Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017
Vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật
nhìn từ phương diện nội dung
Feminist issues in Nguyen Trieu Luat’s novels viewed from their content
CN. Bùi Thị Hoàng Phúc
Trường Đại học Sài Gòn
Bui Thi Hoang Phuc, B.A.
Saigon University
Tóm tắt
Trong những năm qua, phê bình nữ quyền đã được vận dụng vào việc nghiên cứu văn học ở Việt Nam
và thu được những thành quả bước đầu. Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về thế giới
nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật nhưng chưa có công trình nào tập trung đi sâu khảo sát hệ
thống nhân vật người phụ nữ và vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết của nhà văn. Bài báo với mong muốn
dưới góc nhìn phê bình nữ quyền tìm hiểu nội dung tư tưởng của Nguyễn Triệu Luật khi thể hiện những
vấn đề nữ quyền trong các tiểu thuyết của nhà văn, góp phần vào việc đánh giá những đóng góp của nhà
văn đối với một vấn đề có ý nghĩa xã hội.
Từ khóa: Nguyễn Triệu Luật, nữ quyền, phê bình nữ quyền, tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử.
Abstract
Feminism being adapted to literary criticism in Vietnam has gained some achievements in recent years.
Novels by writer Nguyen Trieu Luat have drawn much attention from readers and critiques, but the
female characters and issues of feminism in his novels have not received any comprehensive analysis so
far. This article, from the view of feminist criticism, studies Nguyen Trieu Luat’ thought concerning
feminist issues, which helps to evaluate his contribution as a writer to social issues.
Keywords: Nguyen Trieu Luat, feminism, feminist literary criticism, novel, historical novel.
1. Lí thuyết nữ quyền và các vấn đề Làn sóng thứ nhất là từ thế kỉ XVIII
nữ quyền trong văn học Việt Nam đến nửa đầu thế kỉ XX được xem như giai
1.1. Vấn đề nữ quyền và phê bình đoạn của nữ quyền khởi thủy với mục đích
nữ quyền tôn chỉ “bình đẳng giới trên các phương
1.1.1. Vấn đề nữ quyền diện: chính trị, xã hội và hôn nhân gia
Nói đến vấn đề nữ quyền, không thể đình” [6, tr.19-20]. Tên tuổi tiêu biểu cho
nói đâu khác ngoài cái nôi của phong trào làn sóng này là nhà nữ quyền Marie-
này – Pháp và ba làn sóng thể hiện sự Olympe de Rouges – tác giả của Bản tuyên
hình thành cho đến phát triển mạnh mẽ ngôn về quyền của phụ nữ và công dân,
của những người phụ nữ tiêu biểu nơi được xem là bản tuyên ngôn về nhân quyền
đây. Cụ thể: của phụ nữ.
108
- BÙI THỊ HOÀNG PHÚC
Làn sóng thứ hai là những thập niên 60 hướng nghiên cứu khác như: Trần thuật
– 70 giữa thế kỉ XX “hướng cuộc đấu tranh học nữ quyền, phân tâm học nữ quyền, nữ
vào những phương diện cá nhân của phụ quyền hậu thuộc địa. Sự kết hợp này sẽ
nữ như: quyền thân thể, vấn đề tình dục, mở ra những biên độ khác nhau cho việc
sinh sản, nạo thai” [6, tr.30]. Nổi bật nhất nghiên cứu nữ quyền trong văn học”
phải kể đến là tác giả của tác phẩm được [6, tr.272]. Trên thế giới, tiêu biểu nhất là
xem như bản tuyên ngôn nữ quyền – Giới hai trường phái phê bình văn học: phê
thứ hai – Simone de Beauvoir. bình văn học nữ quyền Pháp và phê bình
Làn sóng thứ ba là quá trình diễn ra từ văn học nữ quyền Anh – Mĩ.
