Xem mẫu

TỰ TỬ Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TIỀN GIANG
Tạ Văn Trầm*, Trần Thanh Hải*, Huỳnh Công Thanh*

TÓM TẮT
Tự tử ở trẻ em vị thành niên (VTN) là một vấn đề sức khỏe quan trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm dịch tễ và các yếu tố thúc đẩy hành vi tự tử của trẻ VTN.
Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: 120 trường hợp tự tử ở trẻ VTN được cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang trong 02 năm
(từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2006). - Tuổi trung bình: 17,2, nhóm tuổi 17 – 19 tuổi chiếm 82%; nữ 55%,
nam 45%, 50% là học sinh. Phương tiện tự tử: 97,5% tự tử bằng hóa chất độc, trong đó thuốc trừ sâu chiếm
35%, thuốc dưỡng cây 6,7%, thuốc chuột 9,7%, thuốc tân dược 35%... có 2,5% tự tử bằng cách tự gây thương
tích. 50% tự tử vào buổi trưa và chiều, 33,3% tự tử vào buổi tối, 16,7% vào buổi sáng, 80% không báo cho gia
đình hành vi tự tử của mình. - Yếu tố thúc đẩy: 67% mâu thuẫn với cha mẹ, 10% thất bại trong học tập, 66%
trục trặc trong tình yêu, 5,8% mâu thuẫn với bạn bè, 1,5% biết mình bị HIV/AIDS, 6,6% sau khi uống rượu
say, 2,5% uống quá liều thuốc động kinh. Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra các kiến nghị thích hợp nhằm phòng
chống hữu hiệu tình trạng tự tử ở trẻ em VTN.
ABSTRACT

STUDY ON ATTEMPTING SUICIDE STATUS AMONG ADOLESCENT PATIENTS
AT TIENGIANG GENERAL HOSPITAL
Ta Van Tram, Tran Thanh Hai, Huynh Cong Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 – 2008: 147 – 153
Suicide among adolescent is considered as a burning health problem in every countries around the world.
Objective: To decribe the epidemiological characteristics of attempting suicide factors poromoting
attempting suicide among adolescent
Method: retrospective descriptive study
Results: Including 120 adolescents attempting suicide received emergenuy treatment at Tiengiang General
Hospital in peroid of 2 years, from 2005 to 2006. The average age of the children was 17.2 years, group of 17 – 19
years accounted for 82%; Female accounted 55%, male accounted 45%; 50% of them were pupils. Means for
attempting suicide: 98% used poisonous chemicals, in which 41.5% used pesticides, 1.7% used rodenticides,
6.7% used plant growth hormones, and 35% used medicines, 2.5% self – infliction, 8.3% herbicides. 50% of the
cases occurred at noon and afternoon, 16.7% occurred in the morning and 33,3% occurred at night. Factors
promoting the attempting suicides: 67% conflict with their parents, 10%failure in learn study, 1.5% fall ills,
6.6% break – up with lovers, 5.8% conflict with friends. Appropriate measures are recommended by the author in
this study for attempting suicide prevention among adolescents.
lai1. Nhưng nếu sống trong một môi trường
ĐẶT VẤNĐỀ
không tích cực, như không được người lớn và
Vị thành niên là những người trong độ tuổi
bạn bè tin cậy, lo lắng thái quá về kết quả học
10 – 19. Tuổi VTN là thời rạng đông của một đời
tập, thất vọng trong tình yêu, hụt hẫng trong các
người, là giai đoạn đẹp nhất của một cuộc đời.
mối quan hệ hoặc xích mích với cha mẹ, bạn bè,
Biết bao điều kỳ diệu đến với tuổi VTN và cũng
hoặc tìm đến rượu, thuốc lá, ma túy... trẻ VTN
có những băn khoăn, bối rối trước sự thay đổi về
dễ bị tổn thương tâm lý. Các trẻ VTN có thể bất
cơ thể và tâm sinh lý. Việc hiểu biết một cách
chấp tất cả để được “sống như mình muốn” và
đầy đủ về lứa tuổi VTN, các em sẽ có hành vi
lúc đó, tai họa tự tử có thể xảy ra. Tự tử là một
đúng để chủ động bảo vệ sức khỏe của mình
vấn đề y tế quan trọng ở các nước trên thế giới(2).
hôm nay và chuẩn bị tốt cho cuộc sống tương
* Bệnh Viện Đa Khoa Tiền Giang

