Xem mẫu
- TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012
VẤN ĐỀ DỊCH THƠ MAIAKOVSKI Ở VIỆT NAM
HOÀNG KIM THANH(*)
TÓM TẮT
Thông qua việc so sánh các bản dịch thơ Maiakovski của một số dịch giả Việt Nam,
bài viết góp phần khẳng định một mệnh đề của lí thuyết Tiếp nhận văn học: Người dịch là
một kiểu độc giả đặc biệt, bản dịch là một cách đọc, có vai trò định hướng và định giá
nguyên tác.
Từ khoá: bản dịch, dịch giả, cách đọc, nguyên tác, Maiakovski, thơ
ABSTRACT
Through the comparison of the translations of Maiakovski’s poems by some
Vietnamese translators, the article affirms the statement of the theory of literary reception:
a translator is a special type of readers whose translated text shows how he has read the
original text, and role is to orient and evaluate it.
Key words: translation(s), translator, how to read, original text, Maiakovski, poem
Dịch là một cách đọc – nhận định này Chúng tôi xin nêu trường hợp các bản dịch
không mới, thậm chí đã thành cách ngôn. thơ V. Maiakovski (1893-1930) của Trần
Đối với Lí thuyết Tiếp nhận văn học, nó là Dần (1926-1997), Hoàng Ngọc Hiến
một mệnh đề quen thuộc khi đề cập đến (1930-2011) và Thế Phong (1932) để thấy
người biên dịch trong vai trò người đọc lí những cách hình dung không hoàn toàn
tưởng. giống nhau về nhà thơ Nga vĩ đại.
Sau khi được công bố, tác phẩm văn Ở Việt Nam, tên tuổi Maiakovski được
học bắt đầu bước vào hành trình đi tìm số biết đến như một trong những lá cờ đầu của
phận của mình trong công chúng độc giả. văn học xã hội chủ nghĩa, được trân trọng
Tuy nhiên, đối với tác phẩm nước ngoài, đưa vào giáo trình đại học. Tuy nhiên,
còn cần thêm một khâu trung gian nữa – đó những người dịch thơ ông khá thưa thớt, so
là dịch thuật. Và dịch giả, trong trường hợp với đội ngũ đông đảo dịch thơ A. Pushkin,
này, là người đọc đầu tiên, có vai trò quan S. Esenin, A. Blok,… Có thể lí giải điều
trọng trong việc định hướng, định giá này như sau: Thơ Maiakovski không quen
nguyên tác. thuộc lắm với “gu” thẩm thơ của công
Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi chúng Việt Nam; cú pháp thơ ông khá trúc
muốn bàn về chính cái tính cách định trắc, thường xuyên xuất hiện từ vựng mới
hướng và định giá này của người đọc - dịch (do nhà thơ sáng tạo), cách ngắt nhịp điệu
giả. Khi tiếp cận tác phẩm văn chương không theo thông lệ... Nghĩa là, xông vào
thông qua bản dịch, thường xuyên xảy ra địa hạt dịch thuật thơ ông phải là những
trường hợp cùng là một nguyên tác nhưng người có bản lĩnh nghệ thuật và tất nhiên
có những cách dịch, cách đọc khác nhau. phải hiểu, yêu thơ ông.
