với những trường hợp nào.
a. Đối tượng tạm giữ
Điều 86 BLTTHS 2000 quy định về đối tượng, căn cứ và thẩm quyền áp
dụng Biện pháp ngặn chặn tạm giữ. Theo quy định của điều luật này thì
tạm giữ là việc cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết định tạm thời
hạn chế tự do trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc trường hợp khẩn
cấp.
Mục đích của BPNC tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc
hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội phạm của người bi nghi là thực
hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền đủ thời
gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân của người thực
hiện hảnh vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố vụ
án hình sự, khởi tố bị can hoặc không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
hoặc các quyết định quản lý cần thiết khác như, tạm giữ áp dụng các
biện pháp ngăn chặn khác hay trả tự do cho người bị bắt.
Nhìn chung đối tượng bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang, tuy nhiên điều luật cũng không quy định bắt
buộc trong tất cả mọi trường hợp bắt đó đều phải tạm giữ, mà trong một
số trường hợp bắt người phạm tội quả tạng, nếy xét thấy hành vi phạm
tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng lại có nơi cư trú rõ ràng không có cơ sở
để ch từng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra trong các
trường hợp đó không cần thiết phải tạm giữ họ. Điều 86 BLTTHS 2003
cũng không quy định cụ thể các căn cứ áp dụng BPNC tạm giữ, mà căn cứ
để tạm giữ được hiểu là nếu việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang khi có
- đủ căn cứ quy định tại Điều 81 và 82 BLTTHS năm 2003 thì đó cũng chính
là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ. Điều luật cũng quy định những
người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ là những người có quyền ra
lệnh bắt khẩn cấp theo quy định tại Điều 81 BLTTHS 2003.
Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “ tạm giữ có thể áp dụng đối
với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả
tang, người phạm tội tự thú, đầu tú hoắc đối với người bị bắt theo quyết
đinh truy nã”. Như vậy, việc tạm giữ có thể áp dụng với những người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang quy định tại các
Điều 81 và 82 của BLTTHS, tức là các điều luật quy định về bắt người
trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và bắt người
đang bị truy nã cũng như đối với phạm tội tự thú hoặc đầu thú. Nhận thức
về quy định này cho thấy biện pháp tạm giữ có thể được áp dụng với các
đối tượng bị bắt khẩn cấp, bắt quả tang, bắt truy nã, người đầu thú, tự
thú chứ không bắt buộc, nói cách khác, sau khi bị bắt trong các trường hợp
nêu trên, người bị bắt có thể bị tạm giữ hoặc không bị tạm giữ. Tinh thần
này đã được quy định tại Điều 83 của BLTTHS. Khoản 1 Điều 83 quy
định “ Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
hoặc phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay trong thời
hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”.
Như vậy, biện pháp tạm giữ là một BPNC độc lập, việc quy áp dụng
biện pháp này phải có những căn cứ nhất định chứ không phụ thuộc vào
biện pháp bắt, nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp
ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người. Vấn đề đặt ra là khi
nào cơ quan có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ? Còn khi nào
không cần thiết tạm giữ? Do vậy nên chăng cần quán triêt mục đích của
tạm giữ trong TTHS. Mặc dù trong BLTTHS không quy định rõ mục đích
- của việc tạm giữ nhưng qua các điều luật về tạm giữ cho thấy việc tạm
giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang,
người tự thú, đầu thú là nhằm có điều kiện để tiếp tục xác minh thêm về
hành vi phạm tội của người bị bắt, người ra tự thú, đầu thú để làm rõ
thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án cũng như khởi tố bị can đối với người
họ. Tinh thần này cũng đã được thể hiện qua các quy phạm tại các Điều
như Điều 83 Điều 87 của BLTTHS. Khoản 3 Điều 87 quy định: “ Trong
khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho
người bị tạm giữ”. Như vậy sau khi bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quà tang , hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú thì
họ không thể không bị tạm giữ trong các trường hợp sau đây:
- Các cơ quan có thẩm quyền xác đinh được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc
bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ.
- Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang,
ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác
định được đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố đối với người bị bắt, người tự
thú, đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định
được ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên đã gia lện tạm giam
với bị can mà không cần tạm giữ. Hoặc ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú đã xác định
đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên cơ quan có thẩm
quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã ra quyết định khởi tố
cần thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can nên cơ
quan điều có thẩm quyền để cho bị được tại ngoại mà không cần thiết
phải tạm giam bị can.
