Xem mẫu
- Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một hình thức của kinh tế thị trường.
Do đó, trong nền kinh tế cũng sẽ bao hàm nhiều hình thức sở hữu như các nền
kinh tế thị trường khác. Tuy nhiên, cơ cấu các hình thức sở hữu ở nước ta và vị
trí của mỗi hình thức sở hữu trong cơ cấu đó sẽ có những khác biệt với các nước
khác
1. Sở hữu trong nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất
định của văn minh nhân loại. Phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định, nền
sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư
thừa để trao đổi. Một trong những điều kiện để xuất hiện trao đổi là tính chất tư
nhân của sản xuất, tức là những người sản xuất độc lập với nhau, sản xuất cái
gì, sản xuất thế nào, cho ai là việc riêng của từng “người sản xuất”. “Người sản
xuất” cần được hiểu theo nghĩa rộng. “Người sản xuất” có thể là cá nhân, hợp
tác xã, công ty tư nhân, doanh nghiệp nhà nước... Điều quan trọng nhất chính là
những “người” này độc lập với nhau.
Cuối chế độ công xã nguyên thủy, khi sản phẩm thặng dư xuất hiện, bắt đầu có
quan hệ trao đổi giữa các công xã với nhau. Như vậy, trong lịch sử, người sản
xuất và trao đổi đầu tiên xuất hiện lại là các công xã nguyên thủy. Những
“người” này dựa trên sở hữu công xã (thuộc sở hữu công cộng) về tư liệu sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển, sản phẩm thặng dư nhiều hơn,
những cá nhân có quyền lực trong công xã bắt đầu chiếm hữu những sản phẩm
dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu dần xuất hiện. Tuy nhiên, chế độ tư
hữu trong chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến không hề làm cho sản
xuất hàng hóa phát triển. Điều đó cho thấy, không phải cứ có chế độ tư hữu là
quan hệ trao đổi hay kinh tế hàng hóa có thể phát triển.
Đến CNTB, lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội có sự phát triển
nhanh chóng. Hai điều kiện cho sự hình thành, phát triển của sản xuất hàng hóa
được thiết lập nhanh chóng và đầy đủ đã làm cho sản xuất hàng hóa phát triển
đặc biệt nhanh chóng, nền kinh tế thị trường TBCN xuất hiện: Đây được coi là
nền kinh tế thị trường phát triển cao, tiêu biểu, chín muồi.
Cũng cần nhớ rằng, trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, sở hữu tư nhân giữ
vai trò thống trị tuyệt đối và là động lực quan trọng cho sự phát triển của nền
sản xuất TBCN. Nhưng đến khi tích tụ và tập trung sản xuất đạt đến trình độ
cao, chỉ có sở hữu tư nhân cũng không đáp ứng được yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất. Điều đó thể hiện ở hai cuộc đại khủng hoảng của CNTB xảy ra
vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Một biến đổi quan trọng của sở hữu xuất
- hiện: một bộ phận sở hữu tư bản tư nhân chuyển thành sở hữu tư bản tập thể.
Các tổ chức độc quyền hình thành và phát triển với trình độ ngày càng cao. Khi
lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển, sở hữu cá thể, tiểu chủ hữu tư bản tư
nhân và sở hữu tư bản tập thể cũng là không đủ. Từ nửa cuối thập niên ba mươi
của thế kỷ XX, sở hữu nhà nước ở các nước TBCN phát triển hết sức nhanh
chóng và trở thành công cụ quan trọng để điều tiết nền kinh tế thị trường.
Như vậy, quá trình phát triển của kinh tế thị trường cũng là quá trình vận động
phát triển của các hình thức sở hữu: Trong nền kinh tế thị trường hiện đại,
“Người sản xuất” có nhiều loại, có tư hữu và có cả công hữu. Nói cách khác,
nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại, bao gồm cả sở hữu tư nhân, cả sở hữu công
cộng, trong đó khu vực sở hữu nhà nước trở thành công cụ quan trọng để điều
tiết nền kinh tế.
2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN và vấn đề sở hữu
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một hình thức của kinh tế thị trường.
