Xem mẫu

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-00037 Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 5, pp. 78-84 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn TỪ NGỮ VAY MƯỢN GỐC ANH – MỸ TRONG NGÀNH KINH TẾ Lê Thị Thùy Vinh Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Tóm tắt. Cùng với các phương thức tạo từ khác, để tạo nên những từ ngữ ngành kinh tế, việc vay mượn từ vựng được tận dụng ở mức độ cao. Bài báo hướng tới làm rõ từ ngữ vay mượn gốc Anh – Mỹ trong ngành kinh tế vói những xu hướng vay mượn cụ thể. Từ đó hướng tới sự chuẩn hóa ngôn ngữ trong vay mượn ở cộng đồng người sử dụng. Từ khóa: Từ vay mượn, xu hướng vay mượn, gốc Anh – Mỹ, ngành kinh tế. 1. Mở đầu Vay mượn từ vựng là hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ. Nó được hiểu là hiện tượng mượn những từ ngữ từ ngôn ngữ này (ngôn ngữ cho vay) sang sử dụng ở ngôn ngữ khác (ngôn ngữ đi vay) và trở thành một trong những bộ phận của hệ thống ngôn ngữ đi vay nhờ quá trình đồng hóa. Hiện tượng vay mượn cũng là hệ quả của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ - văn hóa thông qua sự lan tỏa, khuếch tán của cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ. Tiếng Việt của chúng ta cũng không tách khỏi quy luật ngôn ngữ chung này. Các từ vay mượn chính là nguồn bổ sung quan trọng cho vốn từ tiếng Việt cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong hệ thống từ vựng hiện nay, bộ phận từ ngữ thuộc các nhóm ngành kinh tế đang phát triển rất mạnh. Nhiều từ ngữ mới ra đời “gia nhập” vào hệ thống theo những con đường khác nhau. Điều này phần nào phản ánh sự phát triển toàn diện của đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa đặc biệt là sự thay đổi và phát triển về bộ mặt kinh tế nước nhà. Những từ ngữ thuộc các nhóm ngành kinh tế mới nổi trong giai đoạn gần đây như tài chính ngân hàng, du lịch, giải trí. . . phần lớn là những từ ngữ vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Theo thống kê của chúng tôi trong hơn 1000 từ ngữ ngành kinh tế thu thập được, có hơn 600 từ ngữ kinh tế vay mượn từ các ngôn ngữ có tiếp xúc. Bên cạnh nguồn từ mượn gốc Hán, nguồn từ mượn từ các ngôn ngữ châu Âu cũng chiếm khoảng 30 % trong tổng số các từ ngữ được sử dụng trong kinh tế. Sự vay mượn này bắt nguồn từ quá trình tiếp xúc giao lưu văn hóa do tác động của sự mở cửa, hội nhập, xu thế toàn cầu hóa mà tiếng Anh đóng vai trò là công cụ chủ yếu. Về vấn đề này, Nguyễn Văn Khang trong Từ ngoại lai tiếng Việt cũng như một loạt bài trong “Dự án điều tra cơ bản các ngôn ngữ ở Việt Nam, nhánh điều tra tiếng Việt giai đoạn 2001 – 2004, phần: Từ ngữ mới xuất hiện trên các báo” đã đưa ra một loạt từ ngữ về kinh tế thị trường để chứng minh sự xuất hiện của từ tiếng Anh trong tiếng Việt đồng thời có nhận xét đáng lưu ý “vay mượn từ các ngôn ngữ khác để làm phong phú thêm ngôn ngữ của mình là một xu hướng phát triển tất Ngày nhận bài: 15/1/2015 Ngày nhận đăng: 20/5/2015 Liên hệ: Lê Thị Thùy Vinh, e-mail: thuyvinh0610@gmail.com 78
  2. Từ ngữ vay mượn gốc Anh – Mỹ trong ngành kinh tế yếu hợp với thời đại” [5;24]. Tác giả Nguyễn Đức Tồn trong Nghiên cứu, khảo sát thuật ngữ tiếng Việt phục vụ cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam [4] cũng đã từng đề cập đến vấn đề này. Bài báo tập trung phân tích hệ thống những từ ngữ vay mượn gốc Anh – Mỹ đang được sử dụng trong lĩnh vực này thông qua việc làm rõ những xu hướng vay mượn để hướng tới việc lựa chọn, thống nhất, chuẩn hóa hệ thống từ ngữ về kinh tế trong cộng đồng người sử dụng. 2. Nội dung nghiên cứu Xem xét các từ ngữ vay mượn tiếng Anh ngành kinh tế trên báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng và thực tế cuộc sống, chúng tôi thấy sự vay mượn từ vựng diễn ra theo các xu hướng sau đây: 2.1. Xu hướng mượn nguyên dạng của nguyên ngữ Ở xu hướng này, người ta sử dụng nguyên cách viết chính tả của ngôn ngữ đi vay, chủ yếu là tiếng Anh. Đây là xu hướng chung của các từ vay mượn tiếng Anh trong các lĩnh vực. Nhưng nếu như ở các lĩnh vực khác của đời sống như giải trí, công nghệ điện tử, thời trang, ẩm thực, quan hệ giao tiếp, tình cảm. . . đây là xu hướng chính bao gồm lượng từ ngữ lớn thì trong lĩnh vực kinh tế, lượng từ ngữ ở xu hướng này khá ít. Có thể nói đến những từ marketing, dollar, container, pick – up, repo (chứng khoán), online, quota, blue chip, penny, index, (số) trace, stoploss, trading (giao dịch), intraday (giao dịch trong ngày), low, cat (đòn kéo neo (sử dụng trong hàng hải)), coupon, banking, sale off , account , sticker , telex (tin). . . Số lượng không nhiều những từ ngữ kinh tế vay mượn nguyên dạng tiếng Anh là bởi những từ ngữ này mang những khái niệm mới chuyên sâu về kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng mới xuất hiện trong khoảng năm năm gần đây cho nên chưa phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người sử dụng. Nhờ những phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình. . . hiện nay người ta mới đang dần “thích ứng” với những khái niệm này, có lẽ phải khoảng mươi năm nữa những thuật ngữ “gốc” mới đi sâu và tác động trực tiếp đến giao tiếp của người Việt (tất nhiên ở chỗ này chúng tôi không xét những trường hợp người nói, người viết cố tình sử dụng nguyên dạng từ ngữ vay mượn nhằm một mục đích nào đó). Việc mượn nguyên dạng của nguyên ngữ xuất hiện nhiều nhất trong những nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu hàng hóa nhằm mục đích quảng cáo về loại hình dịch vụ và sản phẩm. Thí dụ Internet Banking, SMS banking, Phone Banking, thẻ E – Partner, thẻ Fast Access, dịch vụ Smartlink. . . Có thể coi đây là những tên riêng của nhãn hiệu trong thương mại vì thế việc sử dụng chính tả nguyên gốc là cần thiết. Như vậy theo nguyên tắc việc giữ nguyên cách viết tiếng Anh hướng đến “quốc tế hóa từ vựng” là một xu hướng nhằm chính xác hóa thuật ngữ. Nó phù hợp khi những từ ngữ này là những từ ngữ chuyên ngành được dùng trong các văn bản chuyên môn. Thế nhưng với những thuật ngữ kinh tế đặc biệt là các ngành kinh tế mới nổi ở Việt Nam như tài chính ngân hàng, chứng khoán, kinh doanh, kinh tế đối ngoại. . . thì sự chính xác hóa của thuật ngữ lại chịu sự chi phối của khả năng tiếp thu thông tin của đại đa số người sử dụng. Nói