Xem mẫu

  1. Vấn đề bản thể luận trong lí luận văn học Trung Quốc đương đại
  2. Chuyển hướng bản thể luận nằm trong xu hướng đổi mới phương pháp nghiên cứu văn học thịnh hành ở Trung Quốc bắt đầu từ giữa những năm 80, cụ thể là năm 1985, năm được mệnh danh là “năm phương pháp luận”, còn năm 1986 được mệnh danh là “năm bản thể luận”, cho đến những năm 90. Các cuộc hội thảo về phương pháp luận được tổ chức hầu như khắp nước. Từ c uối những năm 70 các phương pháp khoa học tự nhiên như tin học, điều khiển học, các lí thuyết hệ thống, hiệp đồng, hao tán… đ ược bắt đầu vận dụng vào khoa học xã hội, nhưng kết quả phần nhiều ít có sức thuyết phục. Sau đó các ph ương pháp khoa học xã hội và nhân văn phương Tây được du nhập, xuất hiện một số công tr ình về p hương pháp khá dày dặn mang tính chất khai sáng. Theo thống k ê c ủa Vương Nh ạc X uyên, chỉ riêng những năm 80 Trung Quốc đã xuất bản trên hai chục đầu sách về p hương pháp luận nghiê n c ứu. Năm 1985 riêng nhà xuất bản Nhân dân Giang Tây c ho in ba tập: Phương pháp nghiên c ứu văn học mới, Phương pháp phê b ình văn học phương Tây hiện đại, Phương pháp luận nghiên cứu văn nghệ, ngoài ra cùng năm này còn có Phương pháp luận văn học mĩ học c ủa Nxb. Văn hoá nghệ t huật, Phương pháp lu ận mới và nghiên c ứu văn học c ủa Nxb. Nhân dân Hồ Nam. Sang những năm 90, sách về phương pháp luận văn học cũng đạt con số 16 đầu sách. Trong số những phương pháp nghiên cứu văn học nêu ra nổi bật là hướng nghiên cứu bản thể luận. Sở dĩ bản thể luận đ ược chú ý đặc biệt là vì một thời gian dài văn nghệ được nhìn từ phía “bản chất” nhận thức luận, phản ánh luận và “bản chất” hình thái ý thức hệ, có nhiều hạn chế, chẳng những không làm sáng tỏ được đặc trưng của văn học, nghệ thuật mà còn trói buộc sự sáng tạo của văn nghệ sĩ. Các nhà nghiên cứu muốn tìm một điểm tựa mới để đột phá phản ánh luận và hình thái ý thức hệ, đột phá lối tư duy nhị phân siêu hình. Trong bối cảnh đó bản thể luận được nhiệt tình đề xướng và đón nhận. Bản thể luận (ontology) là cách nhìn s ự vật theo phương thức tồn tại của sự vật với giá trị tự thân của nó, một phạm tr ù có tính phổ biến. Với sự dịch thuật, nghiên
  3. cứu các học thuyết phương Tây học giả Trung Quốc đã dấy lên một “trào lưu bản thể luậ n” ở Trung Quốc. Do cách hiểu khác nhau về ph ương thức tồn tại của văn học mà nẩy sinh các bình diện bản thể luận văn học khác nhau. Có thể kể bản thể luận h ình thức, bản thể luận nhân học, bản thể luận sự sống, bản thể luận hoạt động v à bản thể luận như nó vốn thế. Về bản thể luận hình thức, những người chủ trương thuyết này coi các yếu tố hình thức như cấu trúc, thủ pháp, ngôn ngữ là bản thể của văn học, mục đích nghiên cứu là phải khám phá đặc trưng, quy luật của hình thức văn học. Ở đấy có bóng dáng của chủ nghĩa hình thức Nga, bản thể luận của phê bình mới Anh, Mĩ, hiện tượng luận của Ingarden, chủ nghĩa cấu trúc của R. Jakobson, Tz. Todorov, lí thuyết kí hiệu của E. Cassirer và S. Langer. Từ đầu năm 1980, nhà mĩ học Trung Quốc Hà Tân đã cho rằng: “Trong nghệ thuật, cái mà thông thường xem là nội dung kì thực chỉ là cái hình thức mà nghệ thuật mượn để biểu hiện chính nó. C òn cái mà thông thường gọi là hình thức, tức là thủ pháp và năng lực mà nghệ sĩ dùng để biểu hiện cái đẹp lại chính là nội dung đích thực của nghệ thuật. Đánh giá một tác phẩm phải căn cứ vào nội dung đó”(1). Ngô Điều Công nói: “Quy luật nội tại là gốc, quy luật ngoại tại là ngọn. Chưa có tồn tại của bản thể thì chưa có gì để nói về ngoại tại cả”(2). Lưu Tái Phục nêu khẩu hiệu nghiên cứu văn học cần “trở về với bản thân văn học”, “từ ngo ài vào trong, tức là chuyển dịch nghiên cứu từ quy luật bên ngoài vào nghiên c ứu quy luật bên trong”(3). Vương Ninh cho rằng bản thể của văn học tức là văn b ản tác phẩm: “Trước đây phê bình văn học sở dĩ chán ngắt là do lối phê bình công thức hoá, khái niệm hoá, thoát li văn bản, do đó đông đảo nhà văn, nhà phê bình yêu cầu phê bình trở về với bản thể” (4). Ngô Tuấn nhận định: “Hình thức không chỉ có thể thể hiện bản chất của văn học nghệ thuật, mà còn là mục đích c ủa sáng tác”(5). Ngô Lượng khẳng định: “Nghệ thuật chỉ là tên gọi khác của cái mà ta gọi bằng hình thức, một khi bàn đến ý nghĩa của hình thức thì chúng ta đã đem vấn đề đưa ra ngoài hình thức, cũng tức là đưa ra ngoài nghệ thuật”(6). Bản thể luận nhân loại học có cội nguồn từ trong quan niệm xây dựng một lí luận văn học lấy con người làm gốc thể hiện ở bài viết về tính chủ thể của Lưu Tái
