Xem mẫu
- Từ con số không trở thành anh
hùng: Những ý tưởng không tưởng
làm chuyển biến thế giới (8)
Những sinh vật bé nhỏ
Khi một nhà buôn vải người Hà Lan thế kỉ thứ 17 nói với các trí tuệ lỗi lạc
nhất xứ London rằng ông ta nhìn thấy các “sinh vật nhỏ bé” qua chiếc kính hiển vi tự
tạo của mình, họ đã bán tín bán nghi.
Vào đầu mùa thu năm 1674, Henry Oldenburg, thư kí của Hội Hoàng gia ở
London, nhận được một lá thư đặc biệt. Người gửi là Antoni van Leeuwenhoek,
một nhà buôn vải xứ Delft ở Hà Lan, trong thư nêu một kết luận nghe có vẻ không
thể xảy ra được.
- Antoni van Leeuwenhoek (Ảnh: Jan Verkolje)
Sử dụng một chiếc kính hiển vi do ông tự chế tạo, van Leeuwenhoek đã nhìn
thấy những sinh vật nhỏ xíu, không thể nhìn thấy bằng mắt trần, sinh sống trong
nước ao hồ. Một số trong những “động vật nhỏ bé” này thật sự quá nhỏ, như sau
này ông ước tính, nếu lấy 30 triệu con như vậy sắp thành hàng thì vẫn nhỏ hơn
một hạt cát.
Các giới chức ở Hội Hoàng gia bán tín bán nghi. Ngay cả với những thiết bị
mạnh nhất của mình, thì nhà hiển vi học danh tiếng người Anh Robert Hooke cũng
chưa bao giờ quan sát thấy bất cứ thứ gì trông giống như những sinh vật bé nhỏ cả.
Thật ra thì người Hà Lan trên đã phát triển các thấu kính ưu việt hơn nhiều
so với các thấu kính của Hooke, và ông đã phát hiện ra các vi khuẩn và động vật
nguyên sinh. Với việc chế tạo ra các thấu kính ngày một nhỏ hơn và cong hơn – sử
dụng một kĩ thuật mà ông vẫn giữ kín – van Leeuwenhoek đã có thể phóng đại các
vật lên tới 500 lần. Đồng thời với việc khám phá ra giới vi sinh vật, ông còn là
người đầu tiên nhìn thấy các tế bào hồng cầu của máu.
Năm 1677, van Leeuwenhoek gửi tiếp những quan sát động vật nhỏ bé khác
nữa cho Hội Hoàng gia. Cuối cùng rồi Hooke đã cải tiến các kính hiển vi do ông chế
tạo và ông đã có thể nhìn thấy những sinh vật bé nhỏ ấy. Ba năm sau, van
Leeuwenhoek được kết nạp làm hội viên Hoàng gia.
Nhưng mãi cho đến năm 1890, hơn 160 năm sau khi van Leeuwenhoek qua
đời, thì vi khuẩn mới được người ta biết đến là có liên quan đến bệnh tật. “Đọc các
lá thư của van Leeuwenhoek, bạn sẽ hình dung ra sự ấn tượng của những người bị
hoa mắt trước những cái ông đang tìm ra”, theo lời Lesley Robertson, người phụ
trách các phòng trưng bày tại khoa vi sinh vật học trường Đại học Delft. “Ông nghĩ
rằng ông đã tìm ra một thế giới hoàn toàn mới – nhưng chắc chắn ông chưa bao
giờ nhận ra mối liên quan [của chúng] với bệnh tật”.
- Từ con số không trở thành anh
hùng: Những ý tưởng không tưởng
làm chuyển biến thế giới (7)
Số phận bi thảm của nhà tiên phong di truyền học
Ngày nay, chúng ta biết rằng tập tính di truyền có thể biến đổi đáng kể mà
không có sự biến đổi ADN – nhưng một nhà khoa học xấu số đã phải tự vẫn vào năm
1926 để đưa kết luận đó vào lịch sử khoa học.
Khi Paul Kammerer dùng súng tự sát trên một sườn đồi ở Áo vào năm 1926,
có vẻ như số phận đã trù định ông chỉ được người ta nhớ tới là một kẻ lừa đảo
trong khoa học, người đã bịa ra các kết quả của mình để chứng minh cho một lí
thuyết gây tranh cãi. Thật ra, có lẽ ông đã có chút ý tưởng thoáng qua về biểu sinh
học, những biến đổi có ảnh hưởng trong tập tính di truyền không liên quan gì đến
các đột biến ADN.
- Ý tưởng đúng nằm trong tay kẻ lừa gạt? (Ảnh: Paul Hobson/FLPA)
Kammerer đã không được biết tới với các thí nghiệm của ông về con cóc bà
mụ, Alytes obstetricans (xem ảnh), một loài lưỡng cư bất thường bắt cặp và đẻ
trứng trên đất khô. Bằng cách giữ các con cóc trong điều kiện khô, nóng bất
thường, ông buộc chúng giao phối và để trứng trong nước. Chỉ một vài quả trứng
nở con, nhưng con cái của những cuộc hôn nhân dưới nước này cũng gây giống
trong nước. Kammerer kết luận đây là bằng chứng của sự di truyền Lamacrk –
quan điểm (ngày nay được biết là không đúng) rằng các đặc điểm cần thiết trong
quãng đời của một cá nhân có thể di truyền cho con cái của nó.
Tháng 8 năm 1926, Kammereer bị chỉ trích là gian lận trên các trang báo
Nature (Vol 118, trang 518). Sáu tuần sau đó, ông đã tự sát. Câu chuyện buồn phần
lớn bị quên lãng cho đến năm 1971, khi Arthur Koestler cho xuất bản một tập sách
khẳng định rằng các thí nghiệm của nhà sinh học trên có thể đã bị can thiệp bởi
chính quyền phát xít. Kammerer là một người theo chủ nghĩa xã hội, ông dự tính
xây dựng một học viện ở Liên Xô, khiến ông trở thành mục tiêu của phong trào
quốc xã đang phát triển ở Vienna khi ấy.
Rồi vào năm ngoái, nhà sinh học Alex Vargas thuộc trường Đại học Chile ở
Santiago đã xem xét lại công trình của Kammerer. Theo Vargas, Kammerer không
phải là kẻ gian lận, mà ông đã tình cờ phát hiện ra sự biểu sinh (Journal of
Experimental Zoology B, vol 312, trang 667). “Kammerer có phương pháp tiếp cận
đúng”, Vargas nói, ông hi vọng rằng các thí nghiệm con cóc một ngày nào đó sẽ
được lặp lại.
- Ngày nay, chúng ta biết rằng các kiểu di truyền thuộc loại mà Kammerer
khẳng định đã quan sát thấy có thể là do sự biểu sinh. Quá trình này là trọng tâm
nghiên cứu của sinh học phân tử, và vô số loại thuốc hoạt động trên nó đã được
phát triển. Nó đã được khám phá bất kể đến Kammerer – nhưng có lẽ chúng ta sẽ
không phải chờ đợi những loại thuốc đó lâu như vậy nếu như ông đã được lịch sử
nhìn nhận nghiêm túc.
nguon tai.lieu . vn