Do đó, trong nền kinh tế cũng sẽ bao hàm nhiều hình thức sở hữu như các nền
kinh tế thị trường khác. Tuy nhiên, cơ cấu các hình thức sở hữu ở nước ta và vị
trí của mỗi hình thức sở hữu trong cơ cấu đó sẽ có những khác biệt với các nước
khác. Điều đó do những nhân tố sau đây quy định.
a) Nhân tố chính trị.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đang xây dựng
CNXH. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế thị trường
được sử dụng để xây dựng CNXH. Do đó, sự vận động, phát triển của nền kinh
tế thị trường này bị chi phối bởi việc thực hiện mục tiêu CNXH. Điều này xuất
phát từ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Mặc dù kinh tế quyết định chính trị
nhưng chính trị lại tác động mạnh mẽ đến kinh tế. Nếu các quyết sách của Nhà
nước (chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách...) được thực hiện trong thời
gian dài sẽ làm cho nền kinh tế biến đổi tích cực (nếu quyết sách đúng) hoặc tiêu
cực (nếu quyết sách sai). Như vậy, đường lối phát triển theo con đường XHCN
sẽ làm cho nền kinh tế thị trường ở Việt Nam khác với các nước khác.
CNXH có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau nhưng về bản chất, CNXH
phải là sản xuất phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không
ngừng được nâng cao, là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Những mục tiêu trên chỉ có thể được thực hiện thông qua hoạt động tự
giác, năng động của con người (nếu để tự phát có thể không thực hiện được,
thực hiện không trọn vẹn, mất nhiều thời gian, thậm chí phải trả giá rất đắt...).
Vì thế, để thực hiện mục tiêu CNXH, Đảng và Nhà nước sẽ phát huy năng động
chủ quan để khai thác những ưu việt của kinh tế thị trường, hạn chế những
- nhược điểm của chúng, để rút ngắn thời gian phát triển. Muốn vậy, Nhà nước
phải sử dụng các công cụ vật chất. Một trong những công cụ đó là kinh tế nhà
nước. Do vậy, sở hữu nhà nước (một hình thức của chế độ sở hữu công cộng)
có vai trò rất quan trọng trong kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điều này
cũng không có khác biệt lớn với sở hữu nhà nước ở nhiều nước khác.
Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” còn đòi
hỏi mọi người phải được tự do sử dụng và phát huy các tiềm năng của mình. Nói
cách khác, người dân phải được tự do kinh doanh những gì luật pháp không cấm.
Vì thế, sự tồn tại và phát triển của những hình thức sở hữu như cá thể, tiểu chủ,
tư bản tư nhân, tư bản tập thể... là tất yếu và cần thiết cho việc thực hiện mục
tiêu CNXH. Như vậy, kinh tế thị trường định hướng XHCN phải dựa trên nhiều
hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu nhà nước.
b) Nhân tố kinh tế
Cơ cấu các hình thức sở hữu ở nước ta không chỉ do định hướng chính trị chi
phối, mà còn được chi phối bởi nhân tố kinh tế trong và ngoài nước. Hơn thế,
đây mới là nhân tố giữ vai trò quyết định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định sự vận
động biến đổi của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất.
Từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, điểm xuất phát
của đất nước ta rất thấp. Do đó, các hình thức sở hữu tư nhân vẫn phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nên có những đóng góp to lớn cho việc
phát triển sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống dân cư. Thực tế cho thấy,
việc hạn chế, cấm đoán các hình thức sở hữu tư nhân trong thời kỳ trước đổi
mới là vi phạm các quy luật kinh tế khách quan và phải trả giá đắt. Như vậy, sự
tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân không chỉ là tất yếu về kinh tế, mà còn xuất
phát từ chính yêu cầu của công cuộc xây dựng CNXH.
Trong điều kiện lực lượng sản xuất thấp kém, chế độ sở hữu công cộng chưa có
tất yếu kinh tế để tồn tại và phát triển. Vì thế, khi nền kinh tế thị trường còn ở
trình độ thấp, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể càng chiếm tỷ trọng lớn sẽ
càng kém hiệu quả. Thực tiễn Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đã minh
chứng cho điều đó. Ở Việt Nam đã có thời kỳ chế độ sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất chiếm tỷ trọng tuyệt đối nhưng vẫn không có CNXH. Điều đó
không chỉ cho thấy rằng, xây dựng chế độ sở hữu tư liệu sản xuất không thể
xuất phát từ ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người, mà còn cho thấy chế
độ sở hữu công cộng không phải là mục tiêu, mà chỉ là phương tiện để xây dựng
CNXH.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và thế giới là tất yếu với các
- quốc gia. Cạnh tranh là quy luật khắc nghiệt mà chúng ta phải chấp nhận. Để
tồn tại và phát triển, tiêu chí hàng đầu phải đáp ứng không phải là công hữu hay
tư hữu mà là hiệu quả. Do đó, coi trọng hiệu quả là yêu cầu sống còn không chỉ
với doanh nghiệp, mà với cả nền kinh tế.