  4. Phục; nhưng chính thức được đề xuất là Bành Phú Xuân và Dương Tử Giang trong bài Bản thể văn nghệ và bản thể nhân loại(7). Hai tác giả phê bình quan niệm bản thể tác phẩm và khẳng định: “Nhân loại học là hệ thống lí luận về tồn tại của con ng ười, suy nghĩ về tồn tại con người trở thành chuyển hướng của triết học, nên nó cũng trở thành chuyển hướng của lí luận văn học”. Tác giả đi sâu vào bản thể luận nhân loại học là Đỗ Thư Doanh. Trong bài Bàn về mĩ học văn nghệ nhân loại học (8) tác giả cho rằng bản thể luận nhân loại là nghiên cứu về bản thể tồn tại của con người và đặc trưng của nó. Một trong những đ ặc điểm nổi bật của tồn tại con người là ý chí, ý thức tự giác tự do, cho dù trong con người có yếu tố vô thức, không tự giác, phi lí tính, nó vẫn là dựa trên cơ sở ý chí, ý thức tự giác, tự do và sức mạnh tiềm tại kết hợp với nhau, đưa vào hoạt động sống sáng tạo”. Lí luận nhân loại học cho rằng “thẩm mĩ, nghệ thuật là một trong những phương thức biểu hiện chủ yếu của hoạt động sống của con người, là hình thái biểu hiện hoạt động sống tự do”. Sáng tác văn nghệ do đó không còn chỉ là nhà văn, nhà nghệ sĩ “phản ánh hay tái hiện chân thật đời sống hiện thực”, mà là “hình thức đặc biệt để sản sinh và sáng tạo sự sống, cũng tức là hoạt động sống và hoạt động sáng tạo thẩm mĩ do nhà văn thực hiện”. Tác phẩm văn học không còn chỉ là “vật ngưng kết của nhận thức hiện thực bằng hình tượng do nhà văn tiến hành, mà là cái phần máu thịt của sự sống thẩm mĩ của con người, nó giống như sự sống tự nhiên của con người, là hình thái s ống, sinh động, vận động, biến hoá…”. Lí luận văn học dựa vào bản thể luận sự sống tuy bị nh iều người đồng nhất trong lí luận nhân loại học, nhưng thực ra có khác. Lưu Hiểu Ba trong công tr ình Phê phán có lựa chọn(9) cho rằng “Tác phẩm nghệ thuật quyết không phải là gì khác, mà chỉ là hình thức thuần tuý không thể lặp lại của sự sống cá thể không thể lặp lại, là sự hình thức hoá của sự sống độc đáo”. R õ ràng đây là bản thể sự sống cá thể chứ không phải bản thể nhân loại. Tác giả này khẳng định: “Ở đây chỉ có thể nói bản năng, nói phi lí tính mà không thể nói xã hội hay lí tính, bởi vì, hễ nói lí t ính thì bản năng biến mất”, “Nói cách khác, quan niệm văn nghệ của chúng tôi là không có lí tính gì hết. Bất cứ sự tham dự nào của lí tính đều có hại cho sự thuần khiết của thẩm mĩ” (10). Một tác giả khác là Cao Nam cho rằng “Nghệ thuật phải có chỗ dựa cuối cùng của nó, đó là bản thể sự sống của nghệ thuật. Ông hiểu sự sống bao gồm sự thống nhất tinh thần
  5. và cơ thể, thống nhất cá thể và xã hội. Với tiền đề trên, “bản thể nghệ thuật là sự sống, tự do, là quá trình phủ định cái hữu hạn hiện tồn và là quá trình sáng tạo hướng tới cái vô hạn”(11). Vương Nhất Xuyên là người nhấn mạnh tới đặc trưng cảm tính của sự sống. “Con người trực tiếp là một tồn tại cảm tính, nó chỉ dựa vào tính cảm tính của bản thân (tức cảm giác, tình cảm, bản năng, sức sống, dục vọng…) mới có thể xác nhận mình trong đối tượng chiếm lĩnh và hưởng thụ. Cảm tính là dấu hiệu căn bản của tồn tại người”. “Chúng ta sống trong sự vây bọc của tổng thể lí tính to àn diện, mạnh mẽ hơn bất cứ thời đại nào, lí tính quốc gia, lí tính luân lí, lí tính truyền thống, lí tính kĩ thuật… chúng ngày càng trở thành sức mạnh quyết định của đời sống hằng ngày, do đó lí tính chèn ép c ảm tính, cảm tính trong thực tế bị rơi r ụng, không còn nữa, nghệ thuật là con đường trả lại cảm tính, con đường giải phóng cảm tính cho con người (12). Tuy nhiên “cảm tính” là một phạm tr ù triết học hơi cũ, “thể nghiệm” mới là phạm tr ù mới. Vương Mông và Lưu Lãng đề cao thể nghiệm. Lưu Lãng nói: “ Sự sống là thể nghiệm, bản thân quá tr ình là mục đích”(13). Các tác giả khác như Trần Kiếm Huy, Tống Dược Lương, Lí Kiến Thịnh… đều có kiến giải đại thể tương tự.
nguon tai.lieu . vn