Xem mẫu

  1. KHOA HỌC XÃ HỘI Tương thông  THIÊN – ĐỊA – NHÂN trong thơ  LÝ QUÝ LAN Đặng Thị Bích Hồng1, Dương Tuấn Anh2 Đại học Hùng Vương, 2Đại học Sư phạm Hà Nội 1 Nhận bài ngày 14/11/2017, Phản biện xong ngày 27/11/2017, Duyệt đăng ngày 28/11/2017 TÓM TẮT H ệ thống văn học cổ điển Trung Hoa nói chung, kho tàng Đường thi nói riêng không đứng ngoài truyền thống của một nền văn hóa nông nghiệp với kinh nghiệm thuận hòa, nương tựa vào thiên nhiên. Trong hơn 200 nữ sĩ đời Đường, Lý Quý Lan là nhà thơ duy nhất được tôn xưng “Nữ trung thi hào”. Đọc thơ Lý Quý Lan từ mối quan hệ tương thông Thiên – Địa – Nhân, chúng tôi nhận diện con đường sáng tạo của nữ thi nhân như là hành trình sử dụng ngôn ngữ để mở ra mối tương cảm đặc biệt giữa con người và thế giới tự nhiên. Từ khóa: Lý Quý Lan, con người, thiên nhiên. Đ ất nước Trung Hoa rộng lớn với chiều sâu văn hóa hàng nghìn năm đã trở thành một trong những cái nôi của văn hóa, mối tương cảm đặc biệt giữa con người và thế giới tự nhiên. Tìm hiểu mối quan hệ tương thông Thiên – Địa – Nhân trong thơ văn minh nhân loại. Đặc trưng quan trọng Lý Quý Lan, bài viết này hướng đến nhận của cái nôi ấy là tính chất nông nghiệp, diện tâm thế con người trong môi trường nông thôn, nơi con người tồn tại hài hòa tự nhiên với những núi non, cỏ cây, sông cùng thế giới tự nhiên. Cũng vì thế, văn nước, bầu trời… Cũng từ đó, thơ xác định học cổ điển Trung Hoa nói chung, kho tàng một thái độ ứng xử, một nguyên tắc chung Đường thi nói riêng xuất hiện không ít bài sống cùng tự nhiên của con người cổ điển thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên. Trong hơn Đông phương. 200 nữ sĩ đời Đường, Lý Quý Lan là nhà thơ duy nhất được tôn xưng “Nữ trung thi hào”. 1. Mô hình Thiên – Địa – Nhân trong Cũng như sáng tác của nhiều thi nhân thời truyền thống tư tưởng phương Đông ấy, thơ Lý Quý Lan phản ánh mối quan hệ Con người Á Đông trong sâu thẳm truyền hài hòa giữa con người với tạo vật thiên thống vốn gần gũi với thiên nhiên và nương nhiên. Con đường sáng tạo của nữ thi nhân tựa vào thiên nhiên mà sống. Nhìn lại truyền là hành trình sử dụng ngôn ngữ để mở ra thống tư tưởng phương Đông, có thể nói, sự Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017  21
  2. KHOA HỌC XÃ HỘI coi trọng thiên nhiên trở thành điểm gặp liên hệ ấy có thể đạt tới trạng thái cân bằng, nhau giữa các trường phái tôn giáo, triết học thống nhất. cổ điển. Quan niệm về sự tương thông Thiên Nếu Nho giáo nói tới “Thiên, Nhân hợp – Địa – Nhân trong tư tưởng Nho, Đạo, Phật nhất” để nhấn mạnh ý thức đạo đức thì Đạo như một minh chứng của thái độ tôn sùng giáo khẳng định “Thiên, Nhân hòa hợp” để thiên nhiên, đồng nhất bản thể con người theo đuổi sự hài hòa giữa tâm tính con người với bản thể tự nhiên. với thế giới tự nhiên. “Tự nhiên” là cái đích “Thiên nhân hợp nhất” của Nho gia được cao nhất mà triết thuyết Đạo gia hướng tới. đánh giá là khái niệm cổ điển nhất trong Đạo đức kinh nhấn mạnh: “Nhân pháp địa, truyền thống văn hóa Trung Hoa. Vạn vật địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp trong trời đất và con người hợp thành nhất tự nhiên”. Quan điểm này bắt nguồn từ tư thể, con người là một bộ phận của thế giới tưởng Thiên – Địa – Nhân nhất thể