Xem mẫu
- VÀI ĐI ỂM DU L ỊCH TÂM LINH B Ạ
C LIÊU
Du l ịch tâm linh là m ột th ực t ếđã có m ặt hàng tr ă
m nă
m nay trên kh ắp ba mi ề
n đất
n ướ
c.
V ậy du l ịch tâm linh là gì?
Du l ịch tâm linh có ngh ĩa là du l ịch, th ưở
n g ngo ạn phong c ảnh nh ữ
ng n ơi linh thiêng
mang màu s ắc tín ng ưỡ
n g tôn giáo, qua đó con ng ườ
i nh ận ra nh ữ
ng giá tr ị tinh th ần
đạo đức t ốt đẹp .
Du l ịch tâm linh khai thác nh ững y ếu t ốv ă
n hóa tâm linh trong quá trình di ễn ra các
ho ạt độn g du l ịch, d ựa vào nh ững giá tr ị v ă
n hóa v ật th ểvà phi v ật th ểg ắn v ới l ịch s ử
hình thành nh ận th ức c ủa con ng ườ
i v ềth ếgi ới, nh ững giá tr ị v ềđức tin, tôn giáo, tín
ng ưỡ
n g và nh ững giá tr ị tinh th ần đặc bi ệt khác.
M ục đí ch c ủa du l ịch nh ằm m ởmang ki ến th ức v ềthiên nhiên và con ng ườ
i n ơi mình
đến . Du l ịch còn là m ột li ệu pháp x ả stress r ất hi ệu qu ả. Ngày nay, đời s ống con
ng ườ
i quá nhi ều t ất b ật, quá nhi ều b ận r ộn lo toan, quá nhi ều c ạnh tranh trên m ọi m ặt
đời s ống ... khi ến cho con ng ười luôn ph ải ch ịu nhi ều s ức ép t ừcu ộc s ống. Du l ịch
chính là c ứu tinh mang đến cho con ng ườ
i nh ững gi ờ phút tho ải mái và s ảng khoái
nh ất, t ạm quên nh ững phi ền toái đời th ườ
n g để t ận h ưở
n g cái đẹp tr ời ban c ủ
a cu ộc
s ống.
C ản ướ c nói chung, B ạc Liêu nói riêng, du l ịch tâm linh c ũ
ng đa ng trên đà phát tri ể
n.
C ụth ểở m ột s ốn ơi nh ưsau:
1. Quán Âm Phật Đài ( Quán Âm Nam Hải, Mẹ Nam Hải)
Quán Âm Phật Đài là tên một ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, đây là
một công trình văn hóa tâm linh nổi bật nhất ở Bạc Liêu. Thánh tượng Bồ tát Quán
Thế Âm đã được xây dựng từ năm 1973 do chủ trương của Ban Trị sự Phật giáo tỉnh
hội Bạc Liêu, suốt thời gian xây dựng đã được sự đóng góp nhiệt tình của bà con Phật
tử và các nhà hảo tâm xa gần, nhất là bác sĩ Nguyễn Tú Vinh (Hội trưởng Hội Hồng
Thập Tự thời điểm đó) đã đóng góp một phần công sức rất lớn. Hòa thượng Thích Trí
Đức đứng ra chủ trì việc xây tượng Quán Thế Âm lộ thiên. Thánh tượng cơ bản hoàn
- thành năm 1975, tượng cao 11m (chưa kể chân đế), đứng sừng sững bên bờ biển Đông
thuộc khu vực ấp Nhà Mát, xã Hiệp Thành (Nay là phường Nhà Mát, thành phố Bạc
Liêu), mặt xoay ra biển. Lúc mới xây dựng, tượng đài được đặt sát mé biển, khi thủy
triều lên nước biển tràn vào có lúc ngập cả chân đế, nhưng tới nay do sự bồi đắp của
thiên nhiên, vị trí tượng đài đã đặt cách biển gần bốn mét. Tượng tuy đơn giản nhưng
cảnh quan rất hùng vĩ và trang nghiêm dễ gây sự chú ý và ngưỡng mộc cho mọi người,
đã đáp ứng một nhu cầu tín ngưỡng cho ngư dân ở đây, nhất là những người thường
đánh bắt xa bờ. Tượng Bồ tát còn làm thêm nhiệm vụ “ngọn hải đăng” cho những
người đi biển.