đầu những năm 80 cho đến nay. Những tên 1.2. Vấn đề nữ quyền trong văn học
tuổi hoạt động vì quyền lợi của phụ nữ Việt Nam
xuất hiện ngày càng nhiều và hoạt động sôi 1.2.1. Nữ quyền trong văn học truyền thống
nổi trong hầu hết lĩnh vực mà họ tham gia Trong văn học dân gian, đặc biệt trong
như: nhà nữ quyền Hélène Cixous – tác giả tình cảm, nữ quyền nếu có chỉ dừng ở mức
cuốn Tiếng cười của nàng Méduse, nhà phê độ những tâm tư, tình cảm buồn, nhớ,
bình nữ quyền Julia Kristeva với tác phẩm thương, đợi chờ của thân phận người phụ
Nữ thiên tài... nữ, thường ít khi táo bạo như nam giới mà
Nhìn chung, tinh thần cốt lõi của ý nhị và đôi khi là giấu ngôi. Tuy nhiên,
phong trào nữ quyền chính là “tinh thần đôi khi, vẫn có những trường hợp cá biệt,
hiện sinh và chịu trách nhiệm hiện sinh của người con gái thể hiện rất mạnh mẽ sự
nhân loại nói chung và phụ nữ nói riêng là quyết tâm của mình trong tình cảm, một
vấn đề đáng lưu tâm nhất: dám sống, dấn điều mà ngày xưa được xem là “lạ lùng”
thân, nhưng phải chịu trách nhiệm về hành trong xã hội: “Đi đâu cho thiếp đi
động của mình trước xã hội” [6, tr.45]. cùng/Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp
Phong trào tại Pháp lan tỏa, phụ nữ trên cam” [4, tr.55].
toàn thế giới như tìm được tiếng nói chung Trong văn học trung đại Việt Nam,
dù có sự khác biệt về văn hóa; tất cả cộng họa hoằn ta thấy có một vài tác giả nam
hưởng, góp phần đẩy phong trào lên một đứng ngoài luồng tư tưởng Nho giáo, trân
tầm cao mới, mạnh mẽ hơn, sâu rộng hơn, quý những gì người phụ nữ trong xã hội đã
ý nghĩa hơn, tất cả đều hướng đến quyền tự làm và xót thương cho số phận của họ.
do hạnh phúc của phụ nữ trên toàn thế giới Như Tú Xương thương vợ vì mình vất vả
nói riêng và con người nói chung. và tự trách thân: “Có chồng hờ hững cũng
1.1.2. Trường phái phê bình văn học như không!” [8, tr.111]. Dù ít nhưng không
nữ quyền phải không có những tác giả nữ thực thụ
Vào những năm 60, theo quan niệm góp phần làm đa dạng văn chương trung
của Simone de Beauvoir về một trong ba đại Việt Nam. Và tuy ít, nhưng những tác
phương diện phụ nữ được quyền hoạt giả này lại vô cùng xuất chúng với những
đồng là văn học thì sáng tạo nghệ thuật cá tính riêng và để lại cho đời những tác
vẫn có thể là của phụ nữ nếu họ có đam phẩm văn học xuất sắc, giá trị nội dung lẫn
mê sáng tạo nghệ thuật. Riêng “Phê bình nghê thuật cao. Những tên tuổi nổi bật phải
nữ quyền là một hướng nghiên cứu mở, kể đến là Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân
cho phép chúng ta kết hợp các khuynh Hương, Bà Huyện Thanh Quan... Tuy
109
- VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRI U LUẬT NHÌN TỪ PHƯƠNG DI N N I DUNG
nhiên, không phải tác giả nữ nào cũng sáng cái thời ăn ngon mặc đẹp là xấu xa, ngủ với
tác về số phận người phụ nữ. Nếu như nói chồng thấy thích là tội lỗi” [1, tr.246]. Tuy
người khởi xướng cho phong trào nữ quyền nhiên, bên cạnh những thành tựu thì còn có
Việt Nam, thì có thể khẳng định rằng Hồ những vấn đề được đặt ra, trên con đường
Xuân Hương là đại diện tiêu biểu. Vì dù tiếp thu và phát triển, hòa nhập nhưng
sống trong một xã hội phong kiến hà khắc không hòa tan, nên có sự cảm thụ sâu sắc
chỉ coi trọng nam giới, tác giả vẫn xuất sắc tinh thần nữ quyền từ phương Tây, cộng
thể hiện tài năng và bản lĩnh của mình, tạo với sự tỉnh táo trong tư duy và đặt trong
nên một giá trị thời sự không chỉ trong văn bối cảnh nền văn hóa xã hội Việt Nam thì
học mà còn có ý nghĩa xã hội to lớn. Ta nhiệt huyết của tinh thần nữ quyền trong
không thể quên sự khẳng định tài năng và văn học Việt Nam sẽ được thể hiện chín
giá trị bản thân nếu không phải sống trong chắn hơn, tránh sự công kích quá đà, phủ
một xã hội bất công, thiên về nam giới nhận nam giới hoặc lệch lạc theo một xu
trong bài thơ Đề đền Sầm Nghi: “Ví đây hướng phản cảm nào đó.
