Xem mẫu

  1. Từ Chí Ma – tư tưởng và phong cách nghệ thuật ThS. Nguyễn Văn Hoài Khoa Văn học và Ngôn ngữ - Đại học KHXH&NV TP.Hồ Chí Minh. Từ Chí Ma徐志摩 (1896 – 1931) tên là Chương Tự 章垿, ban đầu tên tự là Dậu Sâm 槱森 sau đổi là Chí Ma, lại còn có tự là Hựu Thân 又申, bút danh Nam Hồ 南湖, Thi Triết 诗哲, Vân Trung Hạc 云中鹤,… người Hải Ninh tỉnh Chiết Giang(1). Giữa thập niên 20 của thế kỉ XX, Từ Chí Ma là vị chủ tướng của phong trào thơ tân cách luật do phái Tân nguyệt phát động. Ông không những đưa ra sáng tác luận đối với thể cách thơ mới Trung Quốc, mà còn đạt được những thành tựu thi ca nổi bật từ rất nhiều thực nghiệm thơ tân cách luật trong thực tiễn sáng tác của mình. Đối với thi nhân phái tân cách luật và thi đàn hiện đại Trung Quốc đương thời, ông đã có những ảnh hưởng hết sức to lớn. Hiện nay, trong các bộ văn học sử Trung Quốc hiện đại, ông luôn được xếp vào hàng tác gia tiêu biểu. Chúng tôi giới thiệu sự nghiệp thi ca của Từ Chí Ma như là một nhân tố trọng yếu góp phần hiện đại hóa thi ca Trung Quốc. 1. Có thể nói, ngoài khí chất đa cảm, mang thiên hướng nghệ thuật ra, thì một trong những tác nhân quan trọng khiến Từ Chí Ma trở thành thi sĩ ấy là việc ông “rơi xuống” nước Anh – chiếc nôi thi ca lãng mạn thế kỉ XIX. Ông tự thuật rằng, sau khi đến Đại học Cambridge thì “hứng thú với văn học nghệ thuật” mới “thành hình vững chắc” trong ông. “Cambridge đã khiến tôi mở mắt ra, Cambridge đã khơi dậy sự ham học hỏi trong tôi, Cambridge đã gieo mầm ý thức bản ngã trong tôi”(2). Rõ ràng “Cambridge không những cho ông một lí tưởng chính trị dân chủ kiểu Anh và thái độ nhân sinh của một trí thức tự do chủ nghĩa, mà còn bồi dưỡng hứng thú sống và hứng thú nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa trong ông”(3). Về lí tưởng nhân sinh của ông, Hồ Thích từng nói: “Nhân sinh quan của ông thật sự là một “tín ngưỡng đơn giản”, bên trong nó chỉ có 3 chữ lớn: một chữ Ái, một chữ Tự do, một chữ Mĩ. Ông ước mơ 3 điều kiện lí tưởng này có thể hợp lại đầy đủ trong cuộc sống con người, […]. Lịch sử cả đời ông chỉ là lịch sử truy cầu việc thực hiện “tín ngưỡng đơn giản” ấy”(4). Trong bài Ngày giỗ Lênin – bàn về cách mạng (Lạc diệp), Từ Chí Ma cho rằng, chỉ cần người nào có thể khiến cho tinh thần con người đạt đến sự tự do phát triển, thì ông sẽ “sụp lạy” người ấy. Trong đó, ông bộc lộ khá rõ tư tưởng của mình, một tư tưởng hướng thiện, tự do truy cầu những gì tốt đẹp, dường như không chính kiến, không chủ nghĩa. Từ Chí Ma công khai tuyên bố: “Tôi là một kẻ cá nhân chủ nghĩa không thể giáo huấn được. Điều này chẳng có gì cao thâm, đấy chỉ là nói tôi chỉ biết cá nhân, chỉ nhận thức rõ ràng cá nhân, chỉ tin tưởng vào cá nhân”(5). Với quan niệm đậm màu