Đến năm 1995, ban Đại diện Phật giáo thị xã Bạc Liêu được chính quyền cho
phép trùng tu chân đế của tượng. Từ đó đến nay đồng bào Phật tử và du khách đến
chiêm bái càng lúc càng đông. Để đáp ứng nhu cầu tham quan du lịch của du khách và
thể hiện chủ trương về bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tỉnh nhà, năm 2004
Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bạc Liêu đã phê duyệt dự án và cho phép Tỉnh hội Phật giáo
Bạc Liêu xây dựng Quán Âm Phật Đài trên diện tích 250.000 m2 chung quanh vị trí cũ
của tượng đài với nhiều cổng Tam quan cùng với điện Thiên Thủ và Thiên Nhãn, một
số nhà tạm gồm nhà nghỉ chư tăng, nhà xe, nhà phát hành kinh sách, căn tin, nhà vệ
sinh. Du khách đến chiêm bái ngày càng đông (Theo thống kê của Ban Văn hóa Tỉnh
hội Phật giáo Bạc Liêu năm 2008 chỉ mới ba tháng đầu năm mà lượng du khách đã hơn
ba trăm ngàn lượt người). Do đó, năm 2012 Thường trực Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo
Việt Nam tỉnh Bạc Liêu đã cho tiến hành xuống móng thi công công trình Núi Quan
Âm. Dự án công trình này đã được Nhà nước phê duyệt và Sở Xây dựng cấp giấy
phép.
Trong năm có 3 kỳ Lễ Vía Bồ Tát, một Lễ hội Quan Âm Nam Hải, Đại Lễ Phật
Đản và nhiều cuộc lễ quan trọng khác được Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam
tỉnh Bạc Liêu tổ chức. Trong lễ Vía Bồ Tát (Vía Bà), diễn ra trong ba ngày 22 – 24,
tháng 03 âm lịch gồm có các hoạt động:
- Ngày thứ nhất (ngày 22 tháng 03 âm lịch): Đại biểu, quan khách tề tựu; Xe hoa Diễu
hành; Kích cổ (36 cái trống lớn); Múa rồng, múa lân; Khai mạc lễ hội; Phát biểu của
chính quyền, giáo hội…; Nghi thức lễ hội (Dâng hoa; Nghinh thiên tiếp giá; Nhập tịch
khai chung bảng, Khai kinh, Thượng phan, Chiêu vong, Nghinh thần chủ, Trình lục
cúng).
Ngày thứ hai (ngày 23 tháng 03 âm lịch): Khóa lễ Lăng Nghiêm, Phật tử dâng hương,
cầu an, thỉnh thánh, thuyết pháp. Đến 19 giờ hát bội với vở hát Quán Âm Diệu Thiện.
Ngày thứ ba (ngày 24 tháng 03 âm lịch): Cầu an, văn nghệ người Hoa, tế an hồn sĩ tử,
phóng liên đăng, chẩn tế, hoàn mãn.