Dịch giả của Maiakovski ở Việt Nam
(*)
ThS, Học viện Kĩ thuật Quân sự
29
- không nhiều, nhưng khá thú vị khi bàn về Người thứ ba chúng tôi muốn nói đến
cách dịch của họ như những cách đọc khác trong tư cách dịch giả của Maiakovski là
nhau, trong đó không hiếm khi bị chi phối nhà văn Thế Phong. Sự nghiệp văn chương
bởi ý thức hệ. của ông được tính bằng nhiều thể loại:
Dịch giả Việt Nam nổi tiếng nhất của Thơ, truyện, phê bình văn học, khảo luận
Maiakovski là Hoàng Ngọc Hiến. Ông và dịch thuật. Thực ra, mục đích của Thế
được mệnh danh là “nhà Maiakovski học”. Phong không phải là dịch thơ Maiakovski,
Danh hiệu này của ông, cho đến nay vẫn là ông chỉ thực hiện việc này khi dịch cuốn
duy nhất ở nước ta. Ông viết: “Tôi đã viết hồi kí văn chương Poète Russe của Elsa
nhiều tiểu luận, đã dịch hàng ngàn trang Triolet (mà ông đặt là Maiakovski và mối
thơ và kịch Maiakovski. Đối với tôi, tình câm), trong đó có nhiều đoạn dài các
Maiakovski là một sự ám ảnh, một ám ảnh thi phẩm của nhà thơ Nga. Trong tổng số
lớn”1. Về tiêu chí tín và đạt, có thể trông 113 trang dịch của cuốn Poète Russe, ước
đợi ở những trang dịch của Hoàng Ngọc tính có khoảng 50 trang là thơ.
Hiến. Luận án tiến sĩ của ông là viết về Về nguồn dịch, ta thấy chỉ có Hoàng
Maiakovski. Những người hướng dẫn ông Ngọc Hiến dịch từ nguyên tác tiếng Nga,
tiếp cận nghệ thuật nhà thơ Nga vĩ đại là hai người còn lại dịch thông qua bản tiếng
những chuyên viên có hạng, trong đó có cả Pháp (nghĩa là văn bản bị dịch hai lần), có
Lili Brick – người phụ nữ nổi tiếng của lúc họ cùng dùng chung bản của Elsa
Maiakovski. Triolet và Luis Aragon. Chúng tôi chưa có
Nếu Hoàng Ngọc Hiến là người am cơ hội tiếp xúc với các bản dịch của hai
tường tiếng Nga, có khả năng dịch nhà thơ Pháp này, nhưng thông qua cách
Maiakovski từ nguyên tác một cách thoải Trần Dần chuyển ngữ từ bản của họ, đối
mái và khá nhuần nhuyễn, thì Trần Dần chiếu lại với nguyên tác tiếng Nga, chúng
không có được lợi thế này. Bù lại, ông là tôi thấy nguyên tắc tín và đạt hoàn toàn
một nhà thơ, say mê một nhà thơ, một thời được đảm bảo. Cũng cần nói thêm, Elsa
coi Maiakovski là thần tượng thi ca của Triolet là nhà thơ Pháp gốc Nga, có quan
mình, thậm chí chịu ảnh hưởng rõ rệt xu hệ mật thiết với Maiakovski, khó có khả
hướng nghệ thuật đó. Hoàng Ngọc Hiến năng bà không hiểu ngôn từ thi ca
ghi nhận: “Đến nay, tôi đã dịch xong hầu Maiakovski, và khó có khả năng bà không
hết những tác phẩm chính của Maiakovski. chuyển tải nổi ý tưởng hàm ẩn của ông
Còn lại một tác phẩm quan trọng chưa dịch sang tiếng Pháp.
được, đó là bản trường ca Cây sáo - cột Để xem cách các dịch giả đọc, tiếp
sống. Đây không phải là một tác phẩm khó nhận Maiakovski, chúng ta thử đối chiếu
dịch. Nhưng trước mắt tôi có bản dịch của họ dịch như thế nào cùng một văn bản.
Trần Dần là một bản dịch tuyệt vời. Tôi đã Chúng tôi chọn vài đoạn trong bốn trường
dịch đi dịch lại nhiều lần bản trường ca này ca tiêu biểu của thi sĩ Nga là Đám mây mặc
nhưng cho đến nay chưa có bản nào sánh quần, Cây sáo - cột sống, Vladimir Ilitch
được với bản dịch của Trần Dần”2. Lénine và Lớn tiếng.