có chung tự nhiên. Do vậy, con người phải tuân theo bản nguyên là Khí. Như vậy, trạng thái nhất quy luật tự nhiên, nhân tính phải thống nhất thể này là thuộc tính của tự nhiên, sự cân với thiên đạo. “Khi ‘trung’ – một trạng thái bằng là trật tự của tự nhiên. Nguyên tắc xử của ‘tâm’ (tuyệt đối bình lặng trước những thế được đề xuất ở đây là “vô vi nhi vô bất tác động bên ngoài) – đi vào mỗi con người vi”, kêu gọi con người trở về với tự nhiên, và tạo nên được sự thống nhất thiên – địa – cảm nhận đạo vô vi của vũ trụ. Và trong thế nhân, thì đó là lúc ‘hòa’ xuất hiện. Nói cách giới tự nhiên ấy, con người bình đẳng với tất khác, triết lý Nho giáo khuyến dụ, giữa con cả các sinh loài khác. người và thiên – địa có một khoảng cách hiện Quan niệm về “vô” của Đạo gia “hầu hữu, nhưng bất kể trường hợp nào con người như song hành với quan niệm “tính không” cũng không nên tách mình ra khỏi tự nhiên (sunyata) – tầm quan trọng của việc đạt tới và không nên tìm hiểu nó một cách lãnh đạm trạng thái vô niệm, hư không, giải thoát tâm mà cần ‘hòa trộn hài hòa nội tâm vào ngoại thức khỏi mọi tri kiến được nhấn mạnh trong cảnh’ – một tiền đề cho việc con người, cả xưa nhiều kinh sách Phật giáo” [4, tr.215]. Phật và nay, tham gia vào sự cộng hưởng nội tại giáo Thiền tông chủ trương tu thân xuất thế. của các sinh lực trong tự nhiên là chuyển hóa Muốn tham thiền đạt ngộ, điều kiện khách nội tại của chính mình” [5, tr.454-455]. Tuy quan là con người phải có một không gian nhiên, là một học thuyết đạo đức, Nho giáo thanh tĩnh. Trời, đất tĩnh lặng, thiên nhiên khi khẳng định trạng thái tương thông giữa êm ả là không gian lý tưởng để con người con người và vũ trụ vẫn đặt con người vào vị đạt tới trạng thái “tĩnh lự”, “minh tưởng”— trí trung tâm. “Để tìm căn cứ lý luận từ thế trạng thái thống nhất hài hòa giữa con người giới khách quan, người ta đem luân thường và khách thể tự nhiên. đạo lý của con người gán cho vạn vật trong Như vậy, tam giáo phương Đông có thể trời đất, biến trời thành hóa thân của đạo đức đề xuất những quan niệm khác nhau về vị rồi lại lấy thiên đạo chứng minh cho nhân thế của con người trong mối quan hệ với thế” [1, tr.76]. Giữa con người và vũ trụ tồn tự nhiên nhưng xét cho cùng, cả Nho, Đạo, tại mối liên hệ tương cảm; và dựa vào khả Phật đều khẳng định sự tương liên giữa con năng điều chỉnh hành vi của con người, mối người và đất trời như là trạng thái sinh tồn lý 22  Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017
  3. KHOA HỌC XÃ HỘI tưởng. Tư tưởng coi trọng thiên nhiên trong vật muôn vẻ ấy, thơ Lý Quý Lan khắc họa truyền thống Á Đông này chi phối cách con diện mạo thiên nhiên với những sinh loài, người thiết lập một thái độ, một nguyên tắc những cảnh tượng cụ thể: một cảnh trời, ứng xử với thế giới tự nhiên. Văn học Á một ngọn núi, một cành hoa… Tuy nhiên, Đông, vì thế, nổi tiếng với những sáng tác trong thơ Lý Quý Lan, những cảnh tượng ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, khắc họa mối ấy không chỉ là điểm gợi hứng, là nền tảng quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự cho một cảm xúc ký gửi. Thiên nhiên quấn quýt, giao hòa. hiện lên trước hết mang những đặc tính Nhìn vào lịch sử gần 300 năm thời đại tự nhiên vốn