Xem mẫu
- Tượng Nữ thần Tự do
- Đảo Liberty
Thành phố New York
Vị trí
Tiểu bang New York, Hoa Kỳ[1]
Tọa độ 40°41′21″B 74°2′40″T
28 tháng 10 năm 1886
Khánh thành
Frédéric Auguste Bartholdi
Kiến trúc sư
3,2 triệu (năm 2007)[2]
Du khách
Cục Công viên Quốc gia Mỹ
Chủ quản
Di sản thế giới của UNESCO
Văn hóa
Loại
i, vi
Tiêu chuẩn
1984 (Phiên họp thứ 8)
Công nhận
- 307
Số tra cứu
Hoa Kỳ
Quốc gia
Châu Âu và Bắc Mỹ
Vùng
Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ
Tên chính thức: Tượng đài Quốc gia Nữ thần Tự do, Đảo
Ellis và Đảo Liberty
15 tháng 10 năm 1966[3]
Công nhận
66000058
Số tra cứu
Tượng đài Quốc gia Hoa Kỳ
15 tháng 10 năm 1924
Công nhận:
Tổng thống Calvin Coolidge[4]
Quyết định
Danh thắng Thành phố New York
- Cá biệt
Loại
14 tháng 9 năm 1976[5]
Công nhận
Tượng Nữ thần Tự do trong Bến cảng New York
Tượng Nữ thần Tự do (tên đầy đủ là Nữ thần Tự do soi sáng thế giới; tiếng
Anh: Liberty Enlightening the World; tiếng Pháp: La Liberté éclairant le
monde) là một tác phẩm điêu khắc theo phong cách tân cổ điển với kích thước cực
lớn, đặt trên Đảo Liberty tại cảng New York. Tác phẩm này do kiến trúc sư
Frédéric Bartholdi thiết kế và được khánh thành vào ngày 28 tháng 10 năm 1886.
Đây là tặng vật của nhân dân Pháp gửi nước Mỹ.
Tượng Nữ thần Tự do có hình dáng một người phụ nữ mặc áo choàng, tiêu biểu
cho Libertas, nữ thần tự do của La Mã, tay phải cầm ngọn đuốc còn tay kia một
tấm đá phiến có khắc ngày tháng độc lập của Hoa Kỳ. Bức tượng này là biểu
tượng mẫu mực của lý tưởng tự do cũng như của chính Hoa Kỳ.
- Kiến trúc sư Bartholdi lấy cảm hứng từ một lời nói của chính trị gia kiêm giáo sư
luật học người Pháp, Édouard René de Laboulaye vào năm 1865 rằng bất cứ tượng
đài nào dựng lên để đánh dấu ngày độc lập của Hoa Kỳ thì cũng đáng là một dự án
chung của cả hai dân tộc Pháp và Mỹ. Vì tình hình chính trị xáo trộn tại Pháp,
công trình bị hoãn cho đến đầu thập niên 1870. Năm 1875, Laboulaye đề nghị
rằng Pháp sẽ tài trợ việc đúc tượng còn Mỹ sẽ xây phần bệ và tìm vị trí đặt tượng.
Bartholdi hoàn thành phần đầu tượng và cánh tay cầm đuốc trước khi bức tượng
được thiết kế toàn bộ. Các bộ phận của tượng được trưng bày triển lãm cho công
chúng xem trong nhiều đợt triển lãm quốc tế. Riêng cánh tay phải cầm ngọn đuốc
được trưng bày tại Công viên Quảng trường Madison của Thành phố New York từ
năm 1876 đến năm 1882. Công việc xúc tiến gây quỹ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt
về phía người Mỹ. Năm 1885 công việc xây dựng bệ tượng bị đe dọa đình chỉ vì
thiếu ngân sách. Joseph Pulitzer, chủ bút của nhật báo New York World, phải khởi
động cuộc vận động quyên góp để hoàn thành dự án. Chiến dịch vận động của ông
đã thu hút trên 120.000 người ủng hộ. Trong số người góp tiền, đa số góp dưới
một đô la mỗi người.
Bức tượng được xây dựng tại Pháp, xếp trong các thùng lớn và vận chuyển bằng
tàu biển, rồi sau đó được ráp vào bệ tượng nằm trên hòn đảo vốn xưa kia có tên là
Đảo Bedloe. Để đánh dấu việc hoàn thành bức tượng, một cuộc diễn hành lớn diễn
ra tại Thành phố New York. Đó cũng là lần đầu tiên công chúng chứng kiến hoa
giấy tung xuống đường phố như tuyết rơi. Buổi lễ khánh thành do Tổng thống
Grover Cleveland làm chủ tọa.
Tượng Nữ thần Tự do được Ban đặc trách Hải đăng Hoa Kỳ quản lý cho đến năm
1901 và rồi sau đó là Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ; kể từ năm 1933 thì do Cục Công
viên Quốc gia Hoa Kỳ quản lý.