chủ nghĩa cá nhân như thế nên nhiều lúc người ta thấy Từ Chí Ma có vẻ mâu thuẫn trong thái độ và chính kiến. Chẳng hạn, trong bài Ngày giỗ Lênin – bàn về cách mạng, trong lời tựa Tỉnh thế nhân duyên, hay trong Xibêri tạp kí (Âu du mạn lục), ta thấy ông ca ngợi Lênin chỉ là ca ngợi cá nhân Lênin, chứ hoàn toàn không ca ngợi chủ nghĩa Lênin; ông ca ngợi tính cách anh hùng của nhân dân Nga trong Cách mạng
  2. Tháng Mười, nhưng không tán thành con đường của Cách mạng Tháng Mười. Đối với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực hắc ám trong nước, thái độ của ông cũng cho thấy những mâu thuẫn như vậy. Từ những biểu hiện căn bản trên, tác giả Trung Quốc tân thi sử cho rằng, hạt nhân tư tưởng của Từ Chí Ma là chủ nghĩa dân chủ cá nhân(6). 2. Từ Chí Ma thuộc thế hệ thi nhân trẻ tân tiến sáng tác dưới sự tác động trực tiếp của trào lưu thơ mới từ phong trào “Ngũ tứ”. Vốn mang trong hồn nụ mầm thi ca lãng mạn Âu Mĩ mới lạ, nên chỉ cần gặp không khí đổi mới là tâm hồn Từ Chí Ma bùng nở như hoa gặp khí xuân. Ông tự thuật việc sáng tác của mình ở thời kì đầu ấy rằng: “Có một thời kì ý thơ của tôi đúng là giống như nước lũ tự núi cao đổ xuống, tuôn tung tóe bất kể phương hướng”(7). Ư Khả Huấn cho rằng: “Điều này có điểm rất giống với chất dạt dào cảm hứng sáng tác như hỏa sơn phun trào và phương thức sáng tác “kiểu tuôn lửa” của Quách Mạt Nhược”(8). Nhưng về quan niệm thi ca và thực tiễn sáng tác ông lại khác với Quách Mạt Nhược. Nếu như họ Quách theo thuyết “mĩ nhân khỏa thân” chủ trương “tự do đến cùng” về hình thức của thơ, cho rằng “nếu là người đẹp đích thực thì mặc cái gì cũng đẹp, khỏa thân chẳng mặc thứ gì càng đẹp hơn”(9), thì họ Từ lại chủ trương thơ phải có “hình thể hoàn mĩ”, “hình thể hoàn mĩ là biểu hiện duy nhất một tinh thần hoàn mĩ”(10). Nghĩa là họ Quách không quan tâm đến hình thức thể hiện, chỉ chú trọng nội dung tư tưởng, còn họ Từ thì chú trọng cả hai. Điều này chủ yếu được lí giải ở khía cạnh khí chất và sự ảnh hưởng. Cái thiên bẩm nghệ thuật có thiên hướng lãng mạn, duy mĩ có sẵn trong Từ Chí Ma được định hình vững chắc khi ông tiếp xúc nhiều với các tác gia lãng mạn chủ nghĩa Âu Mĩ. Họ không những làm biến đổi khí chất mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ thái độ nhân sinh và quan điểm nghệ thuật của ông. Quách Mạt Nhược và Từ Chí Ma tuy cùng là kiểu thi nhân có khí chất lãng mạn, đều bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Âu Mĩ, đối với chủ nghĩa lãng mạn Âu Mĩ đều có thái độ giống nhau, nhưng nguồn ảnh hưởng lại không như nhau. “Quách Mạt Nhược thiên về vận dụng thể thơ tự do phóng bút phơi bày tất cả của nhà thơ Mĩ W. Whitman, làm một hỏa sơn phun trào tâm tư tình cảm”, còn “Từ Chí Ma thì thiên về lối thơ cách điệu giàu vận luật của thời đại Victoria nước Anh, bộc lộ những uẩn khúc chứa chan tình cảm của riêng mình”(11). Về sự ảnh hưởng của các tác gia Anh đối với Từ Chí Ma, Ư Khả Huấn cho rằng: “Nếu như nói W. Wordsworth, G..G. Byron, P.B. Shelley, J. Keats khiến cho Từ Chí Ma trở thành một nhà thơ lãng mạn chủ nghĩa gần gũi với tự nhiên, ca hát về tình yêu và cái đẹp, thì A. Tennyson, vợ chồng Browning và T. Hardy đã khiến Từ Chí Ma tiến thêm một bước, trở thành một thi sĩ lãng mạn chủ nghĩa coi trọng hình thức tinh mĩ ”(12). Chính những khác biệt về mặt khí chất và nguồn ảnh hưởng đó “đã khiến cho Từ Chí Ma rốt cuộc không thể thành vị tổ đầu tiên của Tân thi hào phóng phái thời hiện đại như Quách Mạt Nhược, mà thành thủ lĩnh phái “duy mĩ” của thi ca Trung Quốc thế kỉ XX”(13). Về cơ bản, do lai tạo nên tư tưởng “sáng cách” (sáng tạo thể cách mới) của Từ Chí Ma là xuất phát từ nguồn ảnh hưởng này, và những thể cách thơ mới lạ, tiêu biểu được mệnh
  3. danh “Chí Ma thể” mà ông đã cống hiến cho thi ca hiện đại Trung Quốc, cũng chính là kết quả của quá trình lao tâm khổ tứ trui rèn của ông dưới sự ảnh hưởng này. Tuy nhiên, nói đến thành quả “sáng cách” của Từ Chí Ma thì không thể không kể đến sự ảnh hưởng, tác động của nhóm thi nhân đã có công mài dũa, nghiên cứu thảo luận đối với “lí luận và nghệ thuật thơ” lúc bấy giờ, mà Văn Nhất Đa là trung tâm, là linh hồn. Đây chính là nhân tố khởi động ý thức “sáng cách” của họ Từ trực tiếp nhất. Từ Chí Ma từng công nhận rằng: “Nhất Đa không những là một thi nhân, anh ấy còn là một người có hứng thú nghiên cứu thảo luận đối với lí luận và nghệ thuật thơ. Tôi nghĩ năm sáu năm ấy mấy người bạn làm thơ chúng tôi ít nhiều đều chịu sự ảnh hưởng của tác giả tập thơ Tử thủy”(14). Việc nghiên cứu thảo luận của nhóm Văn Nhất Đa “đã gợi mở ý thức nghệ thuật của ông đối với hình thức của thơ mới”, đã “khiến ông đem cái hứng thú tự phát đối với thơ cách luật của Tây đặc biệt là của Anh đưa vào quỹ đạo tự giác trong việc xây dựng và thử nghiệm thơ tân cách luật, mới có lí luận và thực tiễn tự giác trong “sáng cách” của ông”(15). 3. Về mặt lí luận cách luật thơ mới, so với Văn Nhất Đa thì trình độ chuyên nghiệp và sự ảnh hưởng của Từ Chí Ma không sánh bằng, nhưng lí luận “sáng cách” của ông vẫn có những đóng góp độc đáo của nó. Theo tác giả Tân thi thể nghệ thuật luận những đóng góp độc đáo này biểu hiện chủ yếu ở hai phương diện sau: Thứ nhất, ông chủ trương “hình thức hoàn mĩ” của thơ là “biểu hiện duy nhất” của “tinh thần hoàn mĩ”, xem “chất” (nội dung) và “thức” (hình thức) là một thể thống nhất không thể phân chia. Ông khẳng định: Chúng ta tin rằng từ tâm trí của bản thân chúng ta cho đến