Xem mẫu

  1. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI VAI TRÕ CỦA CHẤT LIỆU VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG CA KHÖC VIẾT VỀ THANH HÓA TS. Tạ Thị Thủy1 Tóm tắt: Tìm hiểu vai trò của chất liệu văn hóa dân gian trong ca khúc viết về Thanh Hóa đã được các học giả nghiên cứu nhiều. Bài viết của nhóm tác giả không luận bàn dưới dạng ngôn ngữ âm thanh mà tìm hiểu ở giá trị văn hóa, lịch sử cũng như những yếu tố tác động đến việc khai thác chất liệu văn hóa dân gian trong các ca khúc viết về Thanh Hóa để từ đó có cái nhìn toàn diện hơn khi nghiên cứu các ca khúc về Thanh Hóa. Từ khóa: Văn hóa dân gian, ca khúc viết về Thanh Hóa, vai trò, giá trị. 1. Đặt vấn đề Bản sắc văn hóa Việt Nam hình thành, tồn tại và phát triển từ nền tảng văn hóa dân gian. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo của Đảng. Việc khai thác, vận dụng vốn văn hóa dân gian phục vụ quá trình sáng tạo tác phẩm nghệ thuật đã được các nhạc sĩ quan tâm. Thực tế, trong quá trình sáng tác, các nhạc sĩ Việt Nam đã tìm về kho tàng văn hóa dân tộc, khai thác vốn quý văn hóa dân gian, làm cho cái hay, cái đẹp của văn hóa dân gian hóa thân vào ca từ, mang lại cho ca khúc những giá trị và sức sống bền bỉ. Việc khai thác chất liệu văn hóa dân gian trong sáng tác ca khúc của các thế hệ nhạc sĩ Việt Nam nói chung, Thanh Hóa nói riêng luôn là một thực tế sống động và phong phú, biểu hiện mối quan hệ khăng khít giữa “mã” văn hóa và ca từ trong âm nhạc. 2. Khai thác chất liệu văn hóa dân gian trong ca khúc viết về Thanh Hóa Theo Từ điển tiếng Việt “văn hóa dân gian là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do nhân dân sáng tạo ra trong trường kì lịch sử thời xa xưa”. Theo đó, chất liệu văn hóa dân gian là những giá trị, những sản phẩm cả vật chất lẫn tinh thần (văn hóa vật thể và phi vật thể, đặc biệt là văn học dân gian) góp phần tạo dựng, hun đúc nên nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc [5]. Còn khái niệm ca khúc theo từ điển mở Wiktionary là bài hát ngắn có bố cục mạch lạc. Ở đây chúng tôi quan niệm ca khúc là bài hát có ý nghĩa về nội dung và bố cục hoàn chỉnh. Các ca khúc viết về Thanh Hóa đã khai thác có hiệu quả các sự tích, điển tích, điển cố mang dấu ấn văn hóa dân gian. Bài hát Giọng hò sông Mã của Hoàng Sông Hương khai thác chất liệu hò dân gian với điệu hò vang vọng đặt ở cuối bài: “Hò khoan dô khoan hò khoan dô khoan hò khoan bớ dô khoan…”. Còn bài Chiều sông Mã lại đi vào lòng người với điệu hò quen thuộc của người quê Thanh “Một chiều sông Mã, anh nghe tiếng hò khoan khuất dô khoan”. Các công trình nghiên cứu di sản văn hóa ở Thanh Hóa lâu nay tập trung nghiên cứu nhiều ở các loại hình di sản văn hóa vật thể, ít có công trình nghiên cứu về âm nhạc. Trong 1 Khoa Văn hóa Thông tin - Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa 108
  2. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI thời gian tới cần có những công trình, dự án nghiên cứu và bảo tồn, phát huy giá trị một số loại hình âm nhạc đặc sắc, đặc biệt là loại hình dân ca như: hệ thống và tổ khúc hát múa dân ca Đông Anh, hò sông Mã, hát mo sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, hát múa Xuân Phả, hát thờ làng Mưng, hát ca trù: Ngọc Trung, Bái Thượng (Thọ Xuân), Hòe Nhai (Vĩnh Lộc), Nổ Giáp (Tĩnh Gia)... Từng bước chọn một số thể loại âm nhạc đặc sắc, xây dựng hồ sơ khoa học và đệ trình Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia và UNESCO tôn vinh và công nhận là di sản văn hóa phi vật thể truyền khẩu của nhân loại như: Không gian và diễn xướng của hò sông Mã; không gian và nghệ thuật diễn xướng mo sử thi “Đẻ đất đẻ nước” và hát mo của Mường Trong (Thanh Hóa); hát và múa “trò Xuân Phả”… Các ca khúc viết về Thanh Hóa trải qua thời gian đã được kết tinh thành giá trị, lắng đọng trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân nơi đây. Mỗi ca khúc là sự phản ánh những ứng xử, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên, xã hội. Việc khai thác chất liệu văn hóa dân gian trong các ca khúc viết về Thanh Hóa còn được thể hiện ở việc sử dụng các hình ảnh, biểu tượng ca dao. Trong ca dao, có nhiều sự vật được tái hiện, miêu tả một cách sinh động với những đặc điểm, hình dạng, màu sắc, mức độ, tính chất cụ thể. Qua đó, giúp người đọc, người nghe hình dung, tưởng tượng để nhận biết rõ nét về chúng. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Hình ảnh chính là hình người, vật, cảnh tượng thu được bằng khí cụ quang học (như máy ảnh), hoặc để lại những ấn tượng nhất định và tái hiện được trong trí não” [5]. Các biểu tượng trong ca dao Việt Nam vô cùng phong phú, đa dạng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính đã phân loại các biểu tượng ấy như sau [4]: Biểu tượng ca dao 1. Thế giới các hiện tượng thiên nhiên, 2. Thế giới các vật thể nhân tạo tự nhiên a. Các hiện tượng tự nhiên (trăng, sao, mây, a. Các đồ dùng cá nhân (áo, yếm, khăn, gió...) gương, lược, mũ, giầy...) b. Thế giới thực vật (cỏ, cây, hoa lá...) b. Các dụng cụ sinh hoạt gia đình (chăn, c. Thế giới động vật (rồng, phượng, cò, rùa...) chiếu, giường, mâm, bát...) c. Các công cụ sản xuất (thuyền, lưới, đò, lờ, gàu...) d. Các công trình kiến trúc (nhà, đình, cầu...) Trong ca dao người Việt, nhiều biểu tượng đã trở thành quen thuộc, phổ biến: “trầu - cau” là biểu tượng của tình yêu, hôn nhân; “trúc - mai”, “mận - đào”, “rồng - mây”, “thuyền - bến”, “bướm - hoa”, “loan - phượng”, “gương - lược”, “cá - ao”, “tằm - dâu”... Hầu hết là những biểu tượng sóng đôi, biểu thị cho đôi bạn tình ở nhiều khía cạnh khác nhau. Biểu tượng “con cò” nói về người nông dân sống cuộc đời vất vả, cực nhọc nhưng phẩm hạnh vô cùng thanh sạch. “Con bống”, “cái bống” là biểu tượng về người phụ nữ hiền lành, đảm đang, phận mỏng trong xã hội xưa. “Cái yếm”, “dải yếm” là biểu tượng nói về tình yêu, sức mạnh của tình yêu. “Cây trúc” biểu tượng về người con gái xinh đẹp. “Trăng”, “trăng rằm”, “trăng tròn” 109
  3. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI nói về người con gái đến thì, xinh đẹp, hoàn hảo; “Trăng méo” nói về người con gái quá lứa nhỡ thì; “trăng khuyết” ý muốn nói người thiếu nữ chưa đến tuổi trưởng thành, chưa chín chắn, chưa hoàn thiện... Nhận thức rõ ưu thế “nói ít hiểu nhiều” và sự tinh tế, sâu sắc của lối nói bằng biểu tượng, các nhạc sĩ đã dùng những biểu tượng quen thuộc của ca dao để viết ca từ. Nhạc sĩ Nguyễn Trọngđã khai thác các biểu tượng của ca dao để đưa vào bài hát Đẹp đôi trai gái tỉnh Thanh với hình ảnh “ánh trăng”, “lũy tre”, “mái chèo”. Ở khía cạnh khác, bài Cây lúa Hàm Rồng của Đôn Truyền đã đưa vào hình ảnh cây lúa, con tàu, con tim… Với biểu tượng này, lời ca ẩn chứa tình yêu đẹp của những người chiến sĩ nhưng lại cũng rất tinh tế khi luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc lên trên hết. Chất liệu văn hóa dân gian còn được thể hiện ở việc người nhạc sĩ luôn vận dụng và đưa các nhân vật anh hùng, các sự tích mang dấu ấn văn hóa vào bài hát của mình như hình ảnh nữ tướng Triệu Thị Trinh trong bài hát Đẹp đôi trai gái tỉnh Thanh. Bài hát Đường về Thanh Hóa đã nhắc tới một loạt các địa danh như “núi Đọ”, “Thành Nhà Hồ”, “núi Ngọc (núi Rồng)” gắn với lịch sử văn hóa dân tộc. Nhìn chung, các nhạc sĩ đã khai thác chất liệu văn hóa dân gian trong các ca khúc viết về Thanh Hóa một cách sáng tạo, không giữ nguyên dạng. Điều đó, đã mang đến cho ngòi bút các tác