Ngoài các trường hợp nêu trên, nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả
tang, cơ quan có thẩm quyền đã gửi lệnh bắt cho Viện kiểm sát để Viện
- kiểm sát kiểm sát việc bắt và Viện kiểm sát đã không phê chuẩn việc đó
thì cũng không được đưa ra quyết định tạm giữ đối với người bị bắt. Một
vấn đề đặt ra về đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ, đó là
những trường hợp một người đang bị truy nã, bị bắt lại nhưng địa điểm
bắt ở xa nơi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền giải quyết vụ này.
Trong thời gian thông báo cho cơ quan có thẩm quyền đến để nhận lại bi
can, bị cáo mà họ truy nã thì cơ quan đã bắt được bị can, bị cáo có quyền
ra quyết định tạm giữ hay tạm giam hay không? Về nguyên tắc thì không
một ai có thể bị bắt, giữ mà không có quyết định các cơ quan có thẩm
quyền. Theo hướng dẫn của Thông tư số 03 ngày 7/1/1995 giữa Tòa án
nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ nội vụ (nay là Bộ
công an ) có những hướng dẫn điều chỉnh như sau:
Theo quyết định tại điều 64, 65 BLTTHS năm 1988 thì cơ quan công an,
Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân bắt được hoặc nhận được người bị
truy nã thì phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt tới cơ quan điều tra
có thẩm quyền ở địa bàn đó. Sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra phải
thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết và giải ngay
người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất. Ngay sau khi nhận được thông
báo về việc đã bắt được người bị truy nã, cơ quan điều tra đã ra quyết
định truy nã phải báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã có yêu cầu truy nã
biết. Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã có trách nhiệm thực hiện theo đúng
hướng dẫn tại điểm 1 hoặc điểm 2 của Thông tư này. ( Điểm 1 và Điểm
2 của Thông tư số 03 có tinh thần chung là quy định Cơ quan điều tra nơi
bắt người bị truy nã phải tiến hành lấy lời khai của người bị bắt và sau đó
ra lệnh tạm giữ đối với bj can và giải ngay người đó đến trại giam nơi
gần nhất. Trại giam có trách nhiệm tiếp nhận và tạm giữ bị can. Trong
thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được thông báo của cơ quan điều tra về
- kết quả truy nã là đã bắt được bị can thì viện kiểm sát hoặc Tòa án đã yêu
cầu truy nã phải ra quyết định tạm giam đối với bị can và tiếp tục tiến
hành những công việc theo thủ tục chung nhằm bảo đảm việc quy định
của pháp luật ). Trong trường hợp trước ngày hết thời hạn tạm giữ ( tối
đa là 9 ngày ) mà trại tạm giam vẫn không nhận được quyết định tam
giam của Viện kiểm sát hoặc của Tòa án đã có yêu cầu truy nã đối với
người bị bắt thì trại tạm giam cần báo ngay cho cơ quan điều tra nơi đã
bắt được người bị truy nã. Ngay sau khi nhận được thông báo của trại
tạm giam, cơ quan điều tra nơi đã bắt được người bị truy nã có trách
nhiệm yêu cầu cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đến nhận ngay
người bị bắt hoặc tự mình áp giải người bị bắt đến cơ quan điều tra đã ra
quyết định truy nã.
Theo tinh thần của Thông tư số 03 nói trên thị việc tạm giữ có thể áp
dụng đối người bị bắt truy nã, tức là người có áp dụng đối với bị can, bị
cáo, người bị thi hành án mà trốn tránh, nói cách khác, đối tượng có thể áp
dụng biện pháp tạm giữ không chi là những người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang mà có thể áp dụng cả đối với
người bị bắt theo lệnh truy nã. Tất nhiên trong trường hợp này thì mục
đích của biện pháp tạm giữ là nhằm tạo điều kiện về thời gian để cơ
quan nơi đã ra lệnh truy nã đến nhận lại người bị bắt theo lệnh hoặc theo
yêu cầu truy nã của họ. Rõ ràng việc tạm giữ người trong trường hợp này
là cần thiết và vấn đề này đã được bổ sung vào trong quy định của
BLTTHS 2003.
b. Về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ.
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định “ Những người có quyền ra lệnh bắt
khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng
vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Theo khoản 2 Điều
- 86 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
thì có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm nhóm người
sau đây:
- Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp ( cơ quan điều tra
trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao… )
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương ;
người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân
bay, bến cảng.
- Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Như vậy theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở
lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận
người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy
nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội
quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ
quan thẩm quyền.
Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là
những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả
những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ
trang.
c. Về thời hạn tạm giữ
Theo Điều 87 BLTTHS, thời hạn tạm giữ không được qúa ba ngày, kể từ
khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết,
người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không được
quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có
thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng không được quá ba ngày. Mọi
- trường hợp gia hạn tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả
tự do ngay cho người đã bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ được tính vào thời
hạn tạm giam. Việc tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm tội
không có quy định khác về thời hạn tạm giữ.
Theo các quy định nêu trên, cách tính thời hạn trong TTHS đã quy định khi
tính thời hạn theo ngày tháng thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ, do vậy
trong cách tính thời han tạm giữ, thời điểm ra lệnh tạm giữ chỉ có ý nghĩa
để tính ngày bị tạm giữ chứ không có ý nghĩa tính giờ bị tạm giữ, nói cách
khác mặc dù các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ vào lúc
mấy giờ nhưng thời hạn tạm giữ chỉ hết vào lúc 24 giờ của ngày hết hạn.
Việc BLTTHS quy định hai lần có thể gia hạn tạm giữ nhằm bảo đảm
tính có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ
tràn làn, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm
giữ, do vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề
này để bảo đảm áp dụng pháp luật được tốt.
Trong quy định cũng như nhận thức về thời hạn tạm giữ cũng phát sinh
một số vấn đề đòi hỏi cần có nhận thức thống nhất. Một số vấn đề cần
giải thích kịp thời.
Thứ nhất: Theo quy định của Điều 87, thời hạn tạm giữ được tính từ thời
điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Về khái niệm chúng ta thấy
rằng, trong BLTTHS chỉ dung khái niệm Cơ quan điều tra để chỉ các cơ
quan điều tra sau: Cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát, Cơ quan điều
tra của lực lượng công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội và
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát. Nếu thời hạn tạm giữ chỉ được tính
từ khi “cơ quan điều tra” nhận người bị bắt thì sẽ phát sinh hiện tượng có
những cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ ( như chỉ
- huy đơn vi quân đội độc lập cấp trung đoàn, người chỉ huy đồn biên
phòng ở hải đảo và biên giói, người chỉ huy máy bay, tàu bay trên biển khi
máy bay tàu biển đã rời khỏi sân bay bến cảng ) nhưng quyết định tạm
giữ của những cơ quan và những người đó lại không được tính thời hạn,
quyết định tạm giữ của họ chỉ bắt đầu khi họ được giao người bị bắt và
và bị tạm giữ đó cho “Cơ quan điều tra” có thẩm quyền. Như vậy ở đây
phát sinh hiện tượng có cơ quan ra quyết định tạm giữ, có người bị tạm
giữ nhưng quyết định tạm giữ của họ không được pháp luật điều chỉnh
về mặt thời hạn. Quy định như Điều 87 BLTTHS 1988 rõ ràng mới chỉ
điều chỉnh thời hạn tạm giữ của một trong bốn nhóm người có thẩm
quyền ra quyểt định tạm giữ chứ chưa bao quát hết cả bốn nhóm người ra
quyết định tạm giữ.
Thứ hai: Khoản 4 Điều 87 quy định thời hạn tạm giữ được tính vào thời
hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
Quy định này có mục đích nhân đạo, do vậy cho phép nếu sau đó người bị
tạm giữ bị khởi tố bị can và họ tạm giam thì được trừ đi thời hạn họ đã bị
tạm giữ vào thời hạn tam giam. Tuy nhiên sau này, nếu như người phạm
tội bị Tòa án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép
trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt
tù. Điều 33 BLHS 1999 quy định “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ
vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam
bằng một ngày tù”. Đây là quy định mới rõ ràng hơn của so với BLHS năm
1985. Do vậy việc áp dụng luật cần được quán triệt để áp dụng đúng
luật.
d. Về thủ tục tạm giữ
BLTTHS quy định muốn tạm giữ người phải có quyết định của người có
thẩm quyền. Quyết định này không đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của
- VKS trước khi thi hành. Trong thời hạn 12 giờ, quyết định này phải được
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do
tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một
bản.
Căn cứ những quy định tại Điều 86 BLTTHS và xuất phát từ thực tiễn áp
dụng BPNC tạm giữ, đó là trên thực tế đã phát sinh thêm một số đối
tượng như: những người đang bị truy nã khi bị bắt, người phạm tội ttự
thú, đầu thú cũng cần phải tạm giữ để chờ xử lý, và cũng phát sinh thêm
một loại chủ thể cần có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, đó là chỉ huy
trưởng vùng cảnh sát biển, cũng như nghiên cứu về thẩm quyền, thủ tục,
mục đích tạm giữ thì có thể đưa ra khái niệm về BPNC này như sau:
“Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, do cơ quan và
người có thẩm quyền theo pháp luật áp dụng đối với những người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc người
đang bị truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú nhằm ngăn chặn tội
phạm, tạo điều kiện cho việc xử lý tội phạm được chính xác cao kịp
thời”
Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp
sau đây:
- Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường hợp
khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không
phải là người phạm tội tự thú, đầu thú.
- Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã
hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhỉệm hình sự:
- Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc
phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ
ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở công việc điều tra.
