Xem mẫu

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
VIỆC HỖ TRỢ CHO TRẺ EM BỊ XÂM HẠI TẠI HÀ NỘI
TS. Nguyễn Thị Hải
Bộ môn Công tác xã hội, Đại học Thăng Long
Email: nguyenhai286@gmail.com
Tóm tắt: Vấn đề xâm hại trẻ em là một vấn đề phức tạp ở mỗi quốc gia. Ở Việt Nam,
tình trạng xâm hại trẻ em hiện nay ngày càng gia tăng và trở nên báo động. Theo thống kê
năm 2014 của Cục bảo vệ chăm sóc trẻ em- Bộ Lao động Thương binh Xã hội trong
26.024.591 trẻ em dưới 16 tuổi thì có 1.544 trẻ em bị xâm hại tình dục và 459 trẻ em bị bạo
hành. Con số này tăng hơn so với các năm trước và con số này chưa phải là chính xác nhất.
Vẫn còn rất nhiều những trường hợp trẻ bị xâm hại nhưng được che dấu và không khai báo.
Trong đề tài nghiên cứu 22 trường hợp tại Hà Nội từ 6/2014 đến 6/2015 cho thấy những trẻ
bị xâm hại ở độ tuổi dưới 13 tuổi ngày càng nhiều. Trẻ em trai bị bạo hành nhiều hơn trẻ em
gái và trẻ em gái bị xâm hại tình dục nhiều hơn trẻ em nam. Đối tượng xâm hại chủ yếu là
người lớn trên 18 tuổi và những người thân quen chính là những người xâm hại các em như:
bố, mẹ, hàng xóm…Nhân viên Công tác xã hội đóng vai trò chủ yếu là thăm hỏi, động viên,
hỗ trợ về tài chính theo chính sách, tặng quà … trong khi đó những vai trò quan trong như
tham vấn, trị liệu tâm lý, pháp luật…để ổn định tâm lý và hiểu về pháp luật để bảo vệ bản
thân thì nhân viên Công tác xã hội chưa làm tốt. Do đó, mục đích nghiên cứu của đề tài để
đưa ra những kế hoạch đào tạo cho sinh viên những nhân viên CTXH trong tương lai làm tốt
nhất vai trò của mình khi hỗ trợ cho trẻ bị xâm hại.
Từ khóa: trẻ em, trẻ em bị xâm hại, xâm hại thể chất, xâm hại tinh thần, xâm hại tình
dục và sao nhãng, công tác xã hội, vai trò của nhân viên công tác xã hội.
1. Mở đầu
Ở nước ta hiện nay, trong những năm gần đây, tình trạng trẻ em bị xâm hại ngày càng
gia tăng và trở nên đáng báo động. Theo thống kê của Cục Bảo vệ Chăm sóc trẻ em (Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội), tổng số tính đến năm 2014 trẻ em hiện nay là 26.024.591 trẻ.
Trong giai đoạn từ 2010-2014 các vụ được phát hiện về tình trạng trẻ em bị xâm hại, ngược
đãi, bạo hành gia tăng (Năm 2010: 1143 trường hợp, năm 2011: 1464 trường hợp, năm 2012:
1630 trường hợp, năm 2013: 1816 trường hợp và năm 2014: 2003 trường hợp) [2]. Tuy nhiên,
con số này thực tế còn lớn hơn rất nhiều bởi các vụ xâm hại vẫn còn bị che dấu do sự chưa
hiểu biết của người dân.
Cuộc sống càng hiện đại, nguy cơ trẻ em bị xâm hại trở nên ngày càng cao và hình
thức càng đa dạng, tinh vi. Từ năm 2010 đến 2014 các vụ xâm hại, bạo lực với trẻ em liên tiếp
được phát hiện và phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng gây bức xúc và thu hút
sự quan tâm của toàn xã hội nhờ có sự đưa tin của truyền thông. Sự xâm hại thể hiện dưới
nhiều hình thức như: về thể chất - bố dượng dùng các vật sắc nhọn đánh, đập vào mắt, khuôn
mặt và các bộ phận trên cơ thể hay cô giáo dùng tay để tát khi trẻ phạm lỗi không ăn ở nhà trẻ
ở Bình Dương. Xâm hại về tinh thần là dùng những lời lẽ đe dọa, xúc phạm, chửi bới, lăng mạ
danh dự và nhân phẩm của trẻ em tại Phú Thọ và Tây Ninh. Đặc biệt về xâm hại tình dục đã
có nhiều vụ trẻ em bị bố đẻ, bố dượng, chú, anh, hàng xóm xâm hại, thậm chí có những người