Bức tượng phải đóng cửa để tu sửa lớn vào năm 1938. Vào đầu thập niên 1980, vì
có dấu hiệu hư hại, tượng lại trải qua một đợt đại trùng tu nữa. Trong thời gian tu
- sửa từ năm 1984 đến 1986, ngọn đuốc và phần lớn cấu trúc bên trong cũng được
thay thế. Sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tượng Nữ thần Tự do bị
đóng cửa vì lý do an ninh; bệ tượng mở cửa lại vào năm 2004 và toàn phần tượng
lại đón khách vào xem kể từ năm 2009 nhưng với số lượng hạn chế được phép đi
lên đến phần mũ miện. Nhà chức trách dự trù đóng cửa khoảng một năm, bắt đầu
từ cuối năm 2011 để trang bị thêm một cầu thang phụ. Lối vào ban công bao
quanh ngọn đuốc bị ngăn lại vì lý do an toàn kể từ năm 1916.
Mục lục
1 Thiết kế và xây dựng
1.1 Nguồn gốc
o
1.2 Thiết kế, kiểu mẫu và biểu tượng
o
1.3 Vận động & khởi công
o
1.4 Xây tượng tại Pháp
o
1.5 Vận động quyên góp quỹ, sự chỉ trích và quá trình xây dựng tại
o
Hoa Kỳ
1.6 Khánh thành
o
2 Lịch sử từ khi khánh thành
2.1 Ban đặc trách Hải đăng và Bộ chiến tranh Hoa Kỳ (1886–1933)
o
2.2 Những năm đầu dưới Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ (1933–
o
1982)
- 2.3 Trùng tu đến nay (từ năm 1982)
o
3 Hướng dẫn tham quan và đặc điểm tượng
3.1 Vị trí và viếng thăm
o
3.2 Những bản khắc chữ và tri ân
o
3.3 Đặc điểm về hình thể
o
4 Mô hình, phim ảnh về bức tượng
5 Xem thêm
6 Tham khảo
6.1 Chú thích
o
6.2 Thư mục
o
7 Liên kết ngoài
Thiết kế và xây dựng
Nguồn gốc
Dự án Tượng Nữ thần Tự do là do chính trị gia kiêm giáo sư luật học người Pháp,
Édouard René de Laboulaye gợi ý vào giữa năm 1865. Trong một buổi nói chuyện
sau giờ ăn tối ở tư gia gần Versailles, Laboulaye, một người nhất mực ủng hộ phe
liên bang trong Nội chiến Hoa Kỳ, đã phát biểu rằng "nếu một tượng đài cần được
dựng lên tại Hoa Kỳ để làm đài kỷ niệm đánh dấu nền độc lập của họ, tôi thiết
nghĩ lẽ tự nhiên duy nhất là nếu nó được xây dựng bằng sự hợp lực - một việc làm
chung của cả hai quốc gia chúng ta."[6]
- Bản quyền thiết kế của Frédéric Bartholdi
Lời phát biểu của Laboulaye không có dụng ý khởi xướng dự án nhưng đã gây
nguồn cảm hứng cho một điêu khắc gia trẻ, Frédéric Bartholdi, người có mặt trong
buổi ăn tối hôm đó.[6] Vì chế độ độc tài chuyên chế của Napoleon III lúc bấy giờ,
Bartholdi không thể thực hiện ý tưởng đó ngoài việc bàn luận với Laboulaye. Trái
lại, Bartholdi tiếp xúc với Ismail Pasha và Khedive (quốc vương) của Ai Cập để
đệ trình dự án xây một ngọn hải đăng khổng lồ có hình dạng một nữ nông dân cổ
Ai Cập, vận áo choàng và tay cầm một ngọn đuốc đưa lên cao. Tượng sẽ đặt ở
Cảng Said ngay lối vào phía Bắc Kênh đào Suez. Hình vẽ phác thảo và hình mẫu
được thực hiện như dự định, nhưng ngọn hải đăng này không được thực hiện.
Trong lịch sử thì trước kia có một bức tượng cổ điển dựng lên bên bờ Kênh đào
Suez; đó là Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes, một pho tượng đồng tạc hình thần mặt
trời Hy Lạp, Helios. Bức tượng này tương truyền cao trên 30 mét (100 ft), dáng
đứng ngay lối vào cửa biển, tay cầm một ngọn đèn để hướng dẫn tàu thuyền.[7]
Chiến tranh Pháp-Phổ sau đó tiếp tục trì hoãn dự án xây bức tượng cho nước Mỹ.