Chuyên đề Nhi Khoa

1

Ở lứa tuổi VTN, tự tử là một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Tại Pháp,
năm 1993, có 13.000 trường hợp trẻ VTN tử vong
do tự tử. Những hành vi tự tử gây nguy hiểm
cho nạn nhân và thường để lại nhiều di chứng
trên cơ thể và tâm lý lâu dài(4,5). Ở nước ta hiện
nay, tự tử ở trẻ VTN rất thường gặp trong đời
sống xã hội, là nguyên nhân gây tử vong đáng
tiếc và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về sức
khỏe và tinh thần(7,8). Xuất phát từ thực tế đó,
chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu
tìm hiểu các đặc điểm dịch tễ của các trẻ VTN tự
tử, một số yếu tố thúc đẩy hành vi tự tử của trẻ
VTN. Qua đó, đề xuất một số biện pháp điều trị
và ngăn ngừa tự tử ở trẻ VTN ở nước ta.

ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả.

- Dữ kiện được thu nhận vào biểu mẫu soạn
sẵn và xử lý dữ kiện bằng chương trình Epi –
Info 6.

KẾT QUẢ
Giới
Nam: 54 (45 %); Nữ 66 (54%).

Tuổi
Bảng 1: Phân bố theo tuổi
T l %
4%
14%
82%

Trẻ từ 17 – 19 tuổi tự tử nhiều, chiếm tỷ lệ 82%.

Nghề nghiệp.

S ca
26
47
17
11
13
6

T l %
21%
40%
14%
9%
11%
5%

Tình huống xung đột cấp
Bảng 4: Yếu tố thúc đẩy
Y u t thúc đ y
- B cha m la r y
- B đi m kém, lưu ban
- Th t tình
- Bu n b n bè, cãi nhau
- Sau u ng rư u
- Bi t mình nhi m HIV/AIDS
- Đang đi u tr đ ng kinh

S ca
80%
12
8
7
8
2
3

T l %
67%
10%
6,6%
5,8%
6,6%
1,5%
2,5%

Phương ti n t t
1) Thu c:
- An th n, thu c ng
-C ms t
- Kháng Histamin

S ca

T l %

20
11
5

16,5%
9%
4%

- Kháng sinh
- Khác
2) Hóa ch t:
* Thu c tr sâu
- Phospho h u cơ

2
5

1,5%
4%

39

32,5%

- Carbamat
- Chlor h u cơ
* Thu c di t c
* Nư c r a b n c u
*D uh a
* Thu c dư ng cây
* Thu c di t chu t
3) T gây thương tích

6
5
10
2
2
8
2
3

5%
4%
8,3%
1,7%
1,7%
6,7%
1,7%
2,5%

S ca
117
3
0
0

T l %
97,5%
2,5%
0
0

Cách tự tử
Bảng 6: Cách tự tử

Bảng 2: Nghề nghiệp.
Ngh nghi p
H c sinh
Làm ru ng vư n
N i tr
Làm mư n
Khác

Đ a ch
- M Tho
- Châu Thành
- Ch G o
- Cai L y
- Huy n khác
- T nh khác

Bảng 5: Phương tiện tự tử

- Tất cả các trường hợp tự tử ở trẻ VTN được
cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang trong
2 năm, từ 01/01/2005 đến 31/12/2006.

S ca
5
17
98

Bảng 3: Địa chỉ.