giả sự phóng khoáng đầy tiềm năng trong việc tái hiện bức tranh hiện thực cuộc sống nhiều màu, nhiều vẻ và những cung bậc cảm xúc, tâm trạng, tình cảm vô cùng phong phú của người dân Thanh Hóa. Trong các ca khúc viết về Thanh Hóa, có một số nhạc phẩm để lại dấu ấn sâu đậm đi vào đời sống âm nhạc của công chúng như Lồng lộng quê Thanh của nhạc sĩ Phó Đức Phương, Tự tình sông Mã của nhạc sĩ Thuận Yến, Về theo câu hò sông Mã của nhạc sĩ Huy Thục, Đường về Thanh Hóa của nhạc sĩ Nguyễn Trọng, Về làm dâu sông Mã của nhạc sĩ Đồng Tâm, Hỡi em cấy lúa dưới trăng của nhạc sĩ Nguyễn Liên, Nồng nàn khúc hát tỉnh Thanh của nhạc sĩ Thế Việt… Từ xưa, Thanh Hóa đã hình thành nhiều vùng, trung tâm dân ca, dân vũ. Người Thanh Hóa sáng tạo ra các làn điệu dân ca, gửi gắm tâm tư, tình cảm vào những giai điệu mang âm hưởng của môi trường sống, không khí lao động, sinh hoạt hàng ngày. Vùng lưu vực sông Mã, sông Chu có hò sông Mã; vùng Viên Khê, Tuyên Hóa, Cổ Bôn (thuộc huyện Đông Sơn) tập trung nhiều trò diễn, diễn xướng dân gian nổi tiếng, tiêu biểu như diễn xướng múa đèn Đông Anh; huyện Thọ Xuân có trò Xuân Phả; huyện Nông Cống có tổ hợp hệ thống hát chèo thờ ở lễ hội đền Mưng; huyện Tĩnh Gia - giáp ranh tỉnh Nghệ An, có hát khúc (còn gọi là hát ru Tĩnh Gia) mang bóng dáng của hát giặm Nghệ Tĩnh... Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, những văn nghệ sĩ - những “chiến sĩ” văn hóa nghệ thuật có nhiệm vụ “phụng sự tổ quốc, phụng sự kháng chiến, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”; “về sáng tác thì cần thấu hiểu, liên hệ và đi sâu vào đời sống nhân dân”, “cần có lập trường vững, tư tưởng đúng”. Tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, trong bản báo cáo “Phấn đấu cho một nền nghệ thuật dân tộc phong phú dưới ngọn cờ yêu nước và chủ nghĩa xã hội”, mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ cũng đã được nhà lãnh đạo Trường Chinh khẳng định rõ: “Chính trị lãnh đạo văn nghệ, văn nghệ phục vụ chính 110
  4. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI trị”. Đảng ta tôn trọng tính chủ động và óc sáng tạo của văn nghệ sĩ, “chính trị lãnh đạo văn nghệ, chủ yếu là lãnh đạo về đường lối”. Trong thời kỳ hòa bình từ năm 1975 đến nay, mối quan hệ giữa chính trị và văn học nghệ thuật vẫn tiếp tục được duy trì và củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa - văn nghệ ngày càng được khẳng định, vai trò người cán bộ lãnh đạo, quản lý công tác văn học nghệ thuật không tách rời hoạt động của chủ thể sáng tạo nghệ thuật; cơ quan quản lý văn hóa các cấp hoạt động theo quan điểm, định hướng phát triển văn hóa trong nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng (lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII). Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết số 23 - NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới, Nghị quyết số 33 - NQ/TW hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước... đã có tác động đến toàn xã hội, trong đó có lĩnh vực âm nhạc. Những việc làm như trên, do sự quan tâm của Đảng và sự đầu tư kinh phí của nhà nước đã tạo nên sự chú ý, quan tâm thích đáng đến vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác ca khúc viết về Thanh Hóa nói riêng. 