Bartholdi phải nhập ngũ, phục vụ với cấp bậc thiếu tá địa phương quân.[8] Trong
- cuộc chiến tranh này, Hoàng đế Napoleon III bị bắt và truất ngôi. Tỉnh Alsace, quê
hương của Bartholdi bị nhượng cho Phổ còn ở Pháp, một nền cộng hòa mới, cấp
tiến hơn hình thành.[6]
Từ lâu Bartholdi từng ấp ủ ý định viếng thăm Hoa Kỳ. Sau khi bàn bạc với
Laboulaye, ông cho là thời điểm đã đến nên hỏi ý chính giới Mỹ.[9] Tháng 6 năm
1871, Bartholdi vượt Đại Tây Dương với lá thư giới thiệu do Laboulaye ký.[10] Khi
đến Thành phố New York, Bartholdi chọn đảo Bedloe làm nơi đặt tượng vì nhận
thấy đây là địa điểm lý tưởng khi tàu thuyền ra vào hải cảng New York đều sẽ đi
ngang qua hòn đảo này. Ông càng hứng khởi khi biết rằng hòn đảo này thuộc
chính phủ liên bang Hoa Kỳ vì trước kia Nghị viện Tiểu bang New York đã
nhượng đảo cho chính phủ Hoa Kỳ từ năm 1800 để phòng thủ bến cảng. Bartholdi
kết luận trong lá thư gởi cho Laboulaye, "đất này là đất chung của tất cả các tiểu
bang."[11] Ngoài các cuộc gặp mặt với nhiều thân hào New York, Bartholdi còn
đến thăm Tổng thống Ulysses Simpson Grant nhưng Grant cho rằng trưng dụng
đảo Bedloe làm nơi dựng tượng là chuyện rất khó.[12]
Bartholdi đi khắp từ đông sang tây Hoa Kỳ hai lần bằng xe lửa, gặp mặt nhiều
người Mỹ ủng hộ dự án.[10] Tuy nhiên, Bartholdi cho rằng công luận ở cả Pháp lẫn
Mỹ vẫn chưa đón nhận dự án một cách nồng nhiệt bèn cùng Laboulaye hoãn chờ
một thời gian, đợi ngày mở cuộc vận động công chúng.[13]
- Sư tử Belfort của điêu khắc gia Bartholdi
Bartholdi làm mô hình đầu tiên theo phác thảo của năm 1870.[14] Theo người con
của họa sĩ Mỹ John La Farge (bạn với Bartholdi) thì nhà điêu khắc Bartholdi cho
ra đời phác họa đầu tiên nhân chuyến viếng thăm phòng tranh của La Farge ở
Rhode Island, Hoa Kỳ . Bartholdi tiếp tục phát triển phác thảo này sau khi quay về
Pháp.[14] Khi về Pháp ông thực hiện một số tác phẩm điêu khắc làm khơi dậy lòng
yêu nước của người Pháp dù bại trận sau chiến tranh Pháp-Phổ. Một trong số
những bức tượng của thời kỳ đó là Sư tử Belfort, một tác phẩm điêu khắc tạc bằng
sa thạch đặt ở chân pháo đài Belfort. Nơi này trong cuộc chiến đã cầm cự suốt hơn
ba tháng cuộc vây hãm của quân Phổ. Con sư tử bất khuất này có chiều dài 22 mét
(73 ft) và cao hơn 10 mét, biểu hiện thật hùng hồn đường nét lãng mạn mà sau này
Bartholdi cũng đã lồng vào Tượng Nữ thần Tự do.[15]
Thiết kế, kiểu mẫu và biểu tượng
Bích họa trên tường do Constantino Brumidi thực hiện trong Tòa Quốc hội Hoa
Kỳ, với hai biểu tượng xưa của Mỹ: Columbia (trái) và công chúa da đỏ thổ dân
châu Mỹ.
- Bartholdi và Laboulaye cùng nhau cân nhấc, tìm cách diễn tả ý niệm lý tưởng tự
do của Mỹ.[16] Họ có hai mô típ để dùng. Từ thuở khai quốc, hai nhân vật phụ nữ
thường dùng làm biểu tượng văn hóa của đất nước Hoa Kỳ[17] là Columbia và
Libertas. Columbia được xem như hiện thân của Hoa Kỳ cũng giống như Britannia
là biểu tượng của Vương quốc Anh và Marianne đại diện cho nước Pháp. Trước
đó công chúa da đỏ đã được dùng là biểu tượng của Mỹ nhưng vì công luận cho
đó hàm ý mọi rợ, kém văn minh, thật không xứng đáng với nước Mỹ nên
Columbia đã thay thế công chúa da đỏ.[17] Còn Libertas, vị nữ thần tự do được thờ
phụng rộng rãi vào thời cổ đại La Mã, nhất là trong giới nô lệ được phóng thích thì
hình tượng này đã được dùng trên nhiều đồng tiền kim loại của Mỹ vào thời đó.[16]
Đồng thời Libertas cũng phổ biến trong mỹ thuật công cộng và văn hóa bình dân.