Du khách khi đến với Mẹ Nam Hải Bạc Liêu vừa tham quan chiêm bái thánh
tượng, vừa được tìm hiểu lễ hội Quán Âm Nam Hải – Một lễ hội Phật giáo nhưng
mang đậm màu sắc văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam. Bồ Tát Quán Thế Âm tại
Quán Âm Phật Đài Bạc Liêu đã đi vào lòng người và Ngài được đồng bào Phật tử
trong và ngoài nước kính tin ngưỡng mộ. Ngay từ buổi đầu Thường trực Ban Trị sự
GHPGVN tỉnh đã có dự kiến tôn tạo tại khu vực các công trình mang tính đặc thù của
địa phương, làm sao cho du khách cảm nhận sâu sắc rằng đến với đất Bạc Liêu là về
đất Bồ Tát, sau khi tham khảo ý kiến với Chư Tôn đức Trung ương Giáo hội, các vị đã
đồng tình với dự án xây dựng Núi Quán Âm, dáng núi có biểu tượng Quán Âm Đồng
Tử, nội hàm là Đại điện tái hiện lịch sử Đức Phật Thích Ca thuyết kinh Pháp Hoa, khi
Ngài thuyết đến phẩm Phổ Môn nói về công hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm thì Đức
Quán Thế Âm xuất hiện với Tổng Đà La Ni là 84 vị Bồ Tát ứng thân, mỗi vị có công
hạnh khác nhau và tất cả đều lắng nghe tiếng kêu cứu của chúng sanh mà cứu khổ. Từ
ý nghĩa do đâu mà có Bồ Tát Quán Thế Âm, Phật giáo Bạc Liêu đã lập dự án này cũng
đồng thời thể hiện việc góp phần thực hiện Nghị quyết 02 của Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh khóa XIV về phát triển du lịch tại Bạc Liêu, đồng thời góp phần phát triển văn
hóa tâm linh cho khu vực, tạo điều kiện chuyển tải đạo đức Phật giáo đến với các
tầng lớp dân cư, nhắc nhở mọi người chấp hành tốt pháp luật nhà nước, hướng dẫn
- đồng bào Phật tử thực hiện đúng chánh pháp và tâm thành cống hiến xây dựng quê
hương xứ sở.
Theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật với tổng dự toán thi công công trình Núi Quan Âm
trên 100 tỉ đồng. Nguồn kinh phí được huy động từ sự phát tâm cúng dường của thập
phương bá tánh, các nhà doanh nghiệp và sự trợ duyên của Chư Tôn đức các nơi.
Quán Âm Phật Đài xây dựng chưa xong mà lại có kết quả khả quan đến thế,
chắc rằng trong tương lai nơi đây sẽ trở thành một điểm du lịch lớn của miền Tây
Nam bộ. Văn hóa tâm linh thật sự là một món ăn cần thiết trong đời sống con người,
nhất là trong du lịch lại là một yếu tố quan trọng trong vấn đề phục vụ và thu hút du
khách. Quán Âm Nam Hải Bạc Liêu chỉ mới ra đời trong một thời gian ngắn lại ở một
tỉnh lẻ cực Nam, nhưng nói về kết quả ban đầu về số lượng du khách thì cũng có thể
so sánh với Phổ Đà Sơn trong giai đoạn hình thành. Phổ Đà Sơn lúc chưa phát triển thì
cũng chỉ là một hòn núi vô danh trên một đảo nhỏ ở phía nam Trung Quốc, nhưng từ
khi người ta xây dựng tượng đài Quán Thế Âm thì nơi đây mau chóng chuyển mình từ
một nơi hoang vu không người qua lại chẳng mấy chốc đã trở thành một trong Tứ đại
danh sơn Phật tích của Trung Quốc, một điểm du lịch nổi tiếng khắp năm châu, đã góp
phần với ngành du lịch đem ngoại tệ về cho quê hương, làm giàu cho đất nước. Hi
vọng rằng Quán Âm Phật Đài Bạc Liêu trong tương lai sẽ thừa kế thành quả này để
trở thành một Phổ Đà Sơn thứ hai – một địa chỉ du lịch tuyệt vời ở miền cuối nước
Việt Nam.
2. Nhà thờ Tắc Sậy
Nhà thờ Tắc Sậy nằm trên quốc lộ 1A, hiện lạc tại Ấp 2, Xã Tân Phong, huyện
Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Theo hiểu biết của tác giả, địa danh Tắc Sậy Tắt là dòng nước
để đi tắt từ điểm này đến điểm khác để thu ngắn lộ trình. Ở Nam Bộ người ta thường
viết nhầm thành tắc. Tắc Sậy có nghĩa là đường tắt có nhiều cây sậy.