không khí xung quanh phần lớn là những tâm hồn mang tư tưởng đòi hỏi được đầu thai, trách nhiệm của chúng ta là chuyển tạo một thể xác thích hợp cho chúng, đấy chính là sự thể hiện cách thức mới và nhịp điệu mới của thơ văn và những loại nghệ thuật khác; Chúng ta tin rằng hình thức hoàn mĩ là biểu hiện duy nhất của tinh thần hoàn mĩ(16). Thứ hai, cho rằng “sáng cách” trong thơ mới là “sự phát hiện mới về thể thức và nhịp điệu”. Ông nói: “Sự sống của thơ là nhịp điệu bên trong bản thân nó”, “là sự tề chỉnh và trôi chảy của nhịp điệu bên trong”. “Câu chữ trong một bài thơ là dáng vẻ bên ngoài của thân thể, nhịp điệu là huyết mạch bên trong”. “Quyết định số câu dài ngắn, câu chữ chỉnh tề hay không chỉnh tề, hoàn toàn dựa vào sự cảm nhận của bạn đối với ba động tính của nhịp điệu”, nếu không sẽ dễ dàng “ngộ nhận vẻ tề chỉnh của câu chữ (đây là cái hình thể bên ngoài) là sự đảm bảo về nhịp điệu (đây là cái ở bên trong)”(17). Xin thuyết minh thêm, khái niệm “nhịp điệu” mà Từ Chí Ma dùng ở trên chính là vấn đề tiết tấu, nhạc tính trong thơ. Thế nên ở phương diện thứ hai này Đào Diệu Đông gọi tên cụ thể hơn, cho rằng đó là cái đẹp âm nhạc trong thơ. Họ Đào cũng không tiếc lời công nhận: “Cống hiến lớn nhất của Từ Chí Ma đối với thơ mới là ở phương diện cái đẹp âm nhạc. Ông đã đặt cái đẹp âm nhạc lên địa vị hết sức trọng yếu trong các nhân tố đẹp của thơ”(18). 4. Trong thực tiễn sáng tác thi ca, trên đại thể Từ Chí Ma đã tỏ ra hết sức quán triệt những chủ trương lí luận của mình, và đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần tạo nên diện mạo mới của thi ca Trung Quốc hiện đại. Những thành tích của Từ Chí Ma ở
  4. phương diện “du nhập, sáng tạo và thử nghiệm” thể thức thơ mới không những được người đương thời ngợi khen mà hậu nhân cũng hết mực trân trọng. Với dung lượng hữu hạn của một bài viết, chúng tôi không thể trình bày những vấn đề thuộc về nội dung tư tưởng thi ca của ông, mà chỉ điểm qua hai cống hiến lớn, được xem là thành tựu nổi bật tạo nên phong cách nghệ thuật thi ca của Từ Chí Ma, đó là: những thể thơ được mệnh danh “Chí Ma thể” (có thể xem là cái đẹp kiến trúc) và vẻ đẹp âm nhạc. Thơ mới Trung Quốc ở buổi đầu bồng bột đã không tránh được cái khuyết tật tự do tản mạn, văn xuôi hóa, đánh mất vẻ đẹp hình thức. Trong tình hình cách mạng thi ca quá đà đó, Từ Chí Ma như một vị tướng tiên phong, dũng cảm tìm tòi, táo bạo sáng tạo những thể thơ tân cách luật, góp công lớn trong việc uốn nắn sự lệch lạc của thơ mới, cống hiến cho thơ mới Trung Quốc nhiều thể cách có giá trị mẫu mực cho đến tận ngày nay. “Ít nhất ông đã vận dụng và sáng tạo ra mười mấy kiểu thức thơ”(19). Trong những thể thơ đó, nhiều thể đã trở thành kinh điển