Tiêu biểu là Tượng Tự do (1863) của Thomas Crawford nằm trên mái vòm của
Tòa Quốc hội Hoa Kỳ.[16] Hình tượng Nữ thần Tự do cũng có mặt trên Quốc ấn
của Pháp.[16]
Mỹ thuật thế kỷ 18 và thế kỷ 19 thường dùng Nữ thần Tự do là biểu tượng lý
tưởng công chính của nền cộng hòa.[16] Tuy nhiên Bartholdi và Laboulaye không
muốn dùng hình nữ thần tự do để đề cao tinh thần cách mạng như trong bức tranh
nổi tiếng Nữ thần Tự do dẫn dắt Nhân dân (tiếng Pháp: La Liberté guidant le
peuple) (1830) của họa sĩ Eugène Delacroix. Bức tranh này kỷ niệm cuộc cách
mạng Pháp năm 1830 với Nữ thần Tự một tay phất cờ, tay kia cầm súng hô hào
toán người vũ trang tiến lên, đạp lên cả xác người đã gục.[17] Laboulaye không có
cảm tình với phe cách mạng nên hình ảnh Bartholdi chọn làm mẫu là thần tự do
vận áo choàng dài.[17] Thay vì đặt bạo động là trọng tâm như tác phẩm của
Delacroix, Bartholdi muốn tạo cho tượng vẻ thanh thản, tay trương ngọn đuốc
tượng trưng cho tiến bộ.[3]
Về phần pho tượng của Crawford trên mái vòm của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ thì
tượng được thiết kế vào đầu thập niên 1850. Ban đầu, theo dự định thì đầu tượng
- đội mũ hình nấm (pileus), một kiểu mũ của người nô lệ sau khi phóng thích có từ
thời cổ La Mã. Tuy nhiên Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ là Jefferson Davis, vốn
là người miền Nam (sau làm tổng thống của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ) thì
ngần ngại cho rằng mũ hình nấm là biểu tượng của chủ nghĩa bãi nô nên không
chấp thuận. Davis mới ra lệnh thay thế mũ hình nấm bằng mũ giáp (helmet).[18]
Tranh của Delacroix thì vẽ thần Tự do đội mũ hình nấm,[17] và Bartholdi có ý định
dùng cùng một kiểu mũ nhưng sau chọn kiểu mũ miện (diadem hay như vương
miện crown) cho pho tượng.[19] Kiểu mũ miện tránh sự ngộ nhận thần Tự do với
Marianne, biểu tượng nước Pháp vì Marianne luôn mũ hình nấm.[20]
Mũ miện của Bartholdi có bảy tia như vầng hào quang[21] mặt Trời, tương ứng với
bảy đại dương, và bảy đại lục địa.[22] Ngoài ra tia sáng của mũ miện cùng ngọn
đuốc thể hiện ánh sáng của Tự do rạng soi khắp thế giới.[3]
Tất cả những mẫu hình đầu tiên của Bartholdi đều có chung một nét: một người
phụ nữ theo thể tân cổ điển tượng trưng cho tự do. Thân tượng khoác áo choàng
dài (kiểu áo thường được dùng để cho các nữ thần La Mã); tay tượng cầm ngọn
đuốc giương cao. Khuôn mặt tượng tạc theo chân dung của Charlotte Beysser
Bartholdi, mẹ của chính điêu khắc gia.[23] Ông thiết kế tượng với bố cục khỏe
khoắn, không quá rườm rà để hòa vào biển trời bao la của hải cảng New York.
Khách trên thuyền vào cửa bể có thể ngắm nhìn pho tượng từng khía cạnh một khi
thuyền chậm tiến vào Manhattan. Tượng mang đậm nét cổ điển, điêu khắc gọn ghẽ,
giản lược để tăng phần quy mô và vẻ uy nghi của toàn bố cục.[3] Bartholdi tự thuật
như sau:
- Tượng Tự do của Thomas Crawford
Vỏ ngoài của tượng nên khái quát và đơn giản; thiết kế thì cần xác định rõ ràng và
đậm nét, nhấn mạnh ở vài trọng điểm. Tránh khuếch đại hay lặp lại những chi tiết
thêm chi ly. Nếu phóng đại đường nét để dễ thấy hơn hay tăng cường những tiểu
tiết thì ắt làm hỏng tỷ lệ toàn tác phẩm. Cuối cùng, mẫu hình như trong thiết kế
cần có đặc tính tổng thể ví như ta phác thảo thật nhanh. Điều cần thiết là nét đặc