30
- Đoạn đối chiếu 1: Облако в штанах
Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến Bản dịch của Thế Phong
Я, воспевающий Tôi ca ngợi nước Anh và máy móc Tôi tụng ca nhà máy ở Anh
машину и Англию, rất có thể, tôi chẳng là gì hết, chỉ quốc
может быть, là vị thánh đồ thứ mười ba trong có lẽ chỉ có mình tôi
просто, cuốn Phúc Âm thông thường nhất trong số những kẻ thờ ơ với
в самом Và trong lúc Chúa
обыкновенном tôi bô bô bậy bạ – là con chiên thứ mười ba Và
Евангелии biết đâu, ngày đêm trong tiếng nói của tôi vang
тринадцатый hết giờ này giờ nọ lên như tiếng chim kêu đêm
апостол. Chúa Kitô cứ ngửi mãi không thôi ô uế giờ này đến giờ khác
И когда мой голос những đoá lưu li của tâm hồn tôi này là đêm đã về
похабно ухает - (Đám mây mặc quần, 1915) có lẽ Jésus Christ
от часа к часу, hít hương thơm mysotis từ
целые сутки, tâm hồn ta.
может быть, Иисус (Mây quần hội, 1915)
Христос
нюхает
моей души незабудки.
Đoạn đối chiếu 2: Флейта-позвоночник
Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Trần Dần Bản dịch của Thế Phong
Будешь за море отдана, Dù em đã thề nguyền bên kia Mà
спрячешься у ночи в норе -
mây nước anh hứa hẹn
я в тебя вцелую сквозь dù em ẩn mình trong ổ kín ở bên kia bờ,
туманы Лондона ban đêm tôi sẽ hôn anh
огненные губы фонарей. anh sẽ hôn em qua sương ở bên kia
đục Luân Đôn bờ sương mù
В зное пустыни вытянешь cặp môi lửa đèn lồng héo hắt Luân Đôn
караваны, Đôi môi lửa
где львы начеку,- Dù trong bãi bình sa cát dưới
тебе chảy ánh đèn đêm.
под пылью, ветром em đi, dằng dặc đoàn người trong sa mạc
рваной, dù ở nơi đây sư tử đứng nóng cháy
положу Сахарой горящую canh da thịt
щеку. anh vẫn áp lên em người
nóng bỏng như
má Sahara anh căng nứt
gió quật bụi lầm và sư tử
31
- (Ống sáo đốt xương sống, thay
1916) người gìn giữ –
và tôi
thử
giả dụ
là anh
đã nằm
dưới bụi, xương
tan tành
vì gió
má tôi
cháy bỏng
Sahara.
(Tiếng sáo của người, 1916)
Đoạn đối chiếu 3: Владимир Ильич Ленин
Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến Bản dịch của Thế Phong
Время. Thời gian Vào thời kỳ này
Начинаю Tôi bắt đầu tôi bắt đầu
про Ленина kể chuyện Lênin viết
рассказ. Nhưng phải đâu lịch
Но не потому, đã nguôi sử đời Lénine
что горя niềm đau xót, nhưng không phải vậy
нету более - Vì chưng mà người ta
время nỗi nhớ thương
потому, da diết không thấm cảm
что резкая đã sáng lòng tôi,
тоска ý thức rọi tâm tình nỗi đớn đau
стала ясною bây giờ
осознанною là lúc niềm đớn đau
болью. [...] chia lìa,
[…] Tôi trở thành
tắm mình sự xấu xa lương tâm
Я dưới ánh sáng Lênin trong
себя để rẽ sóng sáng
под Лениным bơi xa […]
чищу, trên dòng Tôi, tôi tự lau chùi
чтобы плыть cách mạng sự sáng chói
в революцию (Vlađimir Ilits Lênin, 1925) Lénine
дальше, để đào sâu hơn nữa
32
- cuộc cách
mạng
(Vladimir Ilitch Lénine,
1925)
Đoạn đối chiếu 4: Во весь голос
Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến Bản dịch của Thế Phong
И все
поверх зубов Và mọi quân đoàn Và tất cả
вооруженные войска, vũ trang đầy đủ nhất, đoàn quân trang bị khí
что двадцать лет в hai mươi năm nay trong chiến giới tới cằm
победах thắng mà hai mươi năm
пролетали, tung hoành trong thành công rải
до самого xin hiến dâng người, vô sản của rác
последнего листка hành tinh, tôi sẽ tặng cho họ
я отдаю тебе, hiến dâng toàn bộ, đến trang cuối
планеты пролетарий. tận trang cùng, dòng cuối cho mi,
Рабочего kẻ thù của công nhân, vô sản địa cầu
громады giai cấp đông ức triệu Tất cả vô địch
класса враг - là thù của tôi của giới thợ thuyền
он враг и мой, vốn rõ mặt tỏng tong. luôn luôn là
отъявленный и Những năm lam lũ thù địch tôi thề hận
давний. và những ngày ăn đói Chúng nó bảo ta
Велели нам thôi thúc chúng tôi đi đi phục vụ
идти dưới ngọn cờ hồng dưới màu cờ đỏ
под năm khốn khó
красный флаг những ngày không có
года труда […] ăn
и дни недоеданий. Đến trước […]
[…] Trung ương Trước
Явившись Đảng đám C.C.C.
в Це Ка Ка những năm sáng sủa, những năm trong
идущих đạp lên đầu sáng
lũ nhà thơ ở trên
светлых лет, bịp bợm, giỏi là bọn can đảm
над бандой xoay và bọn ăn
поэтических tôi giơ cao lên cắp thi ca,
tấm thẻ Đảng tôi tôi đứng dậy
рвачей и выжиг я đây, như con bài của
подыму, trăm tập Đảng
как sách thơ tôi, toàn tập
33
- большевистский sách Đảng. tác phẩm của tôi:
партбилет, (Lớn tiếng, 1930) Bolchéviks…
все сто томов (Giọng nói lớn, 1930)
моих
партийных книжек
Nói đến dịch thuật, người ta thường buộc phải bảo đảm tiêu chí này: Nguyên
lưu ý ba nguyên tắc là tín, đạt, nhã. Một tác có nhã thì bản dịch mới cần nhã. Còn
bản dịch cần vừa đảm bảo độ tin cậy, vừa như chuyển một nguyên tác không nhã
diễn đạt đủ ý, vừa phải tao nhã. Thực ra, thành một bản dịch nhã tức là không tuân
việc diễn đạt đủ/đạt ý cũng nằm trong tiêu thủ nguyên tắc tín. Điều này cần đặc biệt
chí tín. Chữ tín/đạt này được hiểu không lưu ý khi dịch thơ của các nhà Vị lai4. Các
phải là lối chuyển dịch từ sang từ (word by tác phẩm của V. Maiakovski là trường hợp
word), mà là chuyển lại nội dung ngữ như vậy. Thơ ông là một hình thức mới
nghĩa, văn phong, thậm chí cả nhịp điệu trong việc cắt đứt mọi vần điệu, hoà trộn
của nguyên tác sang một ngôn ngữ khác. văn ngôn với khẩu ngữ, nhịp điệu biến hoá
Giữa dịch ngôn ngữ (language translation) khôn lường.
và dịch ý nghĩa (interpretative translation) Ba dịch giả trên đây cố gắng chuyển tải
giới dịch thuật đánh giá cách dịch sau hơn nội dung và hình thức câu thơ của nhà thơ -
cách dịch trước. Đọc một số đoạn trích chiến sĩ cộng sản Nga, nhưng không phải
dịch của Thế Phong trên đây, ta dễ có ấn ai cũng thành công. Qua bản dịch của từng
tượng là dịch ở cấp độ từ và câu, trong khi người, ta nhìn thấy người nghệ sĩ trong cá
ấy dịch ý nghĩa phải là dịch ở cấp độ văn nhân họ, đồng thời nhìn thấy họ nhìn nhà
bản. Dịch thuật cũng là một công việc sáng nghệ sĩ Vị lai Maiakovski như thế nào. Ở
tạo, đòi hỏi mỗi dịch giả là một nhà nghệ bản dịch của Trần Dần, ta thấy nổi bật
sĩ; dịch phẩm hay/dở phụ thuộc rất nhiều trước hết là phẩm tính của một thi sĩ. Ngoài
vào điều này. Tuy nhiên, dù có sáng tạo ví dụ mà chúng tôi đưa ra đối chiếu trong
như thế nào, người dịch vẫn phải trung bài viết này, Trần Dần còn dịch nhiều thi
thành với nguyên tác về nội dung, văn phẩm khác của Maiakovski với một sự tinh
phong. Anh ta không có quyền áp đặt nội tế, tài hoa đặc biệt. Tuy nhiên, chất trữ tình
dung, tư tưởng hay giọng điệu khác cho lai láng trong bản dịch của ông dường như
nhà văn. Dịch giả buộc phải dạo cùng một hơi nhiều so với nguyên tác, cho nên chưa
cung đàn mà tác giả biểu diễn. Albert thật sự làm nổi bật tính nguyên sơ và sự
Karenski khuyến cáo: “Tôi xin nhắc lại thô nhám rất đặc trưng của “quặng lời”
một điều tâm niệm: Trong lao động dịch Maiakovski. Đặc điểm này được khắc phục
thuật, phải giới hạn một cách có ý thức cá trong các bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến.
tính sáng tạo của mình theo hướng có lợi Bên cạnh đó, Hoàng Ngọc Hiến còn khá
cho tác giả mình dịch”3. Còn chữ nhã, theo thành công trong việc chuyển tải hình thức
kinh nghiệm của nhiều dịch giả, không nên thơ bậc thang, với cách ngắt nhịp để tạo ý
coi là nguyên tắc chung của dịch thuật, bởi và thay cho vần điệu. Ông ý thức được việc
không phải bất cứ dịch phẩm nào cũng cần phải tạo nên những từ ngữ tương
34
- đương trong tiếng Việt khi chuyển tải các độc giả lĩnh hội được một tinh thần phản
hình ảnh phóng đại có khả năng đập vào thị kháng nào đó của Maiakovski đối với
giác người đọc, các từ ngữ có hiệu lực âm chính quyền – điều mà thực ra không thấy
thanh tối đa dội vào tai người nghe – đặc ở nguyên tác của ông nói chung và trong
trưng của thơ Vị lai. Bản dịch của Thế bài thơ được Thế Phong dịch nói riêng.
Phong thiếu vắng khá nhiều điều căn bản Càng về cuối đời, Maiakovski càng thất
trên, bên cạnh đó có thể quan sát nhiều chỗ vọng vì “vấp đời phàm tục” trong lí tưởng
dịch còn sai, thậm chí trái nghĩa, cho nên phục vụ xã hội cũng như trong nhiều mối
khó chuyển tải đến người đọc chân dung quan hệ cá nhân, tinh thần phê phán của
chân thực về con người cũng như phong ông đối với những bất cập của đời sống
cách nhà thơ hàng đầu của nền thi ca xã hội càng trở nên sâu sắc, chua chát hơn, nhưng
chủ nghĩa. Maiakovski trong nguyên tác bảo đó là sự phản kháng chế độ Xô-viết thì
cao lớn, chói sáng, hào sảng hơn rất nhiều, không phải. Khác với S. Esenin “Sẵn sàng
thật sự là một tháp đài sững sững, biểu dâng hết lòng mình cho tháng Mười tháng
tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp một thời Năm/ Nhưng riêng thơ mình tôi xin giữ
lãng mạn cách mạng. lại”, Maiakovski từ ngày đầu đến với cách
Hai dịch giả miền Bắc, dù thông qua mạng xã hội chủ nghĩa cho đến phút cuối
nguyên tác Nga ngữ hay thông qua bản nghiệt ngã của cuộc đời, vẫn thề nguyện
dịch trung gian Pháp ngữ, đều nhìn thấy dành toàn vẹn con người và thơ ca cho Xô-
trong Maiakovski một nhà thơ trung thành viết”6.
với lí tưởng cộng sản đến từng con chữ, Dịch thuật được coi là sự mở đầu đọc
từng dấu phẩy, đến hơi thở cuối cùng, văn bản của người dịch và là sự nối tiếp
nguyện hiến dâng trọn vẹn mình cho “vô đọc của độc giả sau đó, góp phần quan
sản của hành tinh”. Ở bản dịch của Thế trọng định hướng tiếp nhận cũng như xác
Phong, ta thấy không phải hoàn toàn như định giá trị tác phẩm nghệ thuật. Việc
vậy. Ông dịch Poète Russe lần đầu vào chuyển tải trung thành và có tính nghệ
năm 1963, trong hoàn cảnh Sài Gòn tiếp thuật một nguyên tác sang ngôn ngữ khác
nhận văn học Nga nhiều điều cơ bản khác đòi hỏi lòng say mê, kiên trì, lao động
với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Phạm Thị nghiêm túc. Maiakovski là một hiện tượng
Phương nhận xét: “Thế Phong có một cách đặc biệt của văn hoá đọc. Để tiếp cận được
“đọc” khác so với cách “đọc” của Hoàng với ông, cần phải có những bản dịch thật
Ngọc Hiến. Cách đọc đó hình như phù hợp sự biết “đọc” ông, “nghe” được ông. Làm
với một tinh thần muốn nhìn thấy sự phản được điều ấy, thì dù cho ý thức hệ, cảm
kháng của người nghệ sĩ đang sống “sau quan thẩm mĩ của người đọc thế hệ sau có
bức màn sắt”5. Đọc từng đoạn cũng như chuyển hướng cơ bản so với thời đại ông,
toàn bộ văn bản thơ dịch trong Maiakovski nghệ thuật của ông vẫn mãi trường tồn.
– thi sĩ Nga hay mối tình câm của nàng,
Chú thích:
1
Hoàng Ngọc Hiến (2005), Từ Maiakovski đến Evtusenko, Nxb Đà Nẵng, tr. 5.
2
Hoàng Ngọc Hiến (2005), Sđd, tr. 7.
35
- 3
Karenski, A. (1996), “Cá tính sáng tạo của dịch giả và “thính giác tu từ”, Văn học nước
ngoài, số 3, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội, tr. 221.
4
Chủ nghĩa Vị lai (Futurism, Футуризм): tên gọi chung của một trong những trào lưu
tiên phong chủ nghĩa trong nghệ thuật thập niên 1910 - 1920, thịnh hành chủ yếu ở Ý và
Nga. Các nhà Vị lai tuyên truyền phá hủy các hình thức và quy ước của nghệ thuật cũ, vì
lợi ích của việc sáp nhập nghệ thuật với quá trình tăng tốc cuộc sống thế kỉ XX. Đặc trưng
của xu hướng này là nghiêng về hành động, chuyển động, sức mạnh, tốc độ, sự phong đại;
đề cao dấu hiệu thị giác; từ ngữ được giải phóng khỏi khuôn khổ cứng nhắc của thứ tự cú
pháp, của kết nối logic; từ bỏ lối viết tuyến tính; xây dựng văn bản trên sự tương đồng giữa
nhiều hình thức.
5
Phạm Thị Phương (2010), Văn học Nga tại đô thị miền Nam 1954-1975, Nxb Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 86.
6
Phạm Thị Phương (2010), Sđd, tr. 86.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Ngọc Hiến (2005), Từ Maiakovski đến Evtusenko, Nxb Đà Nẵng.
2. Karenski, A. (1996), “Cá tính sáng tạo của dịch giả và “thính giác tu từ”, Văn học
nước ngoài, số 3, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
3. Маяковский Владимир Владимирович (1978), Полное собрание сочинений.
Москва, Издательство “Правда”.
4. Maiakovski, V. (1987), Trường ca, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, Hà Nội, Nxb
Văn học.
5. Maiakovski, V, Trường ca Ống sáo đốt xương sống, Trần Dần dịch, Nguồn:
http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=19919, cập nhật ngày 30.12.2011.
6. Phạm Thị Phương (2010), Văn học Nga tại đô thị miền Nam 1954-1975, Nxb Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Triolet, Elsa (1963), (1968), (2004), Maiakovski và mối tình câm, Thế Phong dịch,
Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
* Nhận bài ngày 13/3/2011. Sửa chữa xong 31/3/2012. Duyệt đăng 5/4/2012.
36
nguon tai.lieu . vn