cách khác giữa phương thức để nguyên dạng của nguyên ngữ với phương thức sao phỏng (phương thức xây dựng từ ngữ dựa trên “nội lực” của tiếng Việt) vẫn có những trường hợp song song tồn tại hoặc sử dụng trong thế cạnh tranh như marketing – tiếp thị, intraday – giao dịch trong ngày, trading – giao dịch, account – tài khoản, apply – yêu cầu chính thức. . . Cho nên theo chúng tôi, nếu chúng ta sử dụng những từ ngữ ngành kinh tế theo xu hướng nguyên dạng này thì phải làm một cách thận trọng và có định hướng. 79
  3. Lê Thị Thùy Vinh 2.2. Xu hướng mượn bằng con đường phiên chuyển Đây là xu hướng vay mượn từ vựng bằng cách phỏng theo âm đọc của từ ngữ cho vay (tiếng Anh) để ghi lại từ ngữ đó bằng cách đọc, cách viết của ngôn ngữ đi vay (tiếng Việt). Nếu coi xu hướng này là một dạng Việt hóa từ ngữ vay mượn thì đây là sự Việt hóa ở mức độ thấp. Nhóm từ ngữ kinh tế vay mượn thuộc loại này rất ít như ma-két-tinh (marketing), đôla (dollar), công-te-nơ (container), cáp (cable), xanh-đi-ca (syndicate), xoáp (swap), ác-bít (arbitrage), băng co (bancor), các ten (cartel), cooc xê (corset), côn zôn (consols), ốp xơn (option), cu-pôn (coupon). . . Số lượng không nhiều những từ ngữ ở dạng này theo chúng tôi bắt nguồn từ bản chất của xu hướng. Đây là xu hướng tiếp nhận tối đa để có thể phản ánh đầy đủ nhất mặt âm thanh trong ngôn ngữ gốc trên cơ sở âm tiết hóa theo quy tắc của tiếng Việt. Như thế về cơ bản ở phương diện âm thanh đã có sự “gần gụi” với ngôn ngữ gốc, việc âm tiết hóa để “thông dụng” trong cách nói và cách viết đối với người Việt không có ảnh hưởng nhiều. Đặc biệt phải thấy rằng, cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ hiện nay mà hẹp hơn là cộng đồng người làm kinh tế ngày càng có sự tiếp cận với những thuật ngữ, những khái niệm gốc. Cho nên điều này cũng một phần lí giải xu hướng phiên âm từ ngữ kinh tế cũng luôn có sự xung đột với xu hướng để nguyên dạng nguyên ngữ. Theo chúng tôi, đối với những từ ngữ quen thuộc với người sử dụng cả trên cách đọc và cách viết thì nên hướng tới cách viết nguyên dạng (marketing, dollar, container, coupon, option. . . ) còn những từ ngữ chỉ quen thuộc trên cách đọc thì vẫn nên sử dụng xu hướng phiên chuyển (xanh-đi-ca, cáp, côn zôn, băng co, ác bít. . . ). Dần dần cùng với thời gian, khi khả năng tiếp thu thông tin của người sử dụng ngôn ngữ nâng cao, chúng ta có thể hướng tới sử dụng hoàn toàn cách viết nguyên dạng. 2.3. Xu hướng sao phỏng từ ngữ tiếng Anh – Mỹ Những từ ngữ vay mượn ngành kinh tế phần lớn tập trung ở xu hướng này. So với xu hướng thứ hai đã nêu, đây là xu hướng có sự Việt hóa cao độ cả ở cách đọc lẫn cách viết. Bản chất của hiện tượng sao phỏng là vay mượn nội dung khái niệm của thuật ngữ gốc sau đó chuyển dịch cách diễn đạt thuật ngữ gốc bằng từ ngữ và cấu trúc của thuật ngữ mượn. Truyền thống ngôn ngữ học thường gọi cách vay mượn này là can-ke ngữ nghĩa (calque) hay dịch nghĩa (loan translation). Có thể hình dung qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1. Sơ đồ sao phỏng từ ngữ vay mượn Xu hướng sao phỏng từ ngữ có thể phân chia theo hai cấp độ Ở cấp độ thứ nhất, người ta sử dụng những từ ngữ và những quan hệ sẵn có của ngôn ngữ đi vay (tiếng Việt) trên cơ sở dịch lại gần như từng chữ nghĩa của từ vay mượn (tiếng Anh – Mỹ). Có 80