có của nó. Đó là một cảnh Đường thi, không thể không kể đến một tượng đăng sơn: dòng thơ nổi tiếng lấy cảnh vật nước non làm Úc úc sơn mộc vinh đề tài ngâm vịnh chủ đạo: dòng thơ sơn thủy Miên miên dã hoa phát điền viên với những tên tuổi lừng danh như (Cây trên núi tươi tốt Hoa dại nở miên man) Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Lưu Trường Khanh, Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên... Xét Là một khung cảnh ngày xuân trước riêng trong trong bậc nữ thi nhân, Lý Quý khuê phòng: Lan “đã vượt khỏi thói tục, tu dưỡng thứ giáo Bách xích tinh lan thượng dục thanh tịnh, tâm sự những xúc cảm sâu Sổ chu đào dĩ hồng kín, lưu luyến những cảnh sắc tươi đẹp, tiêu (Trên thành giếng thẳm sâu Đào rực sắc muôn hoa) dao với công việc nhàn hạ, luôn nghĩ về những điều trong trẻo như mây trắng nước xanh” [6, Là một không gian phủ ngập bức màn hoa tr.111]. Thơ Lý Quý Lan nhìn từ truyền thống tường vi: tư tưởng phương Đông là một thể nghiệm Đương không xảo kết linh lung trướng về sự tương thông Thiên – Địa – Nhân, sự Trứ địa năng phô cẩm tú nhân gắn kết hài hòa giữa con người và thế giới (Màn hoa khéo kết không trung thắm Đệm gấm trải phơi mặt đất xanh) tự nhiên. Miêu tả diện mạo sinh loài, Lý Quý Lan 2. Thiên – Địa hữu linh: bức tranh không sử dụng những tính từ gợi sắc màu sinh loài đa diện trong thơ Lý Quý Lan trung tính, những động từ thể hiện sự tĩnh Truyền thống thơ ca cổ điển nhìn vạn tại, hoàn kết. Nữ thi nhân đưa vào thơ những vật trong trạng thái tĩnh tại muôn thuở, từ ngữ cá thể hóa sắc thái của sự vật, cụ thể miêu tả vạn vật với những thuộc tính tự hóa cảnh tượng. “Mộc” phải “vinh”, “dã nhiên của bản nguyên thế giới. Những hoa” phải “phát”, “đào” phải “hồng”, “tường trang thơ điền viên của Vương Duy, Mạnh vi” phải dệt thành “linh lung trướng”… Hạo Nhiên, Liễu Tông Nguyên tái hiện vẻ Hình ảnh thơ trở thành minh chứng giản dị đẹp nguyên sơ, khách quan của thế giới tự cho tinh thần “dĩ thiên hợp thiên”, “điêu trác nhiên, của những ruộng vườn, đồng bãi, phục phác” của Đạo gia. Vạn vật không đẹp sông núi, suối khe… Con người hiện lên ở sự đẽo gọt, chỉnh sửa, ngay cả khi đó là sự trong tâm thế soi ngắm và cảm khái. Cùng đẽo gọt, chỉnh sửa khéo léo. Vạn vật đẹp ở chung nguồn mạch tái hiện thế giới tạo chính sự chân thực vô vi của nó. Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017  23
  4. KHOA HỌC XÃ HỘI Tuy nhiên, điều chúng tôi muốn nói nó như một sự tương thông, tương hợp với nhiều hơn về bức tranh sinh loài trong thơ tinh thần con người. Lý Quý Lan là những câu thơ phóng chiếu Từ cách thức phổ cảm giác chủ thể vào cảm giác của chủ thể lên vạn vật. Nó thiết vạn vật như vậy, nữ sĩ nhận ra cây dương liễu lập một “luật lệ” riêng của thơ Lý Quý Lan cũng thẫn thờ ly biệt, con thuyền cũng cô trong tương quan truyền thống thơ cổ điển. độc lẻ loi: Nếu như vịnh cảnh trong thơ cổ tạo ấn Tương khán chỉ dương liễu tượng về bức tranh thiên nhiên với trạng Biệt hận chuyển y y. thái tự nhiên cố hữu của nó thì thiên nhiên Vạn lý Giang Tây thủy trong thơ Lý Quý Lan lại phảng phất đời Cô chu hà xử quy. sống tinh thần con người. Tái hiện khung (Nhìn nhau chỉ liễu rủ Thẫn thờ chia tay nhau cảnh và tâm thế chia tay đêm trăng sáng, Dòng Giang Tây