đổi phận làm trai được,/ Thì sự anh hùng 1.2.3. Thành tựu nghiên cứu của
há bấy nhiêu!” [7, tr.409]. phê bình nữ quyền ở Việt Nam
1.2.2. Nữ quyền trong văn học hiện đại Nhìn chung, so với nền văn học Pháp,
Kể từ khi hình thành nên nền văn học phê bình nữ quyền ở Việt Nam chỉ dừng ở
hiện đại, với sự xuất hiện của chữ Quốc mức manh nha và mới phát triển, chưa thật
ngữ và các học thuyết, tư tưởng sáng tác sự được quan tâm sâu sắc và đúng mực, về
của phương Tây, nữ quyền trong văn học phạm vi lẫn chiều sâu nghiên cứu: “phạm
hiện đại Việt Nam như một người khát tìm trù mỹ học tính dục – từ góc nhìn nữ giới
được nguồn nước mát. Trong hoạt động chưa được các tác giả tường minh sâu sắc”
văn học, từ nền tảng thành tựu của nữ [6, tr.12] và “Ở Việt Nam, việc nghiên cứu
quyền trong văn học Việt Nam hiện đại nữ quyền chỉ mới đóng khung ở “làn sóng
trước năm 1986, những nhà văn nữ sinh thứ hai”. Đặc biệt, vấn đề diễn ngôn chấn
trưởng trong giai đoạn sau chiến tranh và thương trong mối hệ lụy với phạm trù trinh
sau Đổi mới, với ảnh hưởng sâu sắc từ tiết và phẩm tiết chưa được giới nghiên cứu
phương Tây, thể hiện nhiều bứt phá chưa quan tâm” [6, tr.276].
từng có hoặc khá tạo bạo về nội dung và 1.3. Nguyễn Triệu Luật và các
nghệ thuật để thể hiện hết cái tôi, tinh thần tiểu thuyết
nữ quyền mạnh mẽ của mình qua các tác Nguyễn Triệu Luật sinh năm 1903 và
phẩm như: “Tại sao cái cảm xúc này lại mất năm 1946, quê ở làng Du Lâm, huyện
luôn bị che giấu. Một người có thể nói to Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay
trước đám đông, tôi căm thù tội ác dã man, thuộc Đông Anh, Hà Nội); được đánh giá
tôi yêu thương con trẻ, tôi đau xót đồng là một nhà giáo tận tâm, một nhà yêu nước
bào tôi bị thiên tai. Chẳng có người nào hiện đại và một nhà sử học viết tiểu thuyết.
dám nói trước đám đông rằng, tôi ngủ với Trong quá trình sáng tác tác, Nguyễn
chồng tôi rất khoái... Tất nhiên đó là cảm Triệu Luật để lại cho nền văn học hiện đại
xúc riêng tư không cần phải nói trước đám Việt Nam tám tiểu thuyết, đó là: m đựng
đông. Nhưng cũng không thể nói rằng đó là người, à h a ch , h a Trịnh hải,
cảm xúc xấu xa, tội lỗi được chứ. Qua rồi oạn kiêu binh, gược đường Trường thi,
110
- BÙI THỊ HOÀNG PHÚC
n báo oán, Thiếp chàng đôi ngả, ốn 2. Nội dung
con yêu và hai ông đồ cùng một số công 2.1. Những đề tài về số phận của
trình văn học và sử học, báo chí các đề tài người phụ nữ
khoa học xã hội, ngôn ngữ, dịch thuật... Trước hết, tinh thần nữ quyền được thể
Riêng về tám tiểu thuyết được phổ hiện qua đề tài về số phận người phụ nữ.
biến nhất hiện nay của Nguyễn Triệu Luật, Số phận người phụ nữ phong kiến trải dài
được gọi là tiểu thuyết lịch sử. Quan niệm từ chốn cung đình cung cấm cho đến nơi
của nhà văn: “Viết “lịch sử tiểu thuyết” làng quê thôn dã hay trong những biến
(roman historique) không cần theo phép động lịch sử, đều mang một màu trầm buồn
của sử học, không cần có sự thật. Tác giả cay đắng.