Trư ng Đ i h c Thăng Long

275

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

mẹ tiếp tay cho nhân tình bức hại con gái mình dẫn đến trẻ mang thai diễn ra ở Đăk Lắk,
Nghệ An, Hà Nội…
Trẻ bị xâm hại ở trong gia đình, trường học và nơi công cộng là môi trường sống quen
thuộc của trẻ ở mức độ nguy hiểm và thủ đoạn tinh vi hơn khó có những dấu hiệu nhận biết.
Nguyên nhân chủ yếu do trẻ yếu hơn (yếu về thể chất, về tinh thần, sự nhận thức, kỹ năng
phòng tránh và đặc biệt là quyền được an toàn và bảo vệ) các đối tượng xâm hại nên không
thể chống đỡ những hình thức xâm hại của họ. Hậu quả để lại là những tổn thất to lớn về thể
chất, tinh thần, tâm lý, tình cảm và giao tiếp của trẻ. Các em thường xuyên cảm thấy hoảng
loạn, sợ hãi, sống mặc cảm và thiếu tự tin trước mọi người. Điều này ảnh hưởng sâu sắc tới
lòng tự trọng của trẻ, cản trở mạnh mẽ tới khả năng giao tiếp và hòa nhập của trẻ vào nhóm
bạn và cộng đồng. Diễn biến phức tạp của tình trạng xâm hại trẻ em và những hậu quả để lại
đã và đang đặt những bài học cho các nhân viên công tác xã hội trong vai trò trợ giúp cho
những trẻ em- nạn nhân của xâm hại. Đây là những vấn đề đã được làm và nghiên cứu nhiều,
tuy nhiên để nghiên cứu sâu và trên thực tế tại Hà Nội nhân viên công tác xã hội chưa phát
huy được hết những vai trò của mình. Nhân viên công tác xã hổi hiện nay chủ yếu hỗ trợ
trường hợp là kết nối các ban ngành, thăm hỏi và hỗ trợ chính sách cho trẻ, trong khi đó vai
trò là người biện hộ, người tham vấn trị liệu tâm lý, người giáo dục… chưa được thể hiện rõ
ràng và sâu sắc. Do đó chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhân viên công tác xã
hội trong việc hỗ trợ cho trẻ em bị xâm hại tại Hà Nội” làm nghiên cứu của mình.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1 Một số khái niệm
* Trẻ em
Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em
Theo (Điều 1) trong Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em
có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi
thành niên sớm hơn”. [3]
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 của Việt Nam. “Trẻ
em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. [4]
Trong Bộ luật Tố tụng Hình sự sử dụng khái niệm “người chưa thành niên” là người
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi”[1]. Từ những khái niệm trên, dưới góc độ pháp lý có thể thống
nhất trẻ em theo pháp luật Việt Nam là: Trẻ em là người chưa thành niên dưới 16 tuổi, là
người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần cũng như xã hội cần được chăm sóc,
bảo vệ, được giáo dục để trở thành những công dân tốt, những người chủ tương lai của đất
nước. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được Đảng và Nhà nước coi là mối quan
tâm hàng đầu, được xác định, ghi vào luật mà toàn xã hội phải có trách nhiệm thực hiện.
*Xâm hại trẻ em (Xâm hại thân thể, xâm hại tinh thần và xâm hại tình dục trẻ em) và
sao nhãng đối với trẻ em.
Năm 1999, Hội nghị tham vấn của WHO về Phòng chống xâm hại trẻ em đã đưa định
nghĩa như sau:
“Xâm hại hoặc ngược đãi trẻ em bao gồm tất cả các hình thức ngược đãi về thân thể
và/hoặc tinh thần, xâm hại tình dục, sao nhãng hoặc đối xử một cách sao nhãng hoặc bóc lột
vì mục đích thương mại hay mục đích khác, dẫn đến sự tổn hại hoặc nguy cơ tổn hại đến sức
Trư ng Đ i h c Thăng Long