muôn dặm nhà thơ viết: Thuyền lẻ loi về đâu) Ly nhân vô ngữ nguyệt vô thanh Minh nguyệt hữu quang nhân hữu tình. Lấy con người làm tâm điểm để nhìn ra Biệt hậu tương tư nhân tự nguyệt thế giới, nhà thơ mô tả âm thanh tiếng suối Vân gian thủy thượng đáo tằng thành. theo chuẩn mực âm thanh tiếng đàn: (Người đi không nói trăng lặng thinh Thiếp gia bổn trụ Vu Sơn vân Trăng có ánh vàng người có tình Vu Sơn lưu tuyền thường tự văn. Xa cách người trăng chung nỗi nhớ Ngọc cầm đàn xuất chuyển liêu huyến Chân mây mặt nước đến tầng thành) Trực thị đương thì mộng lý thính. (Nhà thiếp trong mây Vu Sơn “Vô thanh” là thuộc tính cố hữu của Vẫn nghe tiếng suối chảy dồn nơi đây “nguyệt”, nhưng khi “nguyệt vô thanh” đặt Mênh mang đàn ngọc tiếng bay trong thế đối xứng với “ly nhân vô ngữ” Khác chi tiếng nhạc đong đầy miên man) thì cái lặng thinh của trăng ấy trở thành một sự đồng vọng hữu thức với tâm trạng Rõ ràng, thiên nhiên trong thơ Lý Quý con người trong khung cảnh biệt ly. Cũng Lan không phải là một trạng thái hóa sinh như thế, “minh nguyệt hữu quang” đối đã hoàn tất mà là một quá trình hóa sinh với “nhân hữu tình”. Ánh sáng của trăng đang diễn tiến. Nó không tĩnh tại, không không còn thuần túy là một thuộc tính tự bất biến mà ngược lại, ẩn tàng sinh khí, nhiên nữa mà nó chuyên chở “tình” trăng, mang chứa niềm giao cảm của thế giới chuyên chở xúc cảm phút chia tay. Cho con người. nên câu thơ đồng nhất “nhân tự nguyệt”, con người và vầng trăng cùng chung nỗi 3. Nhân tâm đối cảnh: nhận diện tương tư. Xét cho cùng, đây chính là cách thế giới quan trong thơ Lý Quý Lan thi nhân thiết lập mối quan hệ giữa con Trong thơ ca cổ điển Trung Hoa nói người và vũ trụ. Nhà thơ phóng chiếu cái chung và thơ Đường nói riêng, mô hình thơ nhìn chủ quan của mình lên vạn vật. Vạn không đơn thuần là mô hình thi luật mà còn vật từ đó phát lộ đời sống tinh thần của là mô hình thế giới quan. Và điểm nổi bật 24  Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017
  5. KHOA HỌC XÃ HỘI nhất của mô hình thế giới quan đó là mô Tâm viễn phù vân tri bất hoàn hình tâm – vật: kết cấu bài thơ thường đi Tâm vân tịnh tại hữu vô gian. theo trình tự từ vật đến tâm hoặc từ tâm đến Cuồng phong hà sự tương diêu đãng Xuy hướng nam san phục bắc san. vật. Thơ “không theo đuổi mô phỏng cảnh (Lòng theo mây nổi mãi biệt ly vật khách quan như thật, mà ra sức sáng tạo Giữa khoảng có – không đến lại đi và biểu hiện cái ý cảnh có đặc điểm cá tính, Hà cớ cuồng phong xoay chuyển thổi tức là cảm xúc chủ quan của tác giả giao hòa Nam sơn bay tới, Bắc sơn về) với cảnh vật khách quan mà hình thành nên cảnh giới nghệ thuật – tức cảnh sinh tình, gửi Ở đây, điểm nổi bật trong cái nhìn của tình vào cảnh và miêu tả cái tình của vạn nhà thơ là sự thống nhất giữa tâm và vật, vật” [2, tr.706]. giữa tiểu ngã và đại ngã. Kết cấu thơ dù đi Thơ Lý Quý Lan nhìn chung đứng ngoài từ vật đến tâm hay từ tâm đến vật thì giữa quy định ngặt nghèo của những luật lệ thơ tâm và vật đều tồn tại sự hô ứng lẫn nhau, ca cứng nhắc. Trong toàn bộ sự nghiệp thơ rặng cỏ xanh nhuốm sắc màu ly biệt, tâm tư của mình, Lý Quý Lan hầu như không sáng trôi theo mây trời. Bản thân sự hô ứng tâm – tác theo thể luật Đường. Tuy nhiên, những vật ấy tạo ra cho thơ Lý Quý Lan vẻ đẹp của vần thơ tự do phóng khoáng của nữ sĩ về cơ trạng thái điềm tĩnh, của sự giao hòa. bản không phá vỡ mô hình thế giới quan Để miêu tả mối quan hệ thân thiết, hòa tâm – vật. Bài thơ có thể mở đầu là một hợp giữa con người và thiên nhiên, để gợi không gian ngoại cảnh, kết lại bằng không thái độ của con người trước thế giới tự nhiên, gian tâm trạng: Lý Quý Lan vận dụng linh hoạt kho ngôn Lưu thủy Xương Môn ngoại ngữ Đường thi với những con chữ vừa biểu Cô chu nhật phục tê (tây). ý, vừa biểu cảm, khi “vọng thủy”, lúc “đăng Ly tình biến phương thảo sơn”, khi “ngưỡng khan minh nguyệt”, lúc Vô xứ bất thê thê. “phủ miện lưu ba”… Trong thơ Đường nói Thiếp mộng kinh Ngô uyển chung, trạng thái đối cảnh gần như đi liền Quân hành đáo Diệm khê. với sự tương thông, tương cảm giữa nhân Quy lai trọng tương phóng Mạc học Nguyễn lang mê. tâm và thiên cảnh. Cho nên nhắc tới “đăng (Ngoài Xương Môn nước chảy cao”, “viễn vọng” cũng tức là nhắc tới “hoài Thuyền theo ráng về tây cổ”, “tư hương”, đối diện “minh nguyệt” là Phương thảo nhuốm ly biệt gợi nhắc “cố hương”… Thơ Lý Quý Lan tái Đâu đâu cũng hương đầy hiện cảnh huống đăng cao như một bối cảnh Vườn Ngô thiếp mơ tới để giãi bày xúc cảm: Sông Diệm chàng vui vầy Về lại cùng dò xét Vọng thủy thí đăng sơn Chớ học Nguyễn lang say) Sơn cao hồ hựu khoát. Tương tư vô hiểu tịch Cũng có khi bài thơ được cấu trúc theo Tương vọng kinh niên nguyệt. chiều ngược lại, mở đầu bằng tâm trạng, kết (Lên núi ngắm nước non lại bằng cái nhìn ra ngoại cảnh: Hồ rộng, núi chon von Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017  25
  6. KHOA HỌC XÃ HỘI Nhớ nhau quên sớm tối phóng khoáng mà đa cảm trong tình bạn, Năm tháng vẫn sắt son) tình đời và trong cả tình yêu. Bài thơ được viết sau buổi Lý Quý Lan chia tay danh sĩ Chu Phóng để Chu Phóng phụng chỉ đi làm quan ở tỉnh Giang Tây. Nỗi “tương C ó thể nói, Thiên – Địa – Nhân hợp nhất là tư tưởng bao trùm trong triết lý phương Đông. Nó quy tụ mọi tư tưởng tôn tư”, “tương vọng” giữa hai người bạn tâm giao giáo và tạo nên bản sắc văn học nghệ thuật cần đến chiều kích của “sơn cao”, “hồ khoát”. phương Đông là tình yêu thiên nhiên. Nhìn Cũng như thế, trong tình yêu, nữ thi nhân từ trường hợp thơ Lý Quý Lan, quan điểm bày tỏ nỗi sầu oán tương tư gắn với không tương thông Thiên – Địa – Nhân đã làm nên gian của “cao lâu”, của “nguyệt hoa mãn”: diện mạo bức tranh sinh loài đa sắc và căng Huề cầm thượng cao lâu đầy sự sống, đã kiến tạo sự hài hòa nhân Lâu hư nguyệt hoa mãn. tâm thiên cảnh như một nguyên tắc thế giới Đàn trứ tương tư khúc quan. Thơ Lý Quý Lan, vì thế, góp thêm một Huyền tràng nhất thì đoạn. tiếng nói khẳng định nguyên tắc ứng xử hài (Lầu cao ôm đàn gảy hòa giữa con người với thế giới tự nhiên Hoa trăng ngập lầu không của thơ Đường nói riêng và thơ ca cổ điển Tương tư đàn một khúc phương Đông nói chung. Đứt dây lẫn cõi lòng) Trong thời đại Đường thi, các danh sĩ Tài liệu tham khảo đăng cao để phóng cái nhìn ra xa, để thâu [1]  Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý chủ cảm cái mênh mông của không gian, cái biên (2004), Đại cương lịch sử văn hóa Trung vô tận của thời gian. Nữ sĩ họ Lý tái hiện Quốc. (Lương Duy Thứ dịch). Nxb VHTT. những cảnh huống đăng