chỉ phải tưởng tượng ra một chuyện “có thể Tiểu thuyết m đựng người, một tiểu
có” ở một thời đại, rồi đem chuyện ấy lờng thuyết gần như là tấn bi kịch số phận người
vào khung thời đại ấy. Mục đích là lấy một phụ nữ trong chốn cung đình cung cấm.
chuyện không đâu mà làm sống một thời Nhà văn mỉa mai cho cái ý tưởng xây lăng
đại. Những tiểu thuyết “Notre-Dame de để hưởng cuộc sống sung sướng khi về bên
Paris”, “Quatre-vingt-treize” của Victor kia thế giới của các vị vua, ngọc vàng cung
Hugo, “Les filles d’autrefois” của Léon điện không kể mà ngay cả cung tần mĩ nữ
Daudet, đều là bịa đặt, nhưng đọc truyện đang sống cũng phải đi theo hầu hạ, đấy có
đó, ta thấy cả thời đại hồi vua Louis và hồi khác gì là “chôn sống”. Nguyễn Triệu Luật
Đại Cách Mệnh sống lại” [3, tr.5]. không tránh né, mà nói thẳng, nói thật
Nguyễn Triệu Luật đã chọn một thể những vấn đề mà mình suy nghĩ. Mỉa mai
loại văn học tương đối khó, lại chọn những xong, nhà văn quay sang chua xót cho thân
giai đoạn không mấy êm đẹp trong lịch sử phận những cung tần mĩ nữ ấy, già có, trẻ
Việt Nam làm đề tài, và chọn một trong có, thậm chí cả rất trẻ, người đã hưởng
những vấn đề ít ai nói đến vào thời kì lịch phúc cả tuổi xuân, người chỉ vừa bỡ ngỡ,
sử mà ông viết hay vào chính giai đoạn mà người chưa hề biết được mặt vua... Tất cả
ông sống là vấn đề về người phụ nữ để tạo tề tựu về chốn này với cùng một kết thúc:
nên những tiểu thuyết vĩ đại. Nữ quyền “Dưới những cây cao ngất, bóng tối che hồ
trong các tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật khắp các đài tạ, ở một nơi tĩnh mịch đầy
trong phạm vi bài báo này được nghiên cứu khí chết, lũ cung nữ, trắng toát cúi đầu sắp
trên phương diện nội dung. Thông qua các hàng từ từ tiến bước, nom tựa một lũ oan
tác phẩm, Nguyễn Triệu Luật chọn những hồn hiện lên muốn đến tận nhà mồ kêu oan
đề tài nói lên số phận của người phụ nữ từ cùng ông vua nằm dưới kia, xác thịt đã sắp
chốn cung đình, cung cấm đến nơi làng tiêu mà còn dìu đến Sơn lăng một đoàn
quê, thôn dã và trong những biến động lịch cung nga thể nữ” [3, tr.15]. Những cung nữ
sử. Bên cạnh đó, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp tuổi xế chiều có, tuổi xuân sắc có, đều ít
thể chất, tâm hồn, nghị lực, trí tuệ và bản nhiều là những hương sắc được tuyển
lĩnh của họ. Từ đó, nhà văn tố cáo, lên án chọn, dù còn sống nhưng lại được tác giả
xã hội đen tối, bất công chà đạp người phụ miêu tả như những hồn ma di động vật vờ
nữ, cất lên tiếng nói đòi quyền bình đẳng trong Sơn lăng. Tên chương II “Đã tội tình
trong tình yêu, hôn nhân và trong đời sống, gì?” và sự uất ức tưởng như muốn “đến tận
xã hội cho họ. nhà mồ kêu oan” như một câu hỏi lớn mà
111
- VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRI U LUẬT NHÌN TỪ PHƯƠNG DI N N I DUNG
không có câu trả lời về số phận của những bệnh nặng, cuộc sống xa hoa sung sướng
người cung tần mĩ nữ chốn nội cung ấy nói không bằng những nỗi âu lo trong nàng:
riêng và của những người phụ nữ trong xã “Là vợ con thường dân thì dễ” [3, tr.145].