  4. Từ ngữ vay mượn gốc Anh – Mỹ trong ngành kinh tế thể coi đây là một dạng “trực dịch” từ vay mượn. Nó chỉ được áp dụng khi khái niệm được chuyển tải trong thuật ngữ gốc và từ ngữ Việt có sự đối ứng rõ rệt. Cho nên loại này chiếm số lượng khá ít như cash flow (dòng tiền, luồng tiền, ngân lưu), black market (chợ đen), blue book (sách xanh), ceiling price (giá trần), bank loan (khoản vay ngân hàng), fixed investment (đầu tư cố định), hard currency (đồng tiền mạnh, ngoại tệ mạnh). . . Cấp độ thứ hai về cơ bản cũng giống như cấp độ thứ nhất, chỉ có điều ở đây người ta không dịch từng chữ mà chỉ sao phỏng cấu tạo từ, từ đó lựa chọn những từ ngữ thích hợp của ngôn ngữ đi vay và tạo nên từ mới. Như vậy cái không đổi trong từ ngữ mới là “phương thức định danh khái niệm”, “cách gọi tên sự vật” còn cái thay đổi là chất liệu của ngôn ngữ mượn. Theo Nguyễn Ngọc Trâm do đặc điểm về loại hình của tiếng Việt nên ở tiếng Việt chỉ có cách sao phỏng dạng này. Nó hoàn toàn không có sự sao phỏng cấu trúc một cách chặt chẽ với các từ mượn tương ứng, cũng có nghĩa là không có cách sao phỏng ở cấp độ thứ nhất như phân tích ở trên. Theo chúng tôi, sự phân tích của tác giả là hợp lí bởi phần lớn các từ ngữ vay mượn đều thuộc loại này, tuy nhiên sự phủ định hoàn toàn về phương thức “trực dịch” thì chưa đúng với mọi trường hợp. Dưới đây là một số thí dụ thuộc dạng sao phỏng này. Từ gốc (G): deflation và từ mượn (M): giảm phát đều phản ánh khái niệm “hoạt động giảm lạm phát về mức giá” nhưng rõ ràng thuật ngữ M đã phỏng lại bằng chất liệu của ngôn ngữ mượn trên cơ sở về tính hệ thống của từ (đối lập “giảm phát” với “lạm phát”). G: bill of exchance nghĩa là “tờ giấy hoán chuyển nợ” (bill: hóa đơn thanh toán, exchance: chuyển đổi). Đây là tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người này ngay khi nhìn thấy tờ phiếu hoặc đến một ngày nhất định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc trả cho người cầm phiếu. Sao phỏng sang tiếng Việt qua từ Hán Việt ta có từ hối phiếu (nằm trong hệ thống với “hối lộ”, “hối suất”. . . ) G: Dumping có nghĩa là bán hạ giá hàng hóa so với chi phí nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh hoặc giành thêm thị phần. Vẫn giữ khái niệm này, chuyển đổi sang tiếng Việt ta có thuật ngữ M: bán phá giá. Trong tiếng Việt cũng có thêm cụm từ “bán hạ giá” về cơ bản cũng đáp ứng khái niệm trên nhưng “bán hạ giá” và “bán phá giá” có sự khác biệt về tính chấp hành hay không chấp hành quy luật kinh tế chung. Nếu như “bán hạ giá” là hệ quả của quy luật kinh tế nhằm đảm bảo nguồn vốn của người kinh doanh thì “bán phá giá” là sự bất chấp quy luật kinh tế, bất chấp sự thỏa thuận của những đối tác kinh tế để giành phần lợi cho mình. Ngoài ra còn hàng loạt thí dụ khác nữa như whole sale (bán buôn), retailing (bán lẻ), bid (đấu thầu), bond (trái phiếu), credit transfer (chuyển khoản). . . Như vậy dễ thấy thuật ngữ mượn luôn luôn cố gắng tìm những yếu tố cấu tạo chứa