được giới nghiên cứu gọi là “Chí Ma thể”. Những thể thơ này có đặc điểm cơ bản: thường là câu dài ngắn không đều đan xen nhau, những câu thơ được xếp bày so le, hội lại thành cú thức và vận luật tề chỉnh. Song, hình thức cơ bản trên có thể dao động nhiều vẻ và nhiều biến hóa. Từ đặc điểm tổng thể, có thể quy thành hai dạng thức chính yếu là: xếp câu kiểu bậc thang và xếp câu kiểu bao ôm. Câu bậc thang là kiểu xếp câu tiêu biểu, thường thấy trong thơ Từ Chí Ma. Kiểu câu bậc thang này dạng thức cơ bản là xếp câu so le, hai câu tạo hình bậc thang. Từ kiểu cơ bản này sinh ra rất nhiều biến thể, được ông vận dụng linh động, hết sức đa dạng. Chẳng hạn, dưới đây là kiểu câu bậc thang cơ bản, ta có thể gọi là bậc thang đơn (tức bậc thang một dòng): 软泥上的青荇, 油油的在水底招摇; 在康河的柔波里, 我甘心做一条水草! (Tạm biệt Cambridge再别康桥, khổ thứ 3) Theo thống kê của Ư Khả Huấn, “kiểu xếp câu này trong hơn 130 bài thơ ở 3 thi tập (Thơ Chí Ma 志摩的诗, Một đêm ở Firenze翡冷翠的一夜(20), Mãnh hổ tập 猛虎集) đã chiếm đến trên 25 bài. Đấy chỉ là so sánh dựa trên tiêu chí câu xếp kiểu bậc thang một dòng”(21). Ngoài ra hãy còn có rất nhiều biến thể, thường thấy là kiểu xếp câu kiểu bậc thang kép hai dòng, hai dòng thêm một dòng, kiểu ba dòng thêm một dòng, bốn dòng thêm một dòng, và những kiểu xếp câu bậc thang hỗn hợp không giống nhau tạo thành một kiểu bậc thang phức tạp. Dưới đây là kiểu bậc thang kép hai dòng, hai dòng, thêm một dòng: 假若我是一朵雪花, 翩翩的在半空里潇洒, 我一定认清我的方向 –– 飞飏,飞飏,飞飏, –– 这地面上有我的方向。
  5. (Niềm vui của hoa tuyết雪花的快乐, khổ đầu) Đại để là như vậy. Từ 2 thí dụ trên có thể suy ra các biến thể khác. Theo tác giả Tân thi thể nghệ thuật luận, nếu thống kê những biến thể của kiểu xếp câu bậc thang có hình thức không giống nhau như đã nói “thì những bài xếp câu kiểu bậc thang chiếm đến 1 phần 3 trên toàn bộ tác phẩm trong 3 thi tập nói trên”(22). Kiểu câu bao ôm cũng có thể xem là một dạng biến thể của kiểu bậc thang. Nhưng bởi vì phần lớn có hình thức là những câu ngắn tề chỉnh được “ôm kẹp” giữa những câu dài tề chỉnh, tạo nên hình khối lạ mắt, không phải hình bậc thang, nên người ta tách chúng thành một loại riêng. Kiểu xếp câu bao ôm này có các dạng: hai câu dài ở đầu và cuối khổ thơ ôm bọc một câu ngắn nằm ở giữa, hoặc hai câu ngắn nằm ở giữa, hoặc ba câu ngắn nằm ở giữa, hoặc nhiều câu ngắn hơn nữa, và những kiểu xếp câu ôm bọc hỗn hợp không giống nhau tạo thành một kiểu bao ôm phức tạp. Dưới đây xin dẫn ra kiểu thường thấy nhất, từ đó có thể suy ra các biến thể khác của loại này. Thí dụ khổ thơ thứ 2 trong bài Vì muốn tìm một vì sao sáng 为要寻一颗明星: 我冲入这黑绵绵的昏夜, 为要寻一颗明星;–– 为要寻一颗明星, 我冲入这黑茫茫的荒野。 