Phương tiện tự tử

Đối tượng nghiên cứu

L a tu i
10 – 13 tu i
14 – 16 tu i
17 – 19 tu i

Địa chỉ

S ca
60
24
12
14
10

Chuyên đề Nhi Khoa
2

T l %
50%
20%
10%
12%
8%

Cách t t
- U ng
- T gây thương tích
- Tiêm chích
- Khác

Thời điểm tự tử

dài với tác nhân là môi trường sống và nền giáo
dục(1,2).

Bảng 7: Thời điểm tự tử
Th i đi m
- Sáng (6 gi - 12 gi )
- Trưa (12 gi - 16 gi )
- Chi u (16 gi - 19 gi )
- T i (19 gi - 6 gi )

S ca
20
32
28
40

T l %
16,7%
26,7%
23,3%
33,3%

Địa điểm tự tử
Bảng 8: Địa điểm
Đ a đi m
- T i nhà
- Nơi hoang v ng

S ca
108
12

T l %
90%
10%

Hành vi sau tự tử
Bảng 9: Hành vi sau tự tử
Hành vi
S ca T l %
- Không làm gì đ n khi gia đình phát hi n.
94
78%
- Báo cho m i ngư i bi t.
14
12%
- Xa lánh m i ngư i.
12
10%

Hậu quả
Bảng 10: Hậu quả
H u qu
- S ng
- Ch t

S ca
111
9

T l %
92,5%
7,5%

BÀNLUẬN
Tuổi
Trong độ tuổi VTN, còn chia ra làm 3 nhóm:
từ 10 – 13 tuổi là giai đoạn đầu VTN, 14 – 16 tuổi
là giai đoạn giữa VTN và 17 – 19 tuổi là giai
đoạn cuối VTN. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tự tử tăng dần theo tuổi, nhiều nhất là nhóm
tuổi cuối VTN, 17 – 19 tuổi (82%). Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của các tác giả khác trên
thế giới và trong nước(5,7,8,9). Với tuổi 10 – 13 tuổi,
quan niệm về tự tử của trẻ còn mơ hồ và không
rõ ràng. Nguy cơ tăng dần khi trẻ ở tuổi giữa
VTN; ý nghĩ và hành vi tự tử nhiều hơn do
những biến đổi sâu sắc về tâm lý và thể chất.
Nhóm tuổi tự tử nhiều nhất là nhóm tuổi cuối
VTN. Ở nhóm tuổi này, nếu trẻ có nhân cách
vững vàng, ổn định, thường ít có nguy cơ tự tử,
và ngược lại, ở trẻ có nhân cách lệch lạc, yếu
đuối, trầm cảm, thường dễ có nguy cơ tự tử hơn.
Nhân cách được hình thành từ một quá trình lâu

Chuyên đề Nhi Khoa

Giới
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nam/nữ là 1/1,22
so với các tác giả khác, tỉ lệ nam/nữ trong
khoảng 1/2 – 2/35,6,7. Các trẻ nữ VTN dễ có nguy
cơ tự tử hơn, do các bé gái dậy thì sớm hơn,
thường nhạy cảm với những thay đổi trong
không khí của gia đình, dễ bị mặc cảm tủi phận,
bị bỏ rơi và thường xuyên có cảm giác lo lắng,
đặc biệt là các em hay bị lầm lẫn giữa tình yêu
đích thực và tình bạn khác giới thân thiết. Khi đã
nhận ra 2 loại tình cảm này, các VTN thường
thất vọng và đau khổ, thường không kiềm chế
được cảm xúc và sự đam mê, dễ dẫn đến những
hậu quả đáng tiếc (quan hệ tình dục và có thai
ngoài ý muốn) hoặc dễ bị lạm dụng tình dục.
Điều này làm cho trẻ VTN nữ có ý định tự tử rất
cao khi sự việc xảy ra(1,2).