3. Giá trị văn hóa, lịch sử của các ca khúc viết về Thanh Hóa Các ca khúc viết về Thanh Hóa ghi lại quá trình lịch sử của con người nơi đây, đó là những chiến công vang dội trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đó còn là quá trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng quê hương trong thời kỳ đổi mới… Bất kỳ một hiện tượng văn hóa nào cũng có mối liên hệ mật thiết với môi trường nơi nó tồn tại. Các đặc điểm, tính chất của hiện tượng đó chịu nhiều ảnh hưởng, tác động của môi trường xung quanh. Là một loại hình văn hóa phi vật thể, âm nhạc dễ dàng chịu sự chi phối, tác động của yếu tố môi trường, và khi môi trường sống thay đổi, đặc điểm, tính chất của nó cũng ít nhiều thay đổi theo. Các ca khúc viết về Thanh Hóa luôn hướng về cội nguồn dân tộc, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, tri ân công đức đối với những người đã có công bảo vệ, dựng xây đất nước nói chung, quê hương Thanh Hóa nói riêng như bài Bâng khuâng trên đồi C4 của nhạc sĩ Cầm Hải, Quê ta Thanh Hóa anh hùng của nhạc sĩ Đức Nhuận. Khác với hai ca khúc trên, Hát mừng các cụ dân quân của nhạc sĩ Đỗ Nhuận không mang đậm âm hưởng chắc khỏe của hò sông Mã. Nhưng tác giả đã khéo léo đưa tiếng hò dô vào tác phẩm, cùng với lời ca mộc mạc mang thổ ngữ của những cụ già miền quê Thanh: “Ai vô Thanh Hóa coi, mát lòng trẻ già vui khắp nơi”, lại pha chút hóm hỉnh: “Rứa mới là dân quân tài, thần sấm, con ma cũng bỏ đời”… Tác giả hướng người nghe liên tưởng tới xứ Thanh có giọng hò sông Mã thân thương, có những người dân hiền lành, chất phác trong cuộc sống đời thường, dũng cảm, kiên trung trong đánh giặc giữ nước. Chào sông Mã anh hùng là một ca khúc của nhạc sĩ Xuân Giao sáng tác năm (1965), thời điểm mà đế quốc Mỹ đang đẩy mạnh cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc ác liệt nhất. Bài hát ra đời như tiếp thêm sức mạnh cho quân dân Thanh Hóa vượt lên mưa bom bão đạn, chiến thắng quân thù. Có thể nói, Chào sông Mã anh hùng là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhạc sĩ Xuân Giao. Người dân xứ Thanh đã nâng niu nó như một biểu tượng anh 111
  5. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI hùng của quê hương. Ngày nay, bài hát đã được chọn làm nhạc hiệu của Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Thanh Hóa. Trong tư tưởng, tình cảm người xứ Thanh luôn gửi gắm niềm tin, ước vọng của mình đối với các vị anh hùng dân tộc, các vị thần linh đã có công bảo vệ, dựng xây quê hương, xứ sở. Trong tâm trí họ những anh hùng có tên và không tên, các vị thần linh luôn hiện hữu trong lời ca ghi tạc công ơn, trong khúc hát thờ thần; đồng hành cùng với họ trong cuộc mưu sinh, cùng chung vui với niềm vui bình dị của dân và san sẻ những lo toan, vất vả; là chỗ dựa tinh thần, nhân lên sức mạnh và lòng quả cảm cho người dân giúp họ trụ vững trên đường đời nhiều gian lao, vất vả. Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng đầu thế kỷ 20 vẫn duy trì nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp. Sự giao lưu với phương Tây không đủ mạnh để người Việt Nam hướng cái nhìn rộng ra thế giới. Vì thế, Nho giáo và Phật giáo vẫn ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống con người. Do sự phong phú của lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng nên địa điểm diễn ra nghi lễ và âm nhạc đi kèm cũng rất đa dạng. Từ trong các ca khúc viết về Thanh Hóa đã toát lên ý nghĩa nhân văn sâu sắc, để con người tỉnh Thanh từ miền ngược đến miền xuôi mở rộng vòng tay nhân ái trong nghĩa đồng bào “Lá lành đùm lá rách”, “Lá rách ít đùm lá rách nhiều”, “Nói nhau đừng nói nặng/ Mắng nhau đừng mắng đau/ Đời còn có lúc thương nhau trở lại”... Các ca khúc viết về Thanh Hóa đã kết tinh thành những giá trị đạo đức, nhân văn cao cả, biểu hiện trong cách sống, thế ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với thế giới tự nhiên và xã hội. Giá trị thẩm mỹ, đạo đức đó như dòng sông bồi đắp “phù sa” không bao giờ ngưng nghỉ, cho ca khúc bay xa, vang vọng, lắng vào lòng người, chung sức xây đời tốt đẹp, giàu nghĩa nhân văn. Người nhạc sĩ đã thay mặt cộng đồng cất lên tiếng lòng, cách cảm, cách nghĩ của dân tộc mình, của làng quê nơi mình sinh ra. Đó chính là phần quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc. Về cơ bản, người Việt nói chung và người xứ Thanh nói riêng là cư dân nông nghiệp. Bản sắc xứ Thanh mang nhiều dấu ấn của nông thôn - nông dân - nông nghiệp. Chính vì vậy, phần lớn trong những “đặc sản” của Thanh Hóa được thế giới ưa thích chính là sản phẩm của cư dân nông nghiệp. Thông qua các ca khúc viết về Thanh Hóa được sáng tạo, thể hiện trong cuộc sống, sinh hoạt và các nghi thức biểu đạt mang tính nghệ thuật như: lễ hội, diễn xướng, trò chơi... những hình thức tế lễ, hát thờ thần, hát ca trong hội hè... là môi trường thuận lợi để nảy sinh, sáng tạo và trao truyền những giá trị nghệ thuật dân gian đặc sắc ở mỗi nghệ nhân, mỗi làng quê tới mọi vùng miền và đến với từng người, giúp họ cảm nhận được những cái hay, cái đẹp và giá trị của câu hát, lời ca. 4. Các yếu tố tác động đến việc khai thác chất liệu văn hóa dân gian trong các ca khúc viết về Thanh Hóa Việc khai thác chất liệu văn hóa dân gian trong sáng tác ca khúc được diễn ra từ trước Cách mạng tháng Tám và hiện nay đang tiếp tục được thực hiện trong sự tác động của nhiều yếu tố. Các yếu tố đó đan kết thành hệ thống, tác động đồng bộ đến đời sống văn học nghệ thuật nói chung và tác động đến việc khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca 112
  6. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI khúc nói riêng. Hiện nay, việc khai thác chất liệu văn học để sáng tác ca khúc viết về Thanh Hóa chịu sự tác động của những yếu tố dưới đây. Thứ nhất, phải nói đến sự lãnh đạo của Đảng, chính sách của nhà nước. Tháng 8/2009, tại Hội An, phát biểu khai mạc hội thảo “Tính dân tộc và tính hiện đại trong tác phẩm văn họcnghệ thuật Việt Nam hiện nay” GS.TS. Phùng Hữu Phú - Ủy viênTrungương Đảng, Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương đã nhấn mạnh: Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị là định hướng quan trọng để nghiên cứu, giải quyết - cả về lý luận và thực tiễn - mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại trong văn học nghệ thuật Việt Nam hiện nay. Bên cạnh, các văn kiện của Đảng, còn có nhiều bài phát biểu của Hồ Chủ Tịch, các nhà lãnh đạo (LêDuẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng…), các nghị quyết, chính sách của nhà nước. Sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và nhà nước đã định hướng cho các hoạt động sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Nhiều chương trình khoa học, nhiều đề tài khoa học cấp nhà nước về văn hóa được xét duyệt và triển khai nghiên cứu. Những việc làm như trên, do sự quan tâm của Đảng và sự đầu tư kinh phí của nhà nước đã tạo nên sự chú ý, quan tâm thích đáng đến vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc nói chung và vấn đề khai thác chất liệu văn học trong sáng tác ca khúc viết về Thanh Hóa nói riêng. Thứ hai, về chủ thể sáng tạo và biểu diễn ca khúc.Chủ thể sáng tạo ca khúc là nhạc sĩ (có khi là tác giả không chuyên); chủ thể biểu diễn là ca sĩ, những người làm cho ca khúc vang lên bằng giọng hát. Đối với những nhạc sĩ đã khẳng định được tên tuổi và sự nghiệp, họ còn là những người từng trải, đọc sách nhiều, có tri thức văn hóa phong phú và sự hiểu biết sâu sắc về thiên thiên và tâm hồn của con người ở nhiều vùng đất, miền quê. Với hành trang đó, mỗi một tác phẩm của họ thường đem đến cho cộng đồng một thông điệp về tình yêu cuộc sống, về sự giàu đẹp của thiên nhiên, đất nước, về nỗi buồn trước những số phận éo le (thậm chí cả nỗi buồn vô cớ) và về những niềm vui rộn rã như khi một ngôi trường mới mọc lên, khi thuyền về bến với mẻ lưới đầy... Để ca khúc viết về Thanh Hóa mang bản sắc xứ Thanh và để chất liệu văn học dân gian phát huy tối đa những ưu thế của nó, người sáng tác phải am hiểu văn hóa dân gian, thấm nhuần văn học dân gian; thậm chí những đặc sắc của văn hóa dân gian, của văn học dân gian phải nằm ngay trong máu thịt, hơi thở của họ. Với các ca khúc có sử dụng chất liệu văn hóa dân gian, nếu sự hiểu biết của người sáng tác về văn hóa dân gian hạn chế thì có thể dẫn đến việc vận dụng không đúng lúc đúng chỗ, làm ra những phế phẩm - những sản phẩm ca từ có nhiều khiếm khuyết. Một số tác giả trẻ hiện nay, vì chưa có nhiều thời gian sống ở nông thôn hoặc ít có điều kiện đi sâu thâm nhập thực tế ở nông thôn cho nên trong những tác phẩm của họ - dù có xuất hiện hình ảnh con cò, dải yếm, sân đình, giếng làng, bờ ao, chuồn chuồn... mới nghe thì thấy có chút “gia vị” truyền thống nhưng chưa đủ độ kết tinh thành bản sắc dân tộc. Kể từ khi thành lập cho đến nay, trải qua nhiều thời kỳ cách mạng, dù điều kiện hoàn cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán trong chủ trương, đường lối công tác văn hóa - văn nghệ. Ở chặng đường đầu tiên trong quá trình lãnh đạo của Đảng (1930 - 1945), việc lãnh đạo toàn dân đứng lên lật đổ chế độ xã 113
  7. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI hội cũ, thiết lập nên một chế độ mới, một nền văn hóa mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Vì vậy, chủ trương, đường lối công tác văn hóa - văn nghệ là một phần quan trọng trong tổng thể các nội dung nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện của Đảng. 5. Kết luận Sự tồn tại của mỗi một hiện tượng văn hóa trong một môi trường xã hội thường chịu sự tác động của môi trường đó, đồng thời nó cũng có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của xã hội đó. Đó là mối quan hệ tương hỗ thúc đẩy lẫn nhau. Khi văn hóa xứ Thanh được tôn vinh, một cách tự nhiên, Thanh Hóa sẽ thu hút được sự chú ý của mọi người, trong đó có cả các nhà chuyên môn lẫn khách du lịch. Do đó, các ca khúc viết về Thanh Hóa đã đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về văn hóa xứ Thanh, góp phần đưa du lịch Thanh Hóa phát triển. Số liệu thống kê cho thấy doanh thu về du lịch Thanh Hóa cũng như số lượng du khách đến Thanh Hóa tăng trưởng đáng kể trong những năm qua, điều đó ắt hẳn có sự đóng góp của âm nhạc trong việc thu hút du khách đến Thanh Hóa, góp phần tăng thu nhập, đưa đời sống kinh tế xã hội của Thanh Hóa đi lên. Tài liệu tham khảo [1]. Dương Viết Á (2000), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, Viện Âm nhạc xuất bản. [2]. Trọng Bằng (2010), Sự hình thành và phát triển đội ngũ sáng tác âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20”, Tổng tập âm nhạc Việt Nam - Tác giả và tác phẩm, tập 1, Viện Âm nhạc xuất bản. [3]. Phạm Lê Hòa (2002), Nghệ thuật âm nhạc với việc xây dựng con người mới, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, 220 (10), tr 47 - 52, 221, (11), tr.77 - 83. [4]. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, tái bản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [5]. Hoàng Phê chủ biên (2009), Từ điển tiếng Việt, tái bản, Nxb Đà Nẵng. ROLES OF FOLK MATERIALS IN THE SONGS ABOUT THANH HOA Ta Thi Thuy, Ph.D Abstract: The role of folk materials in the songs about Thanh Hoa has been paid much attention by scholars. The article analyzes the cultural and historical values as well as the factors affecting the exploitation of folk materials in the songs about Thanh Hoa in the hope of having a more comprehensive view of these songs. Key words: folk materials, songs about Thanh Hoa, values. Người phản biện: Nhạc sĩ Đoàn Dũng (ngày nhận bài 18/6/2018; ngày gửi phản biện 19/6/2018; ngày duyệt đăng 02/4/2019). 114
nguon tai.lieu . vn