hội bấy giờ nói chung tại sao lại chịu đựng Câu nói như một sự đúc rút mà họ – những
nhiều bất công như vậy! Phải chăng chỉ vì người trong chốn nội cung ý thức được và
sinh ra trót là phụ nữ! chấp nhận đánh đổi hoặc như ngỡ ngàng
Hình ảnh xuất phát điểm của Bà Chúa nhận ra trong sự muộn màng. Và cuộc đời
chè Đặng Thị Huệ trong tiểu thuyết Bà họ mong manh theo sự biến động của chế
Chúa chè là hình ảnh rõ ràng nhất cho độ xã hội, theo các triều đại vua chúa: “Là
những người phụ nữ nơi làng quê, thôn dã vợ con thường dân thì dễ, chứ là vợ con
thời vua Lê chúa Trịnh: “- Trời ơi! Tôi mới vua thì chỉ có: một là mẹ thái phi, con là
mười lăm tuổi đầu, sao trời đã đày cơ cực vua; hai là mẹ con đều chết oan chết
đến thế này? Nhưng cơ cực thế nào thì uổng...” [3, tr.145].
cũng phải gánh hàng về, gánh nhà còn nữa 2.2. Ca ngợi vẻ đẹp thể chất,
nặng nề hai vai” [3, tr. 111]. Nàng còn nhỏ tinh thần của người phụ nữ
lại gia đình nghèo không có đất để làm Trong những tiểu thuyết lịch sử của
ruộng thì đi làm thuê bằng công việc phù mình, Nguyễn Triệu Luật không chỉ nêu
hợp là hái chè. Để có thêm thu nhập, nàng lên số phận của những người phụ nữ mà
nghĩ đến chuyện mang chè đi bán. Người còn ca ngợi vẻ đẹp của họ thông qua những
phụ nữ nơi thôn quê, trong nghèo khó, bản mô tả tinh tế về thể chất, tinh thần cũng
thân rất linh hoạt và tần tảo, xông xáo, tất như nghị lực, trí tuệ, bản lĩnh của họ.
cả vì họ vì gia đình họ và vì số phận đã Nói về một trong những nhan sắc nổi
buộc họ phải như thế. Và từ lúc suy nghĩ bật trong các tiểu thuyết của Nguyễn Triệu
cho tới những hành động cụ thể là cả một Luật, không thể không nói đến nhan sắc
quá trình năm năm, của một cô bé mười nổi trội của Đặng Thị Huệ trong tiểu thuyết
tuổi lên cô gái mười lăm tuổi. Hình ảnh của Bà Chúa chè. “Mặt nàng trái xoan, đôi mắt
nàng Huệ “gánh nhà còn nữa nặng nề hai hỏi xếch điểm bộ lòng đen đen ngời. Cái vẻ
vai” [3, tr.111] thật thê lương, tạo sự cảm sáng như gương, sắc như dao của khóe mắt
thông sâu sắc cho hình mẫu số phận một được cái sắc đen thẫm của lòng đen làm
người phụ nữ điển hình sớm tần tảo nơi dịu lại. Thật là sáng như tia chớp mà êm
làng quê, thôn dã. đềm như nước hồ thu. Nàng cúi gầm mặt
Trong những biến động lịch sử, nội xuống, thì như đem cả làn thu ba chìm tận
cung là một trong những nơi chịu ảnh đáy lòng mà khi nàng ngước mắt nhìn lên
hưởng rất lớn, bởi như đã nói, những con thì như đem hết tinh hoa bật lên một tia
người ở đấy, muốn có được nhiều thì phải sáng làm chóa mắt người xem.” [3, tr.115].