Nghề nghiệp
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù học
sinh chiếm tỷ lệ cao nhất là 50%, nhưng điều này
nói lên rằng chỉ có một nửa trẻ VTN tự tử là
được học hành tử tế, còn lại các em vào đời quá
sớm, có 42% trẻ VTN trong nhóm nghiên cứu
nghỉ học ở nhà làm ruộng vườn, hoặc làm
mướn, nội trợ và 8% là không làm gì cả. Hiện
nay Nhà nước ta đang có những chính sách hỗ
trợ đặc biệt, ưu tiên cho đào tạo nghề cho các
em, để giúp các em không thi đậu tốt nghiệp
phổ thông trung học hoặc không đậu vào các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp có điều kiện theo học văn hóa và học
nghề tiếp tục, nhằm cung ứng cho xã hội lực
lượng lao động đã qua đào tạo nghề dồi dào và
hạn chế tình trạng trẻ VTN vào đời quá sớm với
nhiều nguy cơ, cạm bẫy về các bạo lực tình dục,
tệ nạn mãi dâm, ma túy dễ bị có thai ngoài ý
muốn, nạo phái thai không an toàn... Tất cả sẽ để
lại những hậu quả xấu về sức khỏe, tâm lý và xã
hội và là yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến hành vi tự
tử ở các em VTN.

3

Địa chỉ
Trẻ VTN tự tử ở rải rác khắp các huyện, thị,
thành phố trong tỉnh và các tỉnh lân cận nhưng
nổi trội nhất là ở các huyện Châu Thành, Chợ
Gạo và Thành phố Mỹ Tho. Có thể do các nơi
này nằm ở gần Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang,
thuận lợi cho việc chuyển viện, ngoài ra, ở 2
huyện Châu Thành và Chợ Gạo, đa số người
dân là sống bằng nghề nông, ít có thời gian quan
tâm, chăm sóc đúng mức cho trẻ nhằm phát hiện
những vấn đề tâm lý của trẻ để giúp đỡ kịp thời.

Yếu tố thúc đẩy
Nguyên nhân thường gặp nhất là do bất hòa
trong gia đình, bị cha mẹ la mắng (67%). Do tuổi
các em đang lớn, có những biến đổi sâu sắc về
thể chất và tâm lý nhưng chưa hoàn chỉnh. Do
vậy, quan hệ gia đình có vai trò to lớn trong việc
tạo nên cho trẻ những định hướng giá trị đúng
với chuẩn mực xã hội. Bất hòa trong gia đình tạo
nên tính cách bi quan, chán nản, dễ bực tức,
nóng nảy, bất cần. Những tình huống xung đột
xảy ra như bị cha mẹ la mắng, anh em cãi nhau,
bị đánh đòn, bị trừng phạt trước mặt mọi người,
bị rầy oan, bị trách móc khi trẻ đi chơi về
khuya... tức tối vì sự bất công của cha mẹ, sự bất
hòa với người thân, trẻ VTN dễ dàng tự tử. Về
phương diện xã hội, khi có những hành động
thiếu kiềm chế, trẻ không chỉ chống lại bản thân
mình thông qua việc làm tổn thương mình mà
còn chống lại cha mẹ, chống lại cộng đồng nên
trẻ VTN có những hành vi sai lệch là nạn nhân
của chính mình và là những nạn nhân của thiếu
sót, những diễn biến không tích cực của xã hội,
đặc biệt là các thiếu sót của gia đình. Do vậy,
việc tìm cách hạn chế những hành vi nông nổi và
đầy nguy cơ bất thường này không phải chỉ là
việc giúp trẻ VTN có kỹ năng sống thích hợp,
giúp các em biết cách làm chủ cảm xúc mà còn
trách nhiệm của người lớn nói chung. Bên cạnh
nguyên nhân bất hòa trong gia đình, bị cha mẹ
rầy la, thì các yếu tố thất bại trong học tập như bị
điểm kém, bị thi rớt, bị lưu ban cũng là yếu tố
dẫn các em đến tự tử. Trong nghiên cứu của