276

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

khoẻ, sự sống còn, phát triển hoặc nhân phẩm của trẻ diễn ra trong bối cảnh giữa trẻ em và
người xâm hại có một mối quan hệ trách nhiệm, niềm tin hoặc quyền hành” [6]
Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm tất cả các hình thức xâm hại trẻ em, Tuy nhiên chưa
đưa ra một định nghĩa chung về xâm hại trẻ em hoặc bạo hành với trẻ em như tại điều 19 của
CRC hay một số công ước quốc tế khác. Hiện tại, Việt Nam mới có thuật ngữ “xâm phạm trẻ
em” với ý nghĩa là “mọi hành vi gây ảnh hưởng tiêu cực hoặc gây tổn hại đến sự phát triển thể
chất, trí tuệ, tinh thần và xã hội của trẻ”.
* Xâm hại thân thể
Việc sử dụng vũ lực như một hình phạt hoặc biện pháp kỷ luật đối với trẻ em còn là
một thực tế ở Việt Nam, thường là dưới dạng đánh bằng tay, gậy, roi, hoặc các công cụ khác.
Các biện pháp khác thường được sử dụng là cốc đầu, phát vào mông, đùi, hoặc bắt nhịn ăn.
Hình thức trừng phạt thân thể này diễn ra cả ở gia đình và nhà trường. Hình phạt này đang
dần bị thay thế do nhiều phương pháp mới trong giáo dục và kỷ luật trẻ em được giới chuyên
môn giới thiệu và thúc đẩy. [5]
Hiện tại Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể về xâm hại thân thể trẻ em và
giới chuyên môn thường sử dụng khái niệm gây thương tích được quy định tại điều 104 bộ
luật Hình sự để định nghĩa hành vi này. Theo luật pháp hiện hành, cảnh sát cũng như những
người khác đều không có quyền tách trẻ em khỏi gia đình mà không có sự đồng ý của cha
mẹ. Chỉ duy nhất toà án có quyền thực hiện việc này và cảnh sát có thể bắt và tạm giữ người
có hành vi gây thương tích cho trẻ.
Ngoài ra, việc cấm đối tượng xâm hại trẻ được tiếp xúc với nạn nhân là một biện
pháp can thiệp mới được đưa ra trong Luật Phòng chống bạo lực gia đình. biện pháp này có
thể được áp dụng để bảo vệ trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình.
* Xâm hại tinh thần và sao nhãng
Hình thức xâm hại này diễn ra dưới nhiều hình thức ví dụ như quát tháo, sỉ nhục và
công khai trách mắng trẻ và thường xảy ra ở cả môi trường gia đình và trường học. bạo lực
gia đình ngày càng trở thành một vấn đề xã hội nghiêm trọng tạo áp lực lớn lên trẻ em.
Sự sao nhãng của cha mẹ cũng là một hình thức xâm hại trẻ em. Theo kết quả Điều
tra gia đình Việt Nam năm 2006, do thiếu hệ thống trường mầm non, mẫu giáo, nhiều bậc
cha mẹ thường gặp khó khăn trong việc chăm sóc con, đặc biệt là với trẻ em dưới hai tuổi.
Các bà mẹ sống ở khu vực nông thôn dành ít thời gian chăm sóc con cái hơn so với các bà
mẹ ở khu vực thành thị, ví dụ tỉ lệ các bà mẹ ở thành thị dành hơn 3 tiếng đồng hồ mỗi ngày
để chăm sóc con là 38% trong khi tỉ lệ này ở nông thôn chỉ là 25%. Đây có thể là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng sao nhãng đối với trẻ em và cần được nghiên cứu sâu
hơn. Trong 22 trường hợp nghiên cứu không có trường hợp nào trẻ bị sao nhãng.
* Xâm hại tình dục
Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa xâm hại tình dục trẻ em như sau:
“Xâm hại tình dục trẻ em là việc lôi kéo trẻ em tham gia vào hoạt động tình dục mà
trẻ em đó không hiểu một cách đầy đủ, không có khả năng quyết định ưng thuận một cách có
hiểu biết, hoặc hành động đó là trái luật pháp hoặc trái quy tắc xã hội. Xâm hại tình dục trẻ
em là hành động diễn ra giữa một trẻ em với một người trưởng thành hoặc với một trẻ em
Trư ng Đ i h c Thăng Long