trưng phải do chủ ý và nghiên cứu; nghệ nhân khi tập trung kiến thức sẽ tìm thấy
hình thể và đường nét trong cái thật là đơn giản.[24]
Ngoài việc thay đổi kiểu mũ trên đầu tượng, bản mẫu cũng thay đổi những chi tiết
khác trong lúc dự án đang tiến hành. Bartholdi định thêm sợi dây xích đứt trong
tay Nữ thần Tự do nhưng sau đó lại thôi vì cho rằng hình ảnh đó chỉ gây chia rẽ
giữa hai miền Nam Bắc Hoa Kỳ khi vừa mới xong chiến cuộc. Thay vì cầm xích,
ông cho tượng đứng giẫm lên trên một đoạn xích gãy, một phần có gấu áo che
khuất nên khó thấy từ chân bệ tượng nhìn lên.[19] Ban đầu Bartholdi còn phân vân
không biết tay trái của Nữ thần sẽ cầm gì; sau ông mới quyết định dùng tấm tabula
- ansata, một mảnh đá phiến như dạng đá đỉnh vòm (keystone),[25] tượng trưng cho
ý tưởng luật pháp.[26] Một mặt Bartholdi rất khâm phục Hiến pháp Hoa Kỳ nhưng
ông chọn khắc dòng chữ "JULY IV MDCCLXXVI" trên tấm tabula ansata, nối
liền ngày Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ với ý niệm tự do.[25]
Sau khi tham khảo xưởng đúc kim loại mỹ thuật Gaget, Gauthier & Co., Bartholdi
kết luận rằng vỏ tượng tốt nhất nên làm bằng những tấm đồng được nện thành
hình như ý muốn qua phương pháp "repoussé". Theo cách tạo hình này thì tấm
kim loại mỏng được trang trí hay tạo hình bằng cách nện uốn bên mặt trái.[27] Lợi
điểm của repoussé là toàn bức tượng khá nhẹ vì lớp vỏ đồng chỉ dày khoảng 0,094
inch (2,4 mm). Ông ấn định chiều cao của pho tượng là 151 ft (46 mét), tức là cao
gấp đôi tượng Colosso di San Carlo Borromeo của Ý và tượng Arminius của Đức.
Hai tác phẩm đó cũng làm theo phương pháp repoussé.[28] Với dự án này,
Bartholdi đã lôi cuốn được người thầy cũ là kiến trúc sư Eugène Viollet-le-Duc
cùng hợp tác. Viollet-le-Duc đóng góp trong việc xây lõi gạch bên trong tượng để
đính vỏ đồng ra bên ngoài.[29]
Vận động & khởi công
Năm 1875, trong khi tình hình chính trị Pháp dần ổn định và kinh tế cũng hồi phục
sau cuộc chiến tranh với Phổ thì dân chúng cũng náo nức mong đợi Hội chợ Thế
giới năm 1876 sắp khai trương tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Nhân cơ hội này
Laboulaye mới vận động tìm hậu thuẫn để thực hiện dự án.[30] Tháng 9 năm 1875,
ông chính thức thông báo dự án và lập liên hội Mỹ-Pháp với vai trò gây quỹ cho
kế hoạch Nữ thần Tự đo Soi sáng Thế giới.[31] Pháp nhận tài trợ việc đúc tượng
còn Mỹ thì sẽ lãnh phần trang trải khoản phí xây bệ tượng.[32] Thông báo dự án
của Laboulaye gây nhiều phấn khởi ở Pháp cho dù công luận ở Pháp vẫn còn có
người oán giận Hoa Kỳ đã không hỗ trợ Pháp trong cuộc chiến với Phổ vừa
qua.[31] Phe bảo hoàng ở Pháp thì phản đối bức tượng chỉ vì Laboulaye là người
khởi xướng mà Laboulaye thì thuộc phe cấp tiến đối lập. Dù vậy Laboulaye lại đắc
- cử là một trong 75 nghị sĩ với nhiệm kỳ trọn đời[32] (tiếng Pháp: sénateur
inamovible, nghị sĩ bất khả phế) nên tiếng tăm ông càng nổi. Laboulaye liền ra sức
vận động chính giới Pháp cùng thân hào nhân sĩ bằng buổi trình diễn đặc biệt tại
nhà hát nhạc kịch Paris. Vở kịch ngày 25 tháng 3 năm 1876 cũng là buổi ra mắt
nhạc kịch "cantata" mới được Charles Gounod hoàn tất với tựa là La Liberté
éclairant le monde. Đó cũng chính là tên tiếng Pháp của bức tượng.[31]
Hình lập thể cánh tay phải và ngọn đuốc của Tượng Nữ thần Tự do, Triển lãm 100
năm (1876) của Hoa Kỳ.
Tuy ban đầu họ tập trung vận động giới thượng lưu nhưng sau liên hội Mỹ-Pháp
đã thành công huy động được mọi tầng lớp xã hội: thường dân và cả học sinh đều
tham gia. Có 181 thị xã trải rộng khắp nước Pháp cũng góp tiền. Hưởng ứng lời
kêu gọi nồng nhiệt là thân hữu của Laboulaye trong chính giới Pháp cùng hậu duệ
quân nhân Pháp từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Ngoài ra
còn có những thành phần tuy góp tiền nhưng có dụng ý muốn mua chuộc Hoa Kỳ
để hậu thuẫn Pháp thực hiện kênh đào Panama. Công ty Japy Frères, chuyên buôn
đồng hiến tặng toàn lượng đồng cần thiết để xây tượng, trị giá 64.000 franc
(khoảng 16.000 đô la đương thời, tương đương với 323.000 đô la ngày nay).[33][34]
Có người cho rằng lượng đồng này xuất xứ từ Visnes, Na Uy,[35] nhưng đến nay
vẫn chưa rõ hư thực.[36]
Dù kế hoạch xây dựng tượng chưa được hoàn toàn đúc kết, Bartholdi liền khởi
công, bắt đầu với cánh tay phải cầm ngọn đuốc và phần đầu tượng. Công việc tiến
hành ở xưởng đúc Gaget, Gauthier & Co.[37] Tháng 5 năm 1876, nhân danh là một
thành viên trong phái đoàn Pháp tham dự Hội chợ Thế giới, Bartholdi vượt Đại
Tây Dương sang Hoa Kỳ.[38] Hội chợ ở Philadelpha năm đó cũng là năm kỷ niệm
- 100 năm nền độc lập Hoa Kỳ nên Bartholdi cũng thu xếp để triển lãm bức họa
khổng lồ ở New York hầu công chúng hình dung được pho tượng vĩ đại ông muón
thực hiện.[39] Nếu đúng theo kế hoạch thì cánh tay cầm đuốc của pho tượng đồng
cũng sẽ ra mắt dân chúng Mỹ khi Hội chợ khai mạc nhưng chuyến tàu hàng đến
trễ nên rốt cuộc khi tàu cập bến Philadelphia vào tháng 8 thì đã trễ không kịp ghi
danh. Vì thế mà danh mục triển lãm không ghi tên tác phẩm của Bartholdi khiến
có nơi gọi lầm nó là "Cánh tay khổng lồ" hay "Ngọn đèn điện của Bartholdi". Khu
trưng bày cũng có những tác phẩm quy mô khác, thu hút khách đến xem. Ngoài
cánh tay đồng, Bartholdi cũng góp một đài phun nước rất lớn do ông thiết kế.[40]
Cánh tay được nhiều người chú ý, nhất là vào những ngày cuối cuộc triển lãm;
khách được leo lên tận ban công của ngọn đuốc để ngắm nhìn toàn cảnh khu triển
lãm.[41] Sau khi bế mạc, tay tượng chuyển về New York, dựng ở Công viên Quảng
trường Madison vài năm cho công chúng đến xem trước chuyển về Pháp "đoàn tụ"
với thân tượng.[41]
Trong chuyến đi lần thứ hai này đến Hoa Kỳ, Bartholdi đi diễn thuyết nhiều nơi,
nói chuyện về dự án lớn của ông và kêu gọi bên phía Mỹ hãy mau lập ủy ban cùng
hợp tác với liên hội Mỹ-Pháp để xây tượng.[42] Lần lượt các ủy ban địa phương ra
đời tại New York, Boston và Philadelphia, phụ trách việc quyên góp để tài trợ
phần xây bệ.[43] Riêng ủy ban New York đảm nhiệm phần lớn việc vận động tại
Hoa Kỳ nên sau mang danh là "Ủy ban Hoa Kỳ".[44] Một trong những ủy viên ở
New York lúc bấy giờ là Theodore Roosevelt, một thanh niên mới 19 tuổi. Nhân
vật này sau đắc cử thống đốc tiểu bang New York rồi lên làm tổng thống Hoa
Kỳ.[42] Ngày 3 tháng 3 năm 1877, vào ngày cuối cùng của nhiệm kỳ, Tổng thống
Grant ký một nghị quyết chính thức nhận bức tượng là quà tặng của Pháp. Tổng
thống Rutherford Birchard Hayes, người kế nhiệm ngày hôm sau, đã phê duyệt và
chọn lấy đảo Bedloe y như Bartholdi đề nghị trước kia.[45]
Xây tượng tại Pháp
- Đầu tượng được trưng bày tại Hội chợ Thế giới Paris năm 1878
Khi về Pháp năm 1877, Bartholdi tập trung vào việc hoàn tất phần đầu của pho
tượng. Công đoạn này sau được ra mắt tại Hội chợ Thế giới Paris năm 1878.