Chuyên đề Nhi Khoa
4

chúng tôi, cũng gặp 33 % các trường hợp trẻ tự
tử là do kích động mạnh sau uống rượu kèm với
những bế tắc trong cuộc sống trước đó, hoặc do
thất tình, đổ vỡ trong tình cảm bạn bè, trong tình
yêu chưa chín chắn, hoặc cãi nhau với bạn bè...
Có 2 trường hợp sau khi biết mình bị nhiễm
HIV/AIDS, các em không vượt qua nỗi đau khổ
và đã uống thuốc tự tử.
Nhân cách của trẻ VTN được hình thành từ
một quá trình lâu dài với tác nhân là môi trường
và nền giáo dục. Trong gia đình, trẻ chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ cha mẹ, còn trong xã hội, trẻ
chịu ảnh hưởng nhiều từ thầy cô giáo, bạn bè,
hàng xóm... Các mâu thuẫn do cha mẹ quá khắt
khe, thường hay la mắng khiến trẻ hiểu lầm là
cha mẹ không thương, ghét bỏ hoặc cha mẹ đặt
quá nhiều kỳ vọng vào trẻ mà không quan tâm
xem trẻ có khả năng đạt được hay không, hoặc
trẻ đòi hỏi điều gì mà không được cha mẹ đáp
ứng. Gia đình là nơi định hướng nhân cách, là sự
hình thành các yếu tố tâm lý của trẻ. Vì vậy, khi
nghiên cứu các nguyên nhân tâm lý tự sát ở tuổi
VTN thường là do mâu thuẫn giữa các em với
gia đình, nhất là cha mẹ của trẻ.
Do vậy, việc giáo dục tính tự lập cho trẻ
ngay từ nhỏ giúp các em có thể tự mình chống
đỡ với các yếu tố nguy cơ stress và vượt qua
khó khăn tâm lý của chính mình. Sự xuất hiện
đúng lúc của cha mẹ, các thầy cô giáo, của tổ
chức đoàn thể, của bạn bè giúp các em giải
quyết các khó khăn về tâm lý, giúp cho các em
tự mình đứng dậy hoặc tìm người tâm sự.
Trong các trường học rất cần có một phòng tư
vấn tâm lý học đường, trong các tổ chức Đoàn,
Hội cũng có trung tâm tư vấn trẻ VTN, thường
xuyên và đúng lúc giúp các em giải tỏa những
áp lực tâm lý.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Lê Tuấn
Anh(9), cũng ghi nhận 87,8% trẻ em từ 10 – 15
tuổi tự tử là do những xung đột gia đình, trong
nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Thoa6 về ngộ
độc do ý định tự tử ở trẻ em, 68% là do bất hòa
trong gia đình và bị la rầy.

Phương tiện trẻ dùng tự tử
Nghiên cứu cho thấy 97,5% các trường hợp
tự tử bằng đường uống hóa chất hoặc thuốc,
2,5% các trường hợp là tự gây thương tích cho cơ
thể. Các trẻ sống ở các huyện, xã ven thành phố
có huynh hướng sử dụng hóa chất, đặc biệt hóa
chất bảo vệ thực vật làm phương tiện để tự tử.
Đa số dân ở vùng này đều sống bằng nghề nông,
hay trồng trọt, chăn nuôi, thường xuyên sử dụng
các hóa chất thuốc trừ sâu, các loại thuốc diệt cỏ,
diệt côn trùng, hoặc các hóa chất trị các bệnh cho
cây. Các hóa chất này thường có sẵn trong nhà,
trẻ dễ tiếp cận và dùng để tự tử. Các hóa chất trẻ
thường sử dụng là thuốc trừ sâu rầy
(Endosulfan, Thasodant, Basa, Bassan...), các loại
thuốc diệt cỏ (Paraquat, Chlo hữu cơ, 2, 4 – D,
Glyphosate), thuốc dưỡng cây... có trường hợp
tự tử bằng thuốc diệt côn trùng, dầu hỏa, thuốc
rửa bồn cầu...
Các trẻ VTN sống ở thành phố, thị xã, ít có
cơ hội tiếp xúc với các loại hóa chất nông nghiệp,
do đó, chúng thường dùng các loại thuốc (chiếm
35%) có sẵn trong các tủ thuốc gia đình. Thường
nhất là các loại thuốc hướng tâm thần (Seduxen,
Rotunda, aminazin), kế đến là các loại thuốc
giảm đau – hạ nhiệt (Paracetamol, Decolgen,
Aspirine, Panadol...) và một số loại thuốc thông
thường khác trong gia đình.
Có 3 trường hợp, các trẻ tự tử bằng cách tự
gây thương tích cho cơ thể. Các em đã dùng dao
đâm vào bụng sau khi bị la rầy và uống rượu.
Có 3 trường hợp đều không gây thương tích
nặng cho cơ thể và được cứu sống.