277

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

khác mà do độ tuổi và mức độ phát triển, người này có mối quan hệ trách nhiệm, tin tưởng
hoặc quyền hành với trẻ,và hành động gây ra nhằm thoả mãn nhu cầu của người đó”[4].
Trong trường hợp thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em là một thành viên trong gia đình
hoặc có họ hàng với trẻ, thì việc xâm hại tình dục được coi là loạn luân. Xâm hại tình dục trẻ
em cũng có thể xảy ra dưới hình thức bóc lột thông qua văn hóa phẩm khiêu dâm hoặc hoạt
động mại dâm.
Điều 56 Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em năm 2004 quy định trẻ em bị
xâm Nhà nước đã phát động nhiều chương trình tái hoà nhập cho trẻ em bị xâm hại tình dục.
Các chương trình này cũng được lồng ghép vào các chương trình đào tạo nghề, tạo việc làm
và xoá đói giảm nghèo. Các chính sách về khám chữa bệnh và chăm sóc cho trẻ bị xâm hại
nhân phẩm và tình dục cũng đã được đề ra. Hoạt động tham vấn tâm lý-xã hội cùng những
hỗ trợ khác dành cho trẻ em nạn nhân đã được thực hiện. Đối tượng vi phạm bị xử phạt
nghiêm khắc.[5] Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng
Việc thu thập số liệu chính xác về mức độ phổ biến của hành vi xâm hại tình dục trẻ
em ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Có thể có những vụ xâm hại tình dục không bị tố
cáo và số vụ xâm hại tình dục trẻ em xảy ra trong thực tế nhiều hơn số vụ được báo cáo. Tuy
nhiên, theo kết quả điều tra ở trong nước cũng như trên thế giới cho biết, thủ phạm xâm hại
tình dục trẻ em thường là những người có quan hệ gần gũi với trẻ như thành viên trong gia
đình hay hàng xóm. Độ tuổi trung bình của nạn nhân bị xâm hại tình dục là 12 tuổi, với dao
động trong khoảng từ 2 cho đến 17 tuổi.
Khái niệm xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam được dùng để chỉ các trường hợp khi
một người, dựa trên sự vượt trội về độ tuổi, kinh nghiệm, sức mạnh thể chất hoặc địa vị xã
hội của mình, sử dụng quyền lực của mình để khiến trẻ tham gia vào hoạt động tình dục.
Theo quy định tại bộ luật Hình sự (Điều 122), mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13
tuổi đều bị coi là hiếp dâm trẻ em. Thực tế là luật pháp Việt Nam chưa định nghĩa khái niệm
“xâm hại tình dục trẻ em” và khái niệm này do đó được sử dụng không thống nhất trong các
luật và quy định khác nhau.
Tương tự như ở nhiều quốc gia khác, trẻ em lang thang ở Việt Nam là nhóm có nguy
cơ cao dễ bị xâm hại tình dục. Thường có định kiến cho rằng những trẻ em đã đồng ý tham
gia vào hoạt động tình dục, điều này khiến cho các em rất khó có thể trông cậy rằng cảnh sát
sẽ tiến hành các hoạt động cần thiết hay coi vụ việc là một vụ phạm tội.
Luật pháp hiện hành của Việt Nam chưa quy định một thủ tục khiếu nại riêng để báo
cáo các vụ việc xâm hại trẻ em. Không có phương tiện đặc biệt nào để tố cáo và chưa có thủ
tục “thân thiện với trẻ em” để các em có thể tự thực hiện quyền khiếu nại tố cáo của mình.
Luật cũng chưa quy định nghĩa vụ báo cáo bắt buộc về các vụ xâm hại trẻ em trừ những
trường hợp có dấu hiệu cấu thành tội phạm. Việt Nam cũng chưa có cơ quan chuyên trách và
thủ tục dành riêng để điều tra và kết luận về các khiếu nại liên quan đến xâm hại trẻ em. Do
đó, các trường hợp khi có báo cáo hoặc nghi ngờ về xâm hại trẻ em.
* Công tác xã hội
Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng
cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích
hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó.
Trư ng Đ i h c Thăng Long