Nhiều mô hình nhỏ hơn được đem bán để hỗ trợ việc gây quỹ. Dân chúng cũng có
thể mua vé vào xem công đoạn xây tượng đang diễn ra tại xưởng Gaget, Gauthier
& Co.[34] Ngoài ra chính phủ Pháp cho mở một cuộc xổ số; giải thưởng có một cái
đĩa bằng bạc và một mô hình tượng bằng đất nung. Tính đến cuối năm 1879 thì đã
quyên góp được khoảng 250.000 franc Pháp.[46]
Viollet-le-Duc có công trong việc cấu tạo đầu và tay tượng nhưng ông ngã bệnh
năm 1879 rồi mất. Là người then chốt trong giai đoạn này, Viollet-le-Duc lại
không để văn bản nào về cách ráp phần da vỏ đồng bên ngoài vào lõi tượng bằng
nề bên trong.[47] Phải đến năm sau Bartholdi mới tìm được người tiếp sức với
nhiều sáng kiến: nhà xây cất và thiết kế Gustave Eiffel.[34] Eiffel cùng với kỹ sư
xây cất Maurice Koechlin quyết định bỏ không dùng lõi gạch; thay vào đó sẽ dùng
giàn tháp cao bằng sắt. Eiffel cũng không dùng giàn cứng chắc vì áp suất sẽ đè lên
- vỏ ngoài, dần gây ra rạn nứt. Chủ ý của Eiffel là muốn pho tượng di dịch ít nhiều
vì vị trí ở cửa biển đôi khi sẽ có gió lớn. Ngoài ra vào những ngày hè oi bức,
tượng cần co giãn. Ông giải quyết hai nhu cầu trên bằng cách nối vỏ tượng ngoài
vào giàn tháp trong bằng một khung giáp (armature). Khung này dùng mảnh sắt
tạo từ những khuyên sắt nhỏ nối vỏ ngoài với sườn trong một cách kiên cố. Trong
tiến trình thi công, mỗi mảnh bằng khuyên sắt phải được gia công riêng.[48] Để
ngăn ngừa cơ nguy vỏ bằng đồng làm soi mòn giàn tháptrong, Eiffel cho bọc lớp
vỏ đồng bằng chất amiăng có trộn sơn cánh kiến.[49] Việc thay đổi cấu trúc từ lõi
bằng nề sang giàn tháp sắt đã cho phép Bartholdi sử đổi cách ráp tượng. Trước kia
ông có ý định ráp vỏ tượng tại nơi dựng tượng khi khung nề hoàn tất như Viollet-
le-Duc thiết kế; tuy nhiên với giàn tháp sắt Bartholdi chọn cho ráp tượng tại Pháp,
sau đó tháo ra rồi chuyển đến Hoa Kỳ để ráp lại tại đảo Bedloe.[50]
Thiết kế của Eiffel đã làm cho bức tượng này trở thành một trong số những mẫu
công trình xây dựng đầu tiên sử dụng kỹ thuật xây vách treo mà theo đó phần bên
ngoài của công trình không phải là phần chịu tải, thay vào đó phần ngoài được một
khung sườn phía bên trong nâng đỡ. Ông gắn thêm hai cầu thang hình xoáy ốc bên
trong để khách tham quan dễ dàng di chuyển lên điểm quan sát nằm trên chiếc mũ
miện hơn.[51] Lối vào ban công quan sát nằm quanh ngọn đuốc cũng được thiết kế
nhưng vì chỗ cánh tay hẹp nên chỉ có thể đặt được duy nhất 1 cái thang đơn độc
dài 40 ft (12 mét).[52] Khi sườn tháp được từ từ xây cao lên, Eiffel và Bartholdi
cùng điều hợp công việc của họ một cách cẩn thận sao cho các đốt vỏ tượng ăn
khớp hoàn toàn vào khung cấu trúc chống đỡ.[53]
Trong một hành động mang tính chất biểu tượng, Đại sứ Mỹ tại Pháp là Levi P.
Morton đã đóng cây đinh tán đầu tiên vào vỏ tượng để kìm giữ tấm đồng vào ngón
chân to của bức tượng.[54] Tuy nhiên, vỏ tượng không được thi công theo đúng
chiều thứ tự từ thấp đến cao; công việc lắp ráp vỏ tượng được tiến hành cùng lúc
trên nhiều đoạn tượng khác nhau theo cách thường hay làm cho khách tham quan
- lẫn lộn.[55] Một số công đoạn được những nhà thầu thi công — một số những ngón
tay được làm đúng theo chi tiết của Bartholdi là do hãng làm kim loại đồng ở thị
trấn Montauban miền Nam nước Pháp phụ trách.[56] Vào năm 1882, bức tượng đã
được hoàn chỉnh lên đến phần ngực, đây là một sự kiện mà Barthodi ăn mừng
bằng cách mời các phóng viên đến dự một buổi ăn trưa được tổ chức trên một bục
nền xây bên trong bức tượng.[57] Năm 1883, Laboulaye qua đời. Ferdinand de
Lesseps, người xây kênh đào Suez lên kế nhiệm ông làm chủ tịch ủy ban Pháp.
Bức tượng hoàn chỉnh được chính thức trao cho Đại sứ Morton trong một buổi lễ
tại Paris ngày 4 tháng 7 năm 1884, và de Lesseps thông báo r ằng chính phủ Pháp
đồng ý trả tiền cho việc chuyên chở bức tượng tới Thành phố New York.[58] Bức
tượng vẫn được để nằm yên tại Paris, chờ đợi phần bệ tượng đang được hoàn
thành; đến tháng giêng năm 1885, việc gì đến đã đến, bức tượng được tháo rời và
đóng thùng sẵn sàng cho chuyến vượt đại dương.[59]
Vận động quyên góp quỹ, sự chỉ trích và quá trình xây dựng tại Hoa Kỳ
Ủy ban tại Hoa Kỳ đối mặt với những khó khăn to lớn trong việc tìm nguồn quỹ
cho bức tượng. Nỗi lo sợ năm 1873 đã tạo ra cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài
nhiều thập niên. Dự án tượng Nữ thần Tự do không phải là dự án duy nhất đối mặt
với khó khăn khi tìm nguồn quỹ: công trình xây dựng đài tưởng niệm hình tháp
mà sau đó được biết với tên tượng đài Washington đôi khi bị ngưng trệ trong
nhiều năm trời; sau cùng mất đến trên 3 thập niên rưỡi mới hoàn thành xong.[60]
Từng có sự chỉ trích cả về bức tượng của Bartholdi và việc món quà tặng của
người Pháp lại phải bắt người Mỹ bỏ tiền ra xây bệ tượng. Trong những năm sau
Nội chiến Hoa Kỳ, đa số người Mỹ ưa chuộng các tác phẩm nghệ thuật hiện thực
mô tả những vị anh hùng và các sự kiện xảy ra trong lịch sử quốc gia hơn là những
tác phẩm có tính chất biểu tượng như tượng Nữ thần Tự do.[60] Cũng có ý kiến
rằng người Mỹ nên tự thiết kế những công trình công cộng của Mỹ - việc lựa chọn
họa sĩ Constantino Brumidi sinh tại Ý để trang trí Tòa Quốc hội Hoa Kỳ đã gây ra
- cuộc chỉ trích dữ dội cho dù ông là một công dân Mỹ nhập tịch.[61] Tạp chí
Harper's Weekly tuyên bố ước gì "Ông Bartholdi và các anh em họ người Pháp
của chúng ta đã 'chi trọn gói' khi xây tượng và trao cho chúng ta cả bức tượng và
bệ tượng ngay cùng một lúc."[62] Nhật báo The New York Times lên tiếng rằng
"không có người yêu nước chân chính nào có thể cho phép bất cứ sự chi tiêu nào
như thế cho những hình tượng nữ bằng đồng với tình trạng tài chính hiện tại của
chúng ta."[63] Vì phải đối mặt với những lời chỉ trích như thế nên ủy ban Mỹ chỉ có
một ít động thái trong vài năm.[63]
Nền móng cho bức tượng được đặt bên trong đồn Wood, một căn cứ lục quân bị
bỏ hoang nằm trên Đảo Bedloe, được xây dựng giữa năm 1807 và 1811. Từ năm
1823, đồn này ít khi được sử dụng, tuy trong thời Nội chiến Hoa Kỳ, nó được
dùng làm nơi tuyển mộ binh sĩ.[64] Vành đai bảo vệ của căn cứ này có hình ngôi
sao 11 cánh. Nền móng và bệ tượng được chỉnh sao cho bức tượng quay mặt về
hướng Đông Nam để chào đón tàu thuyền từ Đại Tây Dương đi vào trong bến
cảng.[65] Năm 1881, ủy ban New York ủy nhiệm Richard Morris Hunt thiết kế bệ
tượng. Trong mấy tháng, Hunt đệ trình một dự án chi tiết và cho biết rằng ông ước
tính sẽ hoàn thành bệ tượng này trong 9 tháng.[66] Ông đề nghị một bệ tượng cao
114 ft (35 mét); vì đối mặt với các vấn đề tài chính nên ủy ban quyết định giảm
chiều cao bệ tượng xuống còn 89 ft (27 mét).[67]
Bản thiết kế bệ tượng của Hunt gồm có những chi tiết kiến trúc cổ điển trong đó
có các cổng dùng thức cột Doric, và phần khối to lớn của nó được chia thành từng
mảng với các chi tiết kiến trúc tỉ mỉ để tập trung sự chú ý vào bức tượng.[67] Về
hình thể, bệ tượng là một kim tự tháp bị cắt đỉnh nhọn, có đáy rộng 19 m2 (62 bộ
vuông) và phần chóp rộng 12 m2 (39,4 bộ vuông). Bốn phía có hình dạng giống
nhau. Ngay trên cửa ở mỗi phía có mười đĩa tròn mà Bartholdi đề nghị đặt huy
hiệu của các tiểu bang Hoa Kỳ (giữa năm 1876 và 1889, có 40 tiểu bang Hoa Kỳ)
nhưng điều này không được thực hiện. Phía trên đó, một ban công đặt ở mỗi phía
nguon tai.lieu . vn