Ngoài những nhân tố nêu trên, chế độ sở hữu còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch
sử, truyền thống, tâm lý, tập quán... của mỗi dân tộc. Do đó việc tùy tiện thiết
lập một hình thức sở hữu nào đó mà không tính đến những nhân tố trên đây sẽ
phải trả giá.
3. Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Sự tồn tại đồng thời sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam đến nay không còn phải bàn cãi. Tuy
nhiên, hình thức sở hữu nào là chủ đạo, là động lực... thì chưa phải đã nhận
được sự đồng thuận rộng rãi.
Những phân tích trên đây cho thấy có nhiều nhân tố tác động đến sở hữu công
cộng và sở hữu tư nhân theo những chiều hướng khác nhau. Sở hữu công cộng
dưới hình thức kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể rất cần thiết cho việc định
hướng nền kinh tế lên CNXH. Nhưng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ở Việt
Nam lại chưa có cơ sở kinh tế vững chắc để phát triển, hiệu quả còn rất thấp.
Ngay tại thời điểm này, không ít doanh nghiệp nhà nước vẫn hoạt động không
hiệu quả, thậm chí thua lỗ. Do đó, nếu tỷ trọng của kinh tế nhà nước càng lớn
thì hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế càng thấp. Vì thế về nguyên tắc,
những doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả cần được xem xét để
chuyển sang các hình thức tổ chức sản xuất khác.
Nhưng định hướng XHCN lại đòi hỏi kinh tế Nhà nước phải là công cụ để nhà
nước điều tiết nền kinh tế. Nếu thị trường bị đầu cơ, giá cả hàng hóa tăng cao
ảnh hưởng xấu đến đời sống người dân là trái với việc thực hiện định hướng
XHCN. Nhà nước không kiểm soát được thị trường thuốc tân dược do các doanh
nghiệp dược phẩm nhà nước không đủ sức chi phối thị trường là bài học đắt giá.
Những cơn “sốt” xi măng, sắt thép... cho thấy sự yếu kém của khu vực kinh tế
nhà nước ảnh hưởng xấu đến sản xuất, đến định hướng XHCN như thế nào.
Một minh chứng khác về sự cần thiết của các doanh nghiệp nhà nước là khi
“sốt” gạo xảy ra, nhờ các công ty lương thực nhà nước tung hàng hóa ra bán, thị
trường lương thực nhanh chóng được kiểm soát, xã hội giữ được ổn định. Hiện
nay, cần chống định kiến xấu với kinh tế tư nhân, nhưng cũng cần chống định
kiến xấu với kinh tế nhà nước. Những doanh nghiệp nhà nước hoạt động có
hiệu quả cần được duy trì và tạo môi trường thuận lợi để phát triển hơn nữa.
Việc xây dựng mới các doanh nghiệp nhà nước cũng phải thực hiện theo nguyên
tắc này.
- Từ những phân tích trên đây có thể rút ra kết luận: chỉ nên thiết lập sở hữu công
cộng ở các lĩnh vực kinh tế then chốt, giữ vai trò quan trọng với quốc kế, dân
sinh. Các lĩnh vực kinh tế then chốt có thể là: lương thực, thuốc chữa bệnh, ngân
hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, đường sắt, hàng không, điện lực, khai
thác mỏ... Ngay trong các lĩnh vực này, kinh tế nhà nước cũng không nhất thiết là
chiếm tỷ trọng tuyệt đối. Sự xuất hiện của sở hữu tư nhân vừa góp phần huy
động và sử dụng các nguồn lực, vừa tạo quan hệ cạnh tranh, thúc đẩy khu vực
sở hữu công cộng nâng cao hiệu quả.
Do lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, các lĩnh vực kinh tế thông thường,
kinh tế tư nhân phải là giữ vai trò thống trị mới đảm bảo hiệu quả (đương nhiên
là Nhà nước phải quản lý). Trong các lĩnh vực này, sở hữu công cộng muốn
chứng minh được sức sống và ưu thế của mình phải dựa trên quan hệ cạnh tranh
trên thị trường một cách công bằng, chứ không phải là dựa vào sự hỗ trợ của
Nhà nước, càng không phải là bằng biện pháp hành chính. Cơ cấu các hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất sẽ thay đổi tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Giải quyết quan hệ giữa sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân trong nền kinh tế
thị trường được đặt ra cho tất cả các quốc gia. Tùy theo đặc thù mỗi nước, việc
giải quyết quan hệ này có thể khác nhau. Nền kinh tế thị trường Việt Nam phát
triển định hướng XHCN nên việc giải quyết quan hệ giữa sở hữu công cộng và
sở hữu tư nhân phải xuất phát từ những đặc điểm riêng của mình, nhưng không
được vi phạm các quy luật chung, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất./.
nguon tai.lieu . vn