Về nhà thờ Tắc Sậy, nhà thờ này có từ lâu đời, nhưng trước đây chỉ là một ngôi
thờ được xây dựng bán kiên cố, nhỏ hẹp và lợp tôn. Để nhà thờ và phần mộ Linh mục
- Trương Bửu Diệp đang an nghỉ trong khuôn viên được tôn nghiêm và khanh trang hơn,
ngày 24 tháng 2 năm 2004, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi nhà thờ mới đã được
tổ chức. Sau đó, nhờ sự ủng hộ của giáo dân và khách thập phương, đến nay khu nhà
thờ mới (nay có tên là Thánh đường Tắc Sậy) đã cơ bản hoàn thành trên diện tích rộng
hàng ngàn m².
Nhà thờ Tắc Sậy mang một kiến trúc lạ và độc đáo, Nhà thờ chia làm 3 khu, khu
phía bên trái cổng đi vào là nơi yên nghỉ của Cha Trương Bửu Diệp, khu chính giữa có
3 tầng, tầng trệt dành cho khách hành hương nghỉ ngơi, tầng 2 và 3 là nơi dâng Thánh
lễ, tiền sảnh của tầng 2 rất rộng rải, thoáng mát. Còn khu 3 thì dành cho khách hành
hương. Theo như những tín đồ cho biết, ở đây có bức tượng cha Diệp ngồi cầm cuốn
tập và nếu như bạn có ước muốn hay cầu nguyện gì thì cứ ghi lên tập hay nói nhỏ vào
tai Cha thì Cha có thể sẽ nghe thấy. Đi sâu vào bên trong thì có quầy lưu niệm bán
sách, ảnh, tài liệu về Cha Diệp cũng như nhà thờ Tắc Sậy, các bạn sẽ được lấy ảnh
Cha miễn phí với đủ các size lớn nhỏ. Nơi đặt phần mộ được kiến trúc như một tòa
nhà rộng lớn, 3 nóc, nóc chính giữa cao hơn hai nóc phụ có gắn chiếc đồng hồ lớn tạo
nên một điểm nhấn nổi bật cho tòa nhà, một lối kiến trúc khá ấn tượng. Nhiều bức
tượng gỗ được bày trí theo tinh thần tín ngưỡng Công giáo và các bức tượng ở đây đa
số bằng gỗ đỏ quý đặc biệt là tượng của 12 vị thánh tông, và đều được những tín đồ
từ nước ngoài gửi về với những đường nét điêu khắc tinh vi càng khiến cho không khí
linh thiêng nơi đây thêm trang trọng.
Phanxicô Trương Bửu Diệp (thường được gọi là Cha Diệp) (1897 1946) là một
Linh mục Công giáo tại Việt Nam, được sinh ra tại ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang. Thân phụ là ông Micae Trương Văn Đặng (1860 1935), thân
mẫu là bà Lucia Lê Thị Thanh. Ông được Linh mục Giuse Sớm rửa tội ngày 2 tháng 2
năm 1897 tại họ đạo Cồn Phước và lấy tên Thánh là Phanxicô. Tháng 3 năm 1930, Cha
Diệp về nhận nhiệm sở tại Họ đạo Tắc Sậy. Năm 1945 1946, chiến tranh loạn lạc
khiến nhiều giáo dân phải di tản. Cha Bề Trên là Trần Minh Ký ở Bạc Liêu và cả
- người Pháp cũng kêu gọi Cha Diệp lánh mặt. Khi nào tình hình yên ổn thì trở về họ
đạo, nhưng ông vẫn một mực từ chối và trả lời:
“Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng chết giữa đoàn chiên. Tôi không đi đâu
hết ”.