đựng những thành tố nghĩa chung với những thành tố trong khái niệm của thuật ngữ gốc. Tùy theo mức độ chung của thành tố nghĩa mà ta có thể nhận thấy sự rõ ràng hay không rõ ràng giữa thuật ngữ gốc và thuật ngữ mượn. Nói khác đi mối liên hệ về nghĩa ở đây là “đậm” hay “nhạt”. Ngoài sự sao phỏng nghĩa của từ hoặc ngữ, nhiều trường hợp từ ngữ ngành kinh tế có sự sao phỏng theo nghĩa chuyển. Thí dụ: thuật ngữ G: Idle balances (Idle: không hoạt động, không được sử dụng; balances (trong tài chính): tổng số tiền còn nợ sau mấy lần thanh toán) được sao phỏng thành thuật ngữ M: tiền nhàn rỗi tức tiền rút ra khỏi lưu thông và được giữ dưới dạng tích trữ của cải. Ở đây từ balances được dịch là “tiền” dựa trên cái được đề cập trong khái niệm gốc (một nét nghĩa) chứ không phải là nội dung khái niệm và từ Idle được dịch là “nhàn rỗi” là dựa trên nghĩa chuyển của từ “nhàn rỗi”. Cũng vậy G: sunk costs tức là khoản chi phí đã mất thì không lấy lại được, được sao phỏng và chuyển dịch thành chi phí chìm và những trường hợp khác như G: 81
  5. Lê Thị Thùy Vinh balance of trade – M: cán cân thương mại; G: clean float – M: thả nổi tự do; G: tax shield – M; lá chắn thuế. . . Trong xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa. . . có tính toàn cầu hiện nay, những từ ngữ ngành kinh tế vay mượn theo xu hướng sao phỏng ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng. Đó là một nhu cầu tất yếu. Bởi thuật ngữ sao phỏng trong tiếng Việt vừa giữ nguyên nội dung khái niệm, vị trí và tính hệ thống của nó trong lớp thuật ngữ chuyên ngành quốc tế lại vừa dễ hiểu, dễ nắm bắt và dễ sử dụng do có vỏ âm thanh là các yếu tố thuần Việt. Thế nhưng có một vấn đề đặt ra là cái vay mượn là nội dung ngữ nghĩa còn toàn bộ hình thức như ngữ âm, chữ viết là ngôn ngữ đi vay cho nên có hiện tượng một thuật ngữ gốc nhưng tương ứng với nhiều thuật ngữ mượn. Một số thuật ngữ mượn cùng phản ánh nội dung khái niệm của thuật ngữ gốc hiện nay vẫn đang được sử dụng trong thế cạnh tranh. Bảng 1. Hệ thống thuật ngữ mượn sử dụng trong thế cạnh tranh Thuật ngữ gốc Thuật ngữ mượn Aggregate demand Cầu gộp, tổng cầu Aggregate income Thu nhập gộp, tổng thu nhập Balance of trade Cán cân thương mại, cán cân buôn bán Bad debt Nợ khó đòi, nợ xấu Cash limit Hạn mức chi tiêu, hạn mức tiền mặt Cash flow Dòng tiền, luồng tiền, ngân lưu Capitalization Tư bản hóa, vốn hóa Coupon Phiếu lãi, lãi chứng khoán, lãi suất trái phiếu Ceiling and floors Mức trần/ mức sàn, mức đỉnh/ mức đáy Deflation Giảm phát, lạm phát âm Government debt Nợ công cộng, nợ chính phủ Foreign exchange market Thị trường hối đoái, thị trường ngoại hối, thị trường ngoại tệ Real price Giá thực tế, giá cố định Market segmentation Phân đoạn thị trường, phân khúc thị trường Tax rate Mức thuế, thuế suất Trade Buôn bán, trao đổi, thương mại, mậu dịch Chuyển giao, chuyển nhượng, chuyển ngân, điều động, sang tên, chuyển Transfer vận, sự dời chuyển Turnround Quay vòng, chu chuyển, thời gian chuyển cảng, thời gian bốc dỡ hàng Tunkey contract Hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng mở khóa bao thầu toàn bộ Wage differential Chênh