đánh đổi nhiều. Đặng Thị Huệ để đạt như Vừa có sự miêu tả chi tiết vừa có sự so
vị trí Tuyên Phi như lúc bấy giờ là cả một sánh mơ màng đủ để ta hình dung vẻ đẹp
quá trình đấu đá, tranh giành và toan tính. ngời ngời mà sắc sảo của Đặng Thị Huệ
Dĩ nhiên, người yêu thương thì ít, kẻ ganh như chính con người nàng. Với điểm nhấn
ghét nàng thì nhiều. Trong việc này, tất là đôi mắt khóe sắc mà đen lòng cho thấy
phân ai đúng hay ai sai mà trở thành việc dĩ sự sắc sảo ở con người nàng. Trong khi đó,
lẽ trong chốn nội cung. Khi chúa Trịnh vẻ đằm thắm của nhan sắc lại mộng mơ từa
112
- BÙI THỊ HOÀNG PHÚC
tựa như mặt nước hồ thu êm đềm, phẳng nàng cất đi và để dành cho cái lớn lao hơn
lặng. Sự sắc sảo trong một nhan sắc đằm là “làm vợ hóa một người liệt sĩ cũng lấy
thắm tạo nên sự hữu tình trong nhan sắc làm vui”. Bởi theo nàng thì “cái ấy vui hơn
một người con gái, khó có thể tả hết thành sống nhục”. Và nàng sẵn sàng “chết theo”
lời! Một người con gái chốn thôn quê với nếu chẳng may người chồng là “liệt sĩ”. Là
vẻ đẹp ngời ngời không bị những lấm lem một người phụ nữ trong một xã hội phong
của cuộc sống vất vả làm lu mờ đã làm kiến bất công, thời buổi nhiễu nhương loạn
khuynh đảo chốn cung trường sau này. lạc mà từ nàng Văn Trúc toát lên một khí
Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ chất mạnh mẽ, bản lĩnh phi thường không
trong tiểu thuyết của Nguyễn Triệu Luật thua kém bất kì đấng trượng phu nào. Nàng
đôi khi toát ra từ những suy nghĩ và hành có đủ yêu, ghét, sự nữ tính của một người
động của họ. Như nhân vật phu nhân của phụ nữ và lại tư thông hết những đạo lí của
Lan Quận Công trong tiểu thuyết gược thời đại và những chân lí sống của cuộc
đường trường thi: “Nhà tôi có nghỉ buổi đời. Điều đó như một sự chứng tỏ rằng
học nào đâu mà tôi dám nghỉ một buổi những phẩm chất ấy không chỉ có nam giới
làm? Về chậm, thì có mất chút nào cô và phụ nữ cũng có được. Đó chính là vẻ
hoàng đi đâu?” [3, tr.331]. Qua câu nói đơn đẹp của một người phụ nữ đầy bản lĩnh mà
giản mới thấy tính cách giản dị, khiêm tốn Nguyễn Triệu Luật đã thổi hồn vào nhân
và tấm lòng của bà dành cho chồng. Phu vật của mình.
nhân xem công việc và sự vất vả của mình 2.3. Tiếng nói đòi quyền sống cho
là hiển nhiên để đánh đổi sự hiển vinh cho người phụ nữ
người chồng và gia đình. Bà yêu thương và Thông qua những tác phẩm và những
trân trọng công việc học hành dùi mài kinh nhân vật trong đó, Nguyễn Triệu Luật tố
sử của chồng và hạnh phúc khi được chăm cáo, lên án xã hội đen tối, bất công chà đạp
lo cho ông. Và dù là cô hoàng hay không người phụ nữ và lên tiếng đòi quyền bình
thì bà vẫn khiêm nhường biết mấy qua câu đẳng trong tình yêu, hôn nhân và trong đời
nói ấy. sống, xã hội cho họ.
Nguyễn Triệu Luật còn ca ngợi bản Trong thời phong kiến, chịu tư tưởng
lĩnh của người phụ nữ thông qua những nặng nề từ Nho giáo, vai trò của người
nhân vật của mình với tinh thần dám làm đàn ông trong gia đình, xã hội là độc tôn.
dám chịu, biết hi sinh, nghĩa khí, như nàng Đời sống vợ chồng cãi nhau là chuyện
Văn Trúc trong tiểu thuyết Thiếp chàng đôi bình thường. Tuy nhiên, vấn đề ở đây như
ngả. “Tôi thường vẫn nói với lang quân chính nhà văn nhận định: “Ở một gia đình
rằng: ví ngày nghĩa cử ở đốn Sơn lang nhà nho cổ, người bố người cha mà có ý
quân không mắc bệnh mà vướng vào lưới không vui vẻ là cả nhà phải sợ hãi như
tội tình, thì tôi làm vợ hóa một người liệt sĩ bọn phạm nhân” [3, tr.497]. Tức là trong
cũng lấy làm vui... Hóa thì không vui, gia đình nhà nho truyền thống, người phụ
nhưng có điều này vui. Lang quân vị nghĩa nữ luôn tìm cách để chu toàn mọi việc,
chết ngày nào thì tôi cũng làm vợ người làm hài lòng chồng và gia đình chồng.