Theo tin tức lưu truyền trong bổn đạo, thì ngày 12 tháng 3 năm 1946, Linh mục
Diệp bị bắt cùng với trên 70 người giáo dân tại họ Tắc Sậy. Tất cả bị lùa đi và nhốt
chung tại lẫm lúa kho lúa của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Sau đó vài ngày giáo dân đã tìm
thấy xác Cha Diệp dưới một cái ao tại phần đất của ông giáo Sự, với vết chém sau ót
ngang mang tai và thân xác trần trụi, và họ đã đem chôn cất trong phòng Thánh của nhà
thờ Khúc Tréo (nay thuộc xã An Trạch, huyện Ðông Hải, tỉnh Bạc Liêu). Về vấn đề ai
đã bắt và giết ông, theo bảng tóm tắt tiểu sử Cha Trương Bửu Diệp hiện dựng tại nhà
an nghỉ của ông thì ông bị bắt "vì sự tranh chấp giữa các giáo phái". Năm 1969, hài cốt
Linh mục Trương Bửu Diệp được cải táng về trong khuôn viên nhà thờ Tắc Sậy.
Ngày 4 tháng 3 năm 2010, hài cốt của ông táng lại được cải táng lần nữa, nhưng chỉ
cách chỗ cũ khoảng hơn chục mét, và cũng ở trong khuôn viên nhà thờ Tắc Sậy. Hàng
năm, nhất là ngày 11 và 12 tháng 3 dương lịch, đông đảo người dân từ nhiều nơi đến
hành hương và tham quan Thánh đường Tắc Sậy và phần mộ của Cha Diệp.
Có tới 70% khách thập phương xuống Giá Rai kính ngưỡng Cha Diệp là người
ngoại đạo hoặc Việt Kiều từ nước ngoài về. Vì sao? Có rất nhiều câu chuyện về Cha
Diệp linh ứng và tiếng vang đồn xa nên lượng khách du lịch đến càng đông, có những
người tin tưởng đến độ cầu nguyện trong nhà thờ, trước mộ của Cha chưa đủ, họ còn
hỏi thăm, tìm đến chiếc ao nhỏ của gia đình ông giáo Sự ngày xưa để chiêm ngưỡng
nơi Cha đã bị sát hại. Nhà thờ Tắc Sậy là một địa chỉ hành hương hằng năm được
không ít các tín hữu và cả những người thuộc tôn giáo bạn cùng đổ về đây tề tựu. Đến
đây, mọi người cùng thành tâm khấn nguyện cầu muôn sự bình an. Và đây cũng chính
là điểm đến hành hương hấp dẫn thu hút đông đảo lượng du khách đến với du lịch văn
hóa tâm linh, mang lại cho con người sự tĩnh tâm, thanh thản, gạt bỏ những ưu phiền,
- lo toan thường nhật với mong muốn tạo dựng cho mỗi con người một cuộc s ống yên
vui, tốt lành, bao dung và đầy lòng nhân ái. Nhà thờ Tắc Sậy là một trong những điểm
du lịch nổi tiếng nằm trong tour tuyến của du khách trong và ngoài nước, đây là một
điểm du lịch rất đông khách nước ngoài đến tham quan và chiêm bái.
3. Chùa Xiêm Cán
Chùa Xiêm Cán là một ngôi chùa của người Khmer thuộc xã Hiệp Thành, thị xã
Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Mặc dù chưa phải là ngôi chùa cổ nhất, nhưng có thể nói,
chùa Xiêm Cán là một trong những ngôi chùa Khmer được liệt vào hàng lớn nhất, đẹp
nhất và lộng lẫy nhất trong hệ thống chùa Khmer ở Nam Bộ.
Được xây dựng năm 1887, chùa Xiêm Cán mang kiến trúc Angkor của người
Campuchia, thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và
cầu thang. Đối với chùa Khơme, chánh điện thường quay về hướng Đông vì họ cho
rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây sang Đông.