- Vậy khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 đã bổ sung quy định chỉ huy trưởng
vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.
2. Những bất cập còn tồn tại trong việc quy định về biện pháp tạm giữ
trong BLTTHS 2003
Tuy BLTTHS 2003 đã có sửa đổi bổ sung rất nhiều so với BLTTHS 1988,
và đã có sự chặt chẽ hơn. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy định về
biện pháp tạm giữ vẫn còn nhỉều bất cập, đã gây không ít khó khăn cho
những hoạt động áp dụng các quy định trên.
a. Về đối tượng bị áp dụng đối với biện pháp tạm giữ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 thì tạm giữ có thể áp
dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Mà như chúng ta đã biết,
người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà
họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là
người bị bắt. Chính vì vậy, việc khoản 1 Điều 86 quy định “Tạm giữ có
thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt
theo quyết định truy nã”. Vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu
thú là người bị bắt, điều này là không hợp lý.
b. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ:
Theo khoản 2, Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “những người có quyền ra
lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2, Điều 81 của bộ luật này. Chỉ huy
trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ”
Việc điều luật quy đinh bổ sung thêm thẩm quyền ra lệnh tạm giữ cho
Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển . Điều này là hoàn toàn hợp lý. Xuất
phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng cảnh sát
biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì Thủ
trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Tuy nhiên, hiện tại
pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát
- biển có thẩm quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với
những đối tượng nào? Chính vì vậy, về lý luận cũng như trong thực tế áp
dụng còn vướng mắc, cần sự quy định rõ ràng.
c. Về thời hạn tạm giữ
Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “ thời hạn tạm giữ không
được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt”
Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ
không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người
trái pháp luật thì thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ
khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị
bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn còn
nhiều vướng mắc
Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm
giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định
tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người
phạm tội tự thú, đầu thú. Và như chúng ta đã biết người phạm tội tự thú
đầu thú không phải là người bị bắt mà họ tự nguyện trình diện, khai báo
hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt. Vậy câu hỏi đặt ra ở
đây là : thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Điều
này chưa được pháp luật quy định.
Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm
giữ không được quá ba ngày. Vậy câu hỏi đặt ra là từ “ngày” trong cụm từ
“ba ngày” được hiểu như thế nào? Có bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ
hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này chưa có quy định rõ , cần có sự quy định
rõ ràng hơn.
Thứ ba: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ
không được quá ba ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
- Điều này có nghĩa là thời điểm tạm giữ được tính từ ngày cơ quan điều
tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại điểm C, Điều 81 BLTTHS thì;
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến
cảng mới có quyền ra lệnh bắt trong trường hợp khần cấp, và có quyền
ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS. Tuy nhiên câu hỏi
đặt ra là : Trong trường hợp tàu bay thì có thể kịp thời hạn để giao hạn để
giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra, nhưng trong một số trường
hợp tàu biển thì khó có thể về kịp thời hạn để giao người bị tạm giữ cho
cơ quan điều tra. Vậy trong trường hợp này thời hạn tạm giữ sẽ được
tính như thế nào? Điều này chưa được luật quy định.
d. Về gia hạn tạm giữ
Theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS quy định: “ trường hợp cần thiết, người
ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không được quá 3
ngày; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia
hạn tạm giữ hai lấn nhưn không được quá 3 ngày…”
Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều tra có hiệu quả hơn. Tuy
nhiên luật cần nêu rõ: Trong trường hợp cần thiết đề ra quyết định tạm
giữ là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Do luật chưa có quy
định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng
không thống nhất quy đinh nảy trong việc gia hạn tạm giữ.
Mặt khác cần quy định rõ hơn “ trong trường hợp đặc biệt, người ra
quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhưng không được quá
ba ngày” . Nếu quy định như trên thì nên hiểu “ hai lần” mỗi lần không
được quá ba ngày hay nên hiều “ hai lần” nhưng tổng thời gian hai lần đó
là không quá ba ngày? Trong thực tế sẽ có nhỉều người hiểu sai lệch quy
định của luật. Do vậy chúng ta cần có quy định rõ hơn.
e. Việc trả tự do cho người bị tạm giữ
- Theo khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “ trong khi tạm giữ, nếu
không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ.”
Việc luật quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ
căn cứ khởi tố bị can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy
định về thẩm quyền trả tự do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ.
Do đó đặt ra câu hỏi là: trong trường hợp người phải trả tự do cho người
bị tạm giam thì ai có thẩm quyền trả tự do cho họ? Phải chăng là những
người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng
là người có thẩm quyền ra lệnh trả tự do cho người tạm giữ hay là một
chủ thể khác. Và thủ tục trả tự do luật cần có quy định rõ.
nguon tai.lieu . vn