liệt sĩ mà chết theo. Chết theo người chồng Mọi chuyện đều xoay quanh người đàn
liệt sĩ, cái ấy vui hơn sống nhục” ông, hầu như cảm xúc của người phụ nữ
[3, tr.433]. Cái không vui tâm tư riêng ấy, đều bị bỏ rơi, không quan tâm. Đó dần trở
113
- VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRI U LUẬT NHÌN TỪ PHƯƠNG DI N N I DUNG
thành một tâm lí chung của những người đựng người đã góp những tiếng nói dẫu
phụ nữ thời đó. Cuộc sống họ xoay quanh muộn màng so với bối cảnh tác phẩm
việc làm hài lòng người khác và lo lắng nhưng tiên phong so với thời đại nhà văn
nếu nhận lại là những cử chỉ không tốt sinh sống cho người phụ nữ trong cuộc
đẹp. Thật là thiệt thòi và không công bằng sống. “- Người đàn bà con gái thường thì
cho những người phụ nữ thời kì đó! Trong mới phải giữ lối e dè thế, chứ đã là thi nhân
gia đình, chính vì tư tưởng truyền thống thì phải khoáng đạt một chút” [3, tr.42]. Dù
mà cả một xã hội vô cảm, người đàn ông là trong cơn say nhưng tâm tư của chàng
trong gia đình cũng vô cảm trước những Duy Lễ vẫn có phần chí lí. Thật ra, trong
sự quan tâm của những người phụ nữ lối nói của Vũ Lăng hầu vẫn thể hiện quan
trong gia đình dành cho mình. điểm nho giáo truyền thống về việc giữ “lối
Để cất tiếng đòi quyền bình đẳng trong e dè” của “đàn bà con gái” nhưng chàng
tình yêu, hôn nhân cho người phụ nữ, vẫn nhấn mạnh chữ “thường”, ấy phân biệt
Nguyễn Triệu Luật đã tinh tế thông qua sự với những người phụ nữ tài trí như Ấu
phản ứng nhẹ nhàng của một nhà nho cổ Mai. Việc này khi kết hợp với ý tứ của câu
trong quan niệm về tình yêu, hôn nhân. Khi sau: “chứ đã là thi nhân thì phải khoáng đạt
mẹ nàng Ấu Mai – con dâu của ông Hoàng một chút” nếu hiểu trọn vẹn không phải
giáp Đặng Phi Hiển trong tiểu thuyết Hòm đơn thuần là sự phân biệt đối xử giữa
đựng người phàn nàn: “Mỗi lần con Ấu những người phụ nữ có học và không có
Mai ở trong Nội ra, ông hoàng Duy Lễ lại học. Sở dĩ trong quan điểm truyền thống
đến, rồi hai... hai người cứ tự nhiên quá của Vũ Lăng hầu vẫn bật lên một tư tưởng
như thế, con e thiên hạ họ chê cười” tiến bộ đó là sự khuyến khích học hành và
[3, tr.46], ông chẳng những không đồng tham gia nhiều mặt hoạt động xã hội, đời
thuận theo mà còn có câu trả lời vô cùng sống của ngời phụ nữ. Vì khi tham gia vào
bất ngờ: “Nó là đứa thiên tư dĩnh ngộ, mà những mặt khác của đời sống, người phụ
phải chìm vào bể thẳm không bờ, nếu cái nữ hay đàn ông chẳng cần được nhớ đến
gì ta cũng cấm đoán nó nốt, thì ra như là ta bằng giới tính của mình, mà là bằng công
đây không biết thương người nữa, vào bè việc, chức vụ hay vị trí của họ trong xã hội.
với trời xanh và những thói tục hủ lậu, mà Dưới cái nhìn của một người đàn ông theo
giết chết đến cả tính tình nữa hay sao?” Nho giáo truyền thống như Vũ Lăng hầu
[3, tr.46]. Ý tứ trong lời nói của mẹ nàng thì cái nhìn đó đầy tiến bộ như một tiếng
Ấu Mai chính là tiêu biểu cho quan niệm nói đòi quyền bình đẳng trong đời sống, xã
của một chế độ xã hội trong quan niệm về hội dành cho phụ nữ đến từ nam giới.
tình yêu và về việc phụ nữ trong tình yêu 3. Kết luận
phải thế nào. Còn câu trả lời của ông Thông qua các tác phẩm mới thấy hết
Hoàng giáp Đặng Phi Hiển khi đối đáp lại được sự tài tình của Nguyễn Triệu Luật khi
chính là lời tố cáo những “thói tục hủ lậu” xây dựng nên một thế giới lịch sử vừa thực
khiến người phụ nữ như phải “chìm vào bể vừa mộng, hóa thân vào các nhân vật nữ từ
thẳm không bờ” và là tiếng nói đòi quyền ngôn ngữ, cử chỉ, hình ảnh, tâm tư, suy
bình đẳng trong tình yêu, hôn nhân dành nghĩ đều mang đậm nét nữ tính. Các nhân
cho những người phụ nữ. vật nữ trong các tiểu thuyết của Nguyễn
Nguyễn Triệu Luật và tiểu thuyết Hòm Triệu Luật xuất hiện vừa quen, vừa lạ, vừa
114
- BÙI THỊ HOÀNG PHÚC
sống động trong thế giới nội tâm và cuộc lên trong những khát vọng của Bà Chúa
đời mình, với những yêu thương, vui tươi, chè, trong hành xử ung dung tự tại của
oán hận, trăn trở... đầy nữ tính nhưng vẫn nàng thơ Nguyễn Thị Lộ. Và cả lối sống có
bộc lộ rõ ràng tính cách, bản chất, quan trách nhiệm với lý tưởng trong người vợ
điểm và sự đấu tranh của bản thân. Mỗi chàng tráng sĩ bỏ họ Trần theo họ Hồ để
nhân vật mang đến những trăn trở về khát bảo vệ tổ quốc trước họa xâm lăng của
vọng yêu thương trong một cuộc sống bất phương Bắc” [3; tr.674].
công, những lầm than trong số phận hẩm TÀI LIỆU THAM KHẢO
hiu, những lúng túng trước thời cuộc biến
1. Y Ban (2008), Xuân Từ Chiều, Nxb Phụ nữ,
động, những nhen nhóm đấu tranh cho một
Hà Nội.
sự bình đẳng trong xã hội... Tất cả tạo sự
2. Nguyễn Du (2006), Truyện Kiều (tái bản),
đồng cảm dễ dàng nơi độc giả và có sự lan Nxb Văn học, Hà Nội.
tỏa nhẹ nhàng, sâu sắc những giá trị nữ
3. Nguyễn Triệu Luật (2013), Tiểu thuyết lịch
quyền mà nhà văn muốn truyền tải thông sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
qua câu chuyện xa xưa mà hiện đại.
4. Nguyễn Thị Kim Ngân, “Ca dao tình yêu: Ai
Xin lấy lời nhận xét của nhà văn Phạm buồn, ai nhớ, ai thương (Ca dao và thi pháp
Toàn thay cho lời kết: “Lại hay ở chỗ, nữ quyền)”, Tạp chí Khoa học Đại học Sài
giọng văn nói chuyện xưa đấy mà hồn văn Gòn, số 21 (46), tháng 10/2016.
lại vô cùng hiện đại. Ta thấy trong Bà 5. Nguyễn Viết Ngoạn (2010), Văn chương Việt
Chúa chè dường như có toát lên hương vị Nam truyền thống với sự phản ánh con người
cổ vũ cho nữ quyền, một sản phẩm rành (Chuyên luận và tuyển chọn), Nxb ĐHQG
TP.HCM.
rành không thể có vào thời Lê Trịnh mà
phải là sản phẩm của tư duy Nhân quyền 6. Trần Huyền Sâm (2016), Nữ quyền luận ở
Pháp và tiểu thuyết nữ Việt am đương đại,
sau những năm Chín mươi ba (1793) được Nxb Phụ nữ, TP.HCM.
tác giả nhắc đến từ cuốn m đựng người.
7. Nguyễn Hữu Sơn – Vũ Thanh (Tuyển chọn và
Ta thấy trong những lối sống tự do được cổ gới thiệu) (2001), Hồ Xuân ương – Về tác
vũ ngầm, hoàn toàn khác với quan niệm xơ gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
cứng về “phong kiến” buộc trai gái thụ thụ 8. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2010), Tú
bất thân. Lối sống tự do “bình quyền” toát Xương toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 07/01/2017 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017
115
nguon tai.lieu . vn