Thời điểm tự tử
Trong nghiên cứu này, thời điểm trẻ tự tử rải
rác trong ngày. Điều này cho thấy trẻ không có
khuynh hướng lựa chọn thời điểm tự tử, có thể
trẻ thực hiện hành vi ngay sau những xung đột
xuất hiện cấp thời. Tỷ lệ trẻ tự tử ở thời điểm tối
từ 19 giờ đến 6 giờ sáng nhiều hơn (33,3%) trùng
với thời điểm bị cha mẹ la rầy, la mắng sau một
ngày làm việc căng thẳng và mệt nhọc.

Chuyên đề Nhi Khoa

Chính những xung đột này, kết hợp với ý
tưởng tự tử đã có sẵn ở trẻ trong một thời gian
dài có thể dẫn đến hành vi tự tử. Tự tử trong
thời điểm sum họp gia đình, có cơ hội gặp
nhau giữa các thành viên trong gia đình là đặc
điểm của tự tử ở trẻ VTN. Khác với người lớn,
tự tử ít xảy ra vào ngày nghỉ, giờ nghỉ, do
những thời điểm này, ít gây chấn thương tâm
lý cho người lớn hơn là các thời điềm làm việc
căng thẳng ở cơ quan(3,6).

Địa điểm tự tử
90% trẻ VTN tự tử nơi dễ phát hiện,
thường là tại nhà. Chỉ có 10% trẻ VTN tự tử
nới vắng người. Một nghiên cứu của
Granboulan V3, 80% trẻ tự tử tại nhà, nguyên
cứu của Nguyễn Lê Anh Tuấn(7), cũng có kết
quả 97,6% trẻ tự tử tại nhà.

Điều này cho thấy trẻ không có ý lựa
chọn địa điểm để thực hiện hành vi tự tử.
Có thể là do trong độ tuổi VTN, môi trường
mà trẻ tiếp xúc và gắn bó nhất là tại nhà,
cũng có thể trẻ muốn tự tử tại nhà để phản
kháng, để chống cự, trả thù lại những xung
đột với cha mẹ mà trẻ luôn cảm thấy mình
bị thiệt thòi, bị rầy oan, và đây cũng là nói
lên một điều là trẻ tự tử là do những phản
ứng quá mức nhất thời khiến trẻ thực hiện
hành vi tự tử. Biết được điều này, các bậc
cha mẹ, các nhà tư vấn tâm lý trẻ VTN cần
quan tâm đến diễn biến tâm lý, hành vi của
các em để kịp thời “hạ hỏa” nếu có điều gì
bất ổn; là một hình thức thông thường để
giúp các em vượt qua khó khăn, giúp các em
giải tỏa mình bằng cách không nghĩ đến
chuyện ấy, hoặc đối mặt mọi chuyện bằng
cách viết ra nhật ký, khóc một trận cho thỏa
lòng...
Hành vi sau tự tử
Sau tự tử, 78 % trẻ không làm gì, cho đến khi
có triệu chứng thì người nhà phát hiện, chỉ có
12% báo cho người nhà, bạn bè biết mình đã
thực hiện hành vi tự tử, và 10 % các trường hợp

5

nguon tai.lieu . vn