cao, song tâm thế [2]  Đường Đắc Dương chủ biên (2003), Cội con người đăng cao lại hướng về những xúc nguồn văn hóa Trung Hoa. (Nguyễn Thị Thu cảm đặc trưng phái tính. Nó làm nên cá tính Hiền dịch). Nxb Hội Nhà văn. sáng tạo của thi nhân trong bức tranh nghệ [3]  Đỗ Văn Hiểu, Văn học sinh thái và lý luận thuật thời Đường. Trước đó mấy trăm năm, phê bình sinh thái. http://www.dovanhieu. Đào Uyên Minh đã đưa thơ về với ruộng net/2015/08/van-hoc-sinh-thai-va-li-luan- vườn quen thuộc như là không gian nương phe-binh.html náu bình yên, lánh xa thế thái. Đến phong [4]  Michael Jordan (2004), Minh triết Đông khí Thịnh Đường, Vương Duy, Mạnh Hạo phương (Phan Quang Định dịch). Nxb Nhiên khắc họa thiên nhiên trong vẻ đẹp Mỹ thuật. thanh tân, bình dị, quyện hòa đời sống con [5]  Trần Hải Yến (2016), “Nghiên cứu, phê bình người để truy tầm trạng thái an nhiên, tự hiện đại và di sản văn hóa: Nhìn từ cách tại, thanh nhàn… Thơ Lý Quý Lan trở về sinh thái học tìm về Tam giáo”, Văn học với tự nhiên nhưng không phải để ảnh xạ Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập tâm tư nhàn nhã. Thiên nhiên hòa điệu với quốc tế, Tập 1. Nxb Khoa học Xã hội. chiều sâu nội tâm con người song đó là chiều [6]  Nhiều tác giả (1995), Đường tài tử truyện sâu nội tâm của một cái tôi nữ giới – cái tôi toàn thích. NXB Nhân dân Quý Châu. 26  Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017
  7. KHOA HỌC XÃ HỘI SUMMARY The correspondence among Heaven, Earth, and Human in ly quy lan’s poetry Dang Thi Bich Hong1, Duong Tuan Anh2 1Hung Vuong University, 2Hanoi National University of Education T he classical Chinese literature system in general, Tang treasures in particular, did not stand outside of the tradition of an agricultural culture, with a harmonious experience, relying on nature. Among more than 200 Tang dynasty artists, Ly Quy Lan was the only poet honored as the “Female Poet”. Reading Ly Quy Lan’s poetry from the correspondence among Heaven, Human and Earth, we identify her path of cre- ation as the journey of using language to open up the special relationship between human and the natural world. Keywords: Ly Quy Lan, human, nature. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ ... (tiếp theo trang 20) SUMMARY Ho Chi Minh’s heritage on the solution of women in the future of the twenty-year of the 20th century Tran Van Hung, Chu Thi Thanh Hien Faculty of Social Sciences & Humanities – Hung Vuong University I n the twenties of the 20th century, the struggle for women’s rights was a critical issue in the world, besides the struggle for national liberation, against imperialism. To absorb the progressive ideas of Marxism–Leninism and the movement of women’s rights in the world, Nguyen Ai Quoc–Ho Chi Minh made important contributions to the movement. The thought of Nguyen Ai Quoc on women’s liberation during this period is reflected in his writings and actions with the basic contents: Awareness of the situation of women and the world in Vietnam; The role of women; The goal is to fight for women’s liberation and implement “gender equality”. Keywords: women; women’s liberation; gender equality Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017  27
nguon tai.lieu . vn