lệch tiền lương, thang lương Như thế, có thể thấy rằng, trong việc cấu tạo từ ngữ kinh tế mượn bằng dạng thức sao phỏng luôn có nhiều trường hợp sử dụng chưa thống nhất cần được chuẩn hóa. Trên cơ sở các tiêu chuẩn của thuật ngữ khoa học nói chung, tiêu chuẩn của từ ngữ ngành kinh tế Việt Nam nói riêng, Nguyễn Đức Tồn cho rằng có thể vận dụng lí thuyết điển mẫu để chọn lọc thuật ngữ với các thuật ngữ, từ ngữ có hiện tượng đồng nghĩa hoặc có biến thể song song tồn tại [4;85]. Có hai nguyên tắc trong việc lựa chọn thuật ngữ mượn. Thứ nhất, thuật ngữ mượn phải chuyển tải được nội dung khái niệm của thuật ngữ gốc và sự sao phỏng trên phương diện cấu tạo từ phải chặt chẽ, có tính dân tộc cao và dễ dùng. Thứ hai, cần ưu tiên lựa chọn những thuật ngữ mượn chứa các yếu tố cấu tạo có tính tiềm năng tức là từ yếu tố cấu tạo này người ta có thể tiếp tục tạo nên những thuật ngữ mới. Hiện nay người sử dụng cũng đang phần nào ứng dụng những nguyên tắc này. Điều này có thể minh chứng qua tần số xuất hiện của các thuật ngữ mượn kinh tế cùng phản ánh thuật ngữ gốc trên báo 82
  6. Từ ngữ vay mượn gốc Anh – Mỹ trong ngành kinh tế chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Trở lại thí dụ chúng tôi đã dẫn, cùng phản ánh nội dung khái niệm trong thuật ngữ G: cash flow (để chỉ số tiền mà một công ti nhận được hoặc phải chi ra trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong một dự án nhất định), người ta thường sử dụng song song hai thuật ngữ M: dòng tiền và luồng tiền, tuy nhiên “dòng tiền” có tần số xuất hiện cao hơn. Từ yếu tố cấu tạo “dòng” này, người ta tiếp tục tạo nên những từ ngữ mới phản ánh những sự vật, hiện tượng hoặc khái niệm mới như dòng xe, dòng vốn, dòng sản phẩm, dòng đầu tư, dòng điện thoại, dòng thuế, dòng máy tính, dòng thẻ. . . Cũng vậy, aggregate income được xem là tổng các khoản thu nhập của tất cả các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Thuật ngữ gốc này được dịch là thu nhập gộp hoặc tổng thu nhập. Hai từ mượn thông qua con đường sao phỏng đều thể hiện được nội dung của thuật ngữ gốc, tuy nhiên theo chúng tôi dịch là “tổng thu nhập” thì tốt hơn so với “thu nhập gộp”. Bởi lẽ xét về phương tiện cấu tạo từ hai yếu tố Hán Việt trong tổ hợp “tổng thu nhập” có mối quan hệ chặt chẽ hơn là hai yếu tố Hán Việt và Việt trong “thu nhập gộp” và xét về mối quan hệ giữa hai yếu tố, dễ thấy mô hình thành tố chính + thành tố phụ trong “tổng thu nhập” là phù hợp với ngữ pháp của tiếng nước ta. Bên cạnh đó, đặt trong hệ hình chung tổng + X thì nhiều tổ hợp theo mô hình này xuất hiện như tổng sản lượng, tổng chi tiêu, tổng cầu, tổng cung. . . Có thể thấy rõ việc lựa chọn thuật ngữ trong bảng sau: Bảng 2. Lựa chọn thuật ngữ mượn sử dụng trong thế cạnh tranh Thuật ngữ gốc Thuật ngữ mượn Từ chuẩn Aggregate demand Cầu gộp, tổng cầu Tổng cầu Aggregate income Thu nhập gộp, tổng thu nhập Tổng thu nhập Balance of trade Cán cân thương mại, cán cân buôn bán Cán cân thương mại Bad debt Nợ khó đòi, nợ xấu Nợ xấu Cash limit Hạn mức chi tiêu, hạn mức tiền mặt Hạn mức chi tiêu Cash flow Dòng tiền, luồng tiền, ngân lưu Dòng tiền Capitalization Tư bản hóa, vốn hóa Vốn hóa Coupon Phiếu lãi, lãi chứng khoán, lãi suất trái phiếu Lãi suất trái phiếu Ceiling and floors Mức trần/ mức sàn, mức đỉnh/ mức đáy Mức trần/ mức sàn Deflation Giảm phát, lạm phát âm Giảm phát Government debt Nợ công cộng, nợ chính phủ Nợ công Thị trường hối đoái, thị trường ngoại hối, thị Foreign exchange market Thị trường ngoại tệ trường ngoại tệ Real price Giá thực tế, giá cố định Giá thực tế Market segmentation Phân đoạn thị trường, phân khúc thị trường Phân đoạn thị trường Tax rate Mức thuế, thuế suất Mức thuế Trade Buôn bán, trao đổi, thương mại, mậu dịch Thương mại Chuyển giao, chuyển nhượng, chuyển ngân, Transfer Chuyển nhượng điều động, sang tên, chuyển vận, sự dời chuyển Quay vòng, chu chuyển, thời gian chuyển cảng, Turnround Chu chuyển thời gian bốc dỡ hàng Hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng mở Tunkey contract Hợp đồng trao tay khóa bao thầu toàn bộ Wage differential Chênh lệch tiền lương, thang lương Lương chênh lệch 83
  7. Lê Thị Thùy Vinh 3. Kết luận Sự vay mượn từ ngữ từ ngôn ngữ Anh – Mỹ đã tạo ra một lớp từ ngữ mới về kinh tế cho hệ thống từ vựng tiếng Việt. Lớp từ ngữ này có thể đã có tính chất cố định (thuật ngữ) cũng có thể mới chỉ là những biến thể khác nhau ở những người sử dụng. Những biến thể này có trở thành thuật ngữ hay không phụ thuộc rất lớn vào quá trình lựa chọn của cộng đồng xã hội. Dẫu vậy xét ở trạng thái hiện nay, những từ ngữ mượn này không chỉ làm thay đổi số lượng từ vựng ngôn ngữ mà còn góp phần làm biến đổi chất lượng kho từ vựng nói chung. Vấn đề cần đặt ra hiện nay đối với lớp từ vay mượn này là người sử dụng ngôn ngữ cần phải có cách tiếp nhận và sử dụng từ vay mượn sao cho vừa giữ được bản sắc ngôn ngữ phù hợp với điều kiện ngôn ngữ - xã hội ở giai đoạn hiện nay lại vừa cập nhật với xu hướng phát triển mang tính toàn cầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đỗ Hữu Châu, 1981. Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [2] Nguyễn Văn Khang, 2007. Từ ngoại lai trong tiếng Việt. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [3] Nguyễn Ngọc Trâm, 2002. Về hai xu hướng trong phát triển từ vựng tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ, số 6 (153), tr 1. [4] Nguyễn Đức Tồn, 2012. Nghiên cứu, khảo sát thuật ngữ tiếng Việt phục vụ cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam. Đề tài cấp Bộ, Mã số: CT 11-13-02. [5] Viện Ngôn ngữ học, 2005. Dự án điều tra cơ bản các ngôn ngữ ở Việt Nam, nhánh điều tra tiếng Việt giai đoạn 2001 – 2004, phần: Từ ngữ mới xuất hiện trên các báo, Hà Nội. ABSTRACT Borrowing terminologies rooted from American and British in Economy Together with other methods of building vocabulary, borrowing words is made the best used of to build economic vocabulary. This paper aims to clarify the some Economic Terminologies borrowing from American and British with specific borrowing trends. In doing so, the linguistic standardisation for borrowing words users is focused. Key words: Borrowing terminologies, borrowing trends, borrowing from American and British, economy. 84
nguon tai.lieu . vn