Ư Khả Huấn cho biết: “Những kiểu xếp câu bao ôm không giống nhau như thế này, trong 3 thi tập nói trên có đến gần 20 bài. Nếu như gộp chung vào loại thơ xếp câu kiểu bậc thang, thì số bài thơ thuộc hai nhóm lớn này sẽ chiếm đến phân nửa trong 3 tập thơ ấy”(23). Điều này cho thấy các thể thức thơ xếp câu mới lạ có nguồn gốc Tây Âu, khác với hình thức thơ truyền thống Trung Quốc đã được Từ Chí Ma tích cực vận dụng, biến cải, thử nghiệm trên loại chữ viết khối vuông, tượng hình. Và những thử nghiệm này đã đạt được hiệu quả thị giác mà các ngôn ngữ dùng mẫu tự ghi âm không thể có được. Cũng có thể có người cho rằng các kiểu thơ đó chỉ là “trò chơi xếp chữ”, để nhìn cho vui mắt. Nhưng, nếu xem xét kĩ nhịp điệu, vận luật thì ta thấy đấy không đơn thuần là kiểu “cắt sắp câu chữ giống như cắt đậu phụ”, mà nó có quan hệ mật thiết với việc thể hiện tiết tấu, giai điệu trong thơ. Đó là cái đẹp âm nhạc trong thơ họ Từ. Giàu nhạc tính là một trong những đặc trưng nổi bật của thơ Từ Chí Ma. Thơ ông không ít bài đọc lên nghe réo rắt du dương như một nhạc khúc, có giai điệu khá hoàn chỉnh. Hơn nữa, tính nhạc và thi ý thi tình lại hết sức hài hòa, có sức cảm nhiễm lớn. Trong đó có thể kể ra những bài tiêu biểu như Sha yang na la, Tạm biệt Cambridge, Tiếng tì bà nửa đêm trong ngõ sâu, Tôi không biết gió –, Niềm vui của hoa tuyết,… Đào Diệu Đông cho rằng những bài này “dường như không chỉ có thể ngâm nga mà còn có thể hát”(24). Sha yang na la(25) là một bài thơ ngắn trong tập Thơ Chí Ma, tác giả viết “Tặng người con gái Nhật Bản” dịu dàng khi tạm biệt nhau. Toàn bài thơ như sau: 最是那一低头的温柔, 像一朵水莲花不胜凉风的娇羞,
  6. 道一声珍重,道一声珍重, 那一声珍重里有蜜甜的忧愁 –– 沙扬娜拉! Tạm dịch(26): Cái cúi đầu kia sao quá đỗi dịu dàng, Tựa đóa sen e ấp chao ngang trước làn gió mát, Chỉ khẽ một lời “bảo trọng”, một lời “bảo trọng”, Trong tiếng “bảo trọng” ấy ướp mật lòng man mác – Sha yang na la! Bài thơ này được viết vào năm 1924, trong thời gian tác giả theo nhà thơ Tagore thăm nước Nhật, “là một “tuyệt xướng” trong thơ trữ tình của Từ Chí Ma, từ trước đến nay luôn được mọi người truyền tụng”(27). Bằng bút pháp súc tích, chỉ với 5 câu thơ, tác giả đã nén bên trong một tình cảm sâu sắc khó phân li, đồng thời xây dựng được hình tượng nghệ thuật về một cô gái Nhật với vẻ dịu dàng, thần thái sống động. Nói đến thơ họ Từ không thể không nhắc đến bài Tạm biệt Cambridge. Đây cũng là một bài thơ nổi tiếng, luôn được mọi người công nhận có nhạc tính đẹp. Bài thơ có 7 khổ, mỗi khổ 4 câu. Dưới đây là hai khổ đầu: 轻轻的我走了, 正如我轻轻的来; 我轻轻的招手, 作别西天的云彩。 那河畔的金柳, 是夕阳中的新娘; 波光里的艳影, 在我的心头荡漾。 Tạm dịch: Ta ra đi lặng lẽ, Như khi ta lặng lẽ đến vậy; Ta lặng lẽ vẫy tay, Chào tạm biệt sắc mây trời Tây. Cây kim liễu bên bờ sông kia, Là cô dâu trong buổi chiều tà; In bóng yêu kiều trên làn sóng lóa, Cứ dập dờn trong trái tim ta.