Bên trong chánh điện (hay còn gọi là sala) của chùa Xiêm Cán đã phản ánh tính
thẩm mỹ rất cao của người Khơme với những hoa văn độc đáo. Ở vị trí trung tâm trên
nóc sala trang trí hình ảnh đền Angkor Wat – nơi khởi nguồn của phong cách kiến trúc
Khơme.
Mỗi hạng mục trong khuôn viên chùa là một công trình kiến trúc đặc sắc, tiêu
biểu cho lối kiến trúc đặc trưng của người Khmer Nam bộ. Trong đó, nổi lên vẻ đẹp
lộng lẫy của gian chính điện, trang nghiêm khoe sắc với trời xanh, nằm ngay trung tâm
của khuôn viên, trên nền cao 1,5m, nhiều bậc cấp và có hành lang bao quanh. Bên trong
chính điện là hai hàng cột cao to nâng đỡ mái chùa. Mái chùa được cấu trúc thành
nhiều tầng lớp chồng lên nhau, tạo ra khoảng không gian cao vút, hòa với đỉnh nhọn
như một chóp tháp. Gian chính điện là gian trang trọng nhất và cũng là thiêng liêng
nhất, được đặt một tượng Phật rất to ngự trên cao. Gian chính điện này được trang trí
nhiều hoa văn, họa tiết, những nét điêu khắc, các phù điêu và nhiều bức bích họa hết
sức sinh động, làm cho ngôi chùa vốn dĩ trang nghiêm lại càng trang nghiêm hơn.
- Quan sát trên những hàng cột là phù điêu các tiên nữ và những quái vật. Theo triết
lý của người Khmer đó là những thử thách đối với Phật tử trên bước đường tu thành
chánh quả. Trên mái vòm và cầu thang chùa đều chạm trổ họa tiết có hình rắn vì họ
quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy
hiểm này. Chùa Xiêm Cán mang kiến trúc Angkor của người Campuchia, thể hiện ở
những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang. Đối với chùa
Khơme, chánh điện thường quay về hướng Đông vì họ cho rằng con đường tu hành
của Phật đi từ tây sang đông.
Người Khmer tu theo thuyết của Phật Thích Ca nhưng theo hướng của Phật giáo
Tiểu Thừa nên trong Chánh điện thờ Phật Thích Ca là chính. Một điều đặc biệt nữa là
xung quanh 4 bức tường của chánh điện bày trí rất nhiều hình vẽ giải thích quá trình tu
hành khổ luyện của Đức Phật từ lúc sinh ra, đến lúc làm Thái tử cho đến khi vào cõi
Niết bàn. Đối diện chánh điện là cột trụ biểu, là hình tượng của con rắn 5 đầu, dùng
để thắp nến vào những ngày lễ ngụ ý rằng giáo lý Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân
loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn đã thiện.
Dù cuộc sống còn không ít những lo toan nhưng dân tộc Khmer rất mộ đạo. Không chỉ
gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc, họ còn cố gắng xây dựng cho những ngôi chùa
ngày càng to lớn và đẹp đẽ hơn.
Không chỉ choáng ngợp bởi vẻ bề thế và lộng lẫy của chùa Xiêm Cán, người
Khmer ở đây còn rất mến khách. Họ thật thà, chân chất, hiền lành và luôn cần cù, sáng
tạo. Qua bao đời người, họ đã lao động, vun đắp tạo cảm giác thư thái cho những
người ghé thăm chùa. Vào những dịp lễ hội lớn như lễ Ok Om bok, lễ Chol Chnam
Thmay, lễ Đôn Ta, không khí chùa thật rộn ràng. Ngày nay, người ta cảm nhận một
sắc thái văn hóa đang phồn thịnh và rất đặc trưng của người Khơme đang từng ngày
được gìn giữ, phát huy nhằm làm đẹp hơn, phong phú và đa dạng hơn cho văn hóa
Việt Nam.
- 4. Lăng cá Ông Nam Hải
Tọa lạc tại ấp 1, khu vực II, thị trấn Gành Hào (gần ngã tư đường vào thị trấn
Gành Hào và đường ra đê biển), Lăng Ông nằm uy nghi giữa một vùng trời biển, là
điểm hẹn tâm linh, nơi gửi gắm niềm tin của bà con ngư dân trong những chuyến khơi
xa. Ngôi miếu này được di dời từ ngoài vàm sông Gành Hào vào (vàm sông này ngày
nay đã bị sóng đánh lở không còn vết tích).
Tại Lăng Ông hiện nay vẫn còn lưu giữ rất nhiều xương cá Ông. Tuy chưa có
kết quả khoa học nào thẩm định được độ tuổi của những chiếc xương này, nhưng
theo những người cao niên ở địa phương thì ít nhất cũng khoảng 100 năm tuổi.
Tương truyền rằng, cá Ông là một linh vật hết sức linh thiêng, là “tấm áo choàng” của
Phật Bà Nam Hải, vị thần hộ mệnh cho thuyền bè đi biển. Khi sóng to gió lớn, nếu
chẳng may tàu thuyền gặp nạn thì cá Ông sẽ xuất hiện để hộ tống thuyền bè gặp nạn
vào chỗ cạn, an toàn. Và ngược lại, khi cá Ông gặp nạn hoặc “lụy”, xác dạt vào bờ
đều được ngư dân tổ chức an táng và thờ cúng thật trang trọng. Những ghe tàu, hoặc
ngư dân nào phát hiện Ông lụy đầu tiên sẽ được “đội” tang Ông. Dân hạ bạc tin rằng,
ai gặp cá Ông “lụy” là may mắn.
Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, phần Lục tỉnh Nam Việt có nhấn mạnh
“Duy chỉ có nước Nam từ sông Linh đến Hà Tiên thường có linh ứng, còn ở biển khác
thì không có sự tế độ ấy”. Tức nói đến việc cá Ông cứu người ngoài khơi. Điều này
cho thấy, rõ ràng cá Ông là một vị thần biển riêng ở phương Nam. Thực tế này mãi
đến hôm nay không có gì thay đổi.
Năm 2010, ngư dân thị trấn Gành Hào đã phát hiện và đưa vào bờ một “Ông
Nhám” dài 9,7m, nặng khoảng 13 tấn, đã được Viện Hải dương học Nha Trang ướp
hóa chất bảo quản, xử lý xác lấy da nhồi bông. Và hiện xác cá Ông được đặt trang
trọng tại Lăng Ông Nam Hải phục vụ du khách hành hương, chiêm bái. Đến nay, lễ
hội tại các lăng, miếu cá Ông ở Nam bộ cũng như các lễ hội khác nói chung, phần lễ
nặng hơn phần hội, nhằm thể hiện niềm tin thiêng liêng vào sức mạnh vô hình do cá
- Ông mang lại. Phần lễ chính rước cá ông sẽ diễn ra trong ngày mùng 10/3 (âm lịch)
vào dịp Giỗ tổ Hùng Vương. Đoàn sẽ diễu hành quanh thị trấn Gành Hào và tiến lên
10 tàu cá lớn trang trí cờ hoa lộng lẫy, tiến ra biển thỉnh ông. Được biết, lăng thờ cá
ông tại thị trấn Gành Hào hiện đang sở hữu kỷ lục về bộ da cá voi lớn nhất Việt Nam.
Hãy đến với Lăng Ông Nam Hải vào dịp này để có thể hòa mình vào dòng người
hối hả trên những chiếc ghe cào giong thẳng ra cửa biển để rước Ông. Sau đó thưởng
thức những món ăn đặc sản, nhâm nhi vài ly rượu đế và nghe sáu câu vọng cổ hay một
điệu hò kéo lưới ngọt ngào để thêm gắn bó với con người xứ biển chân chất, giàu
lòng hiếu khách.
nguon tai.lieu . vn