278

K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II

2.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu 22 trường hợp tại Hà Nội (từ tháng 6/2014 đến tháng 6/2015).
Trong đó có 9 trường hợp trẻ em bị xâm hại tình dục và 13 trẻ bị xâm hại thể chất là bạo
hành, ngược đãi.
Để nghiên cứu 22 trường hợp trên, tác giả đã làm việc trực tiếp can thiệp, kết nối,
bằng phương pháp phỏng vấn, trò chuyện, điều tra phiếu bảng hỏi.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Thực trạng trẻ bị xâm hại tại Hà Nội
3.1.1 Trẻ bị xâm hại theo giới tính và độ tuổi
Trẻ bị xâm hại

Tỉ lệ % theo giới
tính

Tỉ lệ % theo độ tuổi

Nam

Nữ

Dưới 6 tuổi

6-13 tuổi

13-16 tuổi

Xâm hại tình dục

0

100,0

55,6

11,1

33,3

Xâm hại thể chất

69,0

31,0

38,5

38,5

23,0

Bảng 1 : Tỉ lệ % trẻ bị xâm hại theo giới tính và độ tuổi
Trong 22 trường hợp tiếp cận nghiên cứu từ tháng 6/2014 đến tháng 6/2015 thì có 9
trường hợp trẻ bị xâm hại tình dục và 13 em bị xâm hại thể chất (bạo hành, đánh đập). Trong
khi đó 9 trường hợp trẻ bị xâm hại tình dục đều là trẻ em gái ở những độ tuổi dưới 6 tuổi có 5
em (chiếm 55,6%), từ 6-13 tuổi có 1 em (chiếm 11,1%) và từ 13-16 tuổi (chiếm 33,3%), đặc
biệt có những em chỉ mới 5 tuổi đã bị xâm hại, hậu quả để lại rất nặng nề về thể chất và tâm
lý cho các em. Với 13 trường hợp trẻ bị xâm hại thể chất thì có 9 trẻ em trai (chiếm 69,0%)
và 6 trẻ em gái (31,0%) ở những độ tuổi là dưới 6 tuổi có 5 em, từ 6-13 tuổi 5 em và từ 13-16
tuổi có 3 em. Nhìn tổng quát cho thấy, trẻ bị xâm hại tình dục chủ yếu ở trẻ em gái, còn xâm
hại thể chất thì trẻ em nam bị bạo hành nhiều hơn. Độ tuổi các em bị xâm hại dưới 13 tuổi
nhiều hơn. Đây cũng là độ tuổi mà khả năng tự bảo vệ bản thân của các em còn yếu.
Chị Trần Lê Tr- nhân viên công tác xã hội của Trung tâm công tác xã hội Hà Nội chia
sẻ: « Khi làm việc với trẻ em bị xâm hại, tôi nhận thấy có quá nhiều trẻ em còn nhỏ mà sự
tổn thương rất nhiều khi bị xâm hại. Có những em mới 5 tuổi, các em còn quá nhỏ để biết
bảo vệ bản thân. Nhìn các em, tôi rất xót xa, trong khi đó sự hỗ trợ của chúng tôi chỉ có
hạn ».
3.1.2. Đối tượng xâm hại trẻ tại Hà Nội theo độ tuổi và giới tính
Đối tượng xâm hại

Tỉ lệ % theo giới
tính

Tỉ lệ % theo độ tuổi

Nam

Nữ

Dưới 16
tuổi

16-18
tuổi

Trên 18
tuổi

Xâm hại tình dục

10

0

2

1

7

Xâm hại thể chất

7

9

0

0

16

Bảng 2 : Số lượng đối tượng xâm hại trẻ theo độ tuổi và giới tính
Trư ng Đ i h c Thăng Long

279

nguon tai.lieu . vn