  7. Bài này được viết vào ngày 6 tháng 11 năm 1928, lúc ấy tác giả đang trên tàu trở về Trung Quốc sau chuyến Âu du lần thứ ba. Cambridge là chiếc nôi êm đã lưu lại trong tâm khảm Từ Chí Ma những ấn tượng không thể phai mờ. Vì vậy khi trở lại và tạm biệt nơi này tác giả không tránh khỏi trào dâng cảm xúc, thể hiện một tình cảm quyến luyến vô hạn. Những câu thơ được trình bày theo kiểu bậc thang, câu trên 6 chữ câu dưới 7 chữ, tuy so le nhưng lại tề chỉnh. Cả bài thơ được bắt vần gián cách ở câu chẵn, đổi vần ở mỗi khổ thơ, tạo ba động tính về nhịp điệu. Bài thơ có âm điệu êm đềm, mộng mơ, sâu lắng hoài niệm, tương hợp với tâm trạng chia tay, tương hợp với tình cảm của tác giả đối với Cambridge. Trong khổ thơ đầu, “nhà thơ liên tiếp dùng ba lần cụm từ “轻轻的” một cách tài tình độc đáo, lột tả được tâm trạng không thể không thương cảm của thi nhân”(28). Đào Diệu Đông cho rằng, ba câu thơ đầu “thanh âm tựa như là nhà thơ đang nhón chân bước khẽ khàng”(29). Khổ thơ thứ hai nặng tính trữ tình, không câu thúc bằng trắc, được ví như một tấu khúc vĩ cầm, lên bổng xuống trầm, đẹp và dập dờn hoài niệm. Tạm biệt Cambridge có thể xem là bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Từ Chí Ma: linh hoạt, nhẹ nhàng và hàm súc. Tóm lại, tuy có khi thơ Từ Chí Ma “có khuyết tật vì truy cầu hình thức mà xem nhẹ nội dung hoặc ảnh hưởng đến nội dung”(30), nhưng nói chung “Chí Ma thể” đã thực hiện được “sự tề chỉnh và trôi chảy của nhịp điệu bên trong” những vần thơ, ở một mức độ nào đó có thể nói, đã đạt được tiêu chí “tam mĩ” mà Văn Nhất Đa đưa ra: ngoài “vẻ đẹp kiến trúc” và “vẻ đẹp hội họa”, còn có ma lực của “vẻ đẹp âm nhạc”. Mặc dù thơ Từ Chí Ma còn khiếm khuyết này nọ về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, nhưng “với những thể thơ “sáng cách” của mình ông đã làm phong phú thêm cho tòa bảo khố thơ mới cách luật. Đấy là sự cống hiến không thể phai mờ của Từ Chí Ma”(31) ____________________ (1) Tiền Trọng Liên, Phó Toàn Tông, Vương Vận Hi,… tổng chủ biên, Trung Quốc văn học đại từ điển (tu đính bản), hạ sách, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 2000, tr.1683. (2) Từ Chí Ma, “Hấp yên dữ văn hóa”, Thần báo phó san, ngày 14 tháng 01 năm 1926. Dẫn lại từ: Ư Khả Huấn, Tân thi thể nghệ thuật luận, Vũ Hán đại học xuất bản xã, 1995, tr.165. (3), (8), (11), (12), (14), (21) Tân thi thể nghệ thuật luận, tlđd, tr.165; 164; 165; 166- 167; 168; 172. (4) Hồ Thích Chi, “Truy ức Chí Ma”, Tân nguyệt nguyệt san, tứ quyển nhất kì. Dẫn lại từ: Đào Diệu Đông, Trung Quốc tân thi sử (1916-1949), Trường Giang văn nghệ xuất bản xã, Vũ Hán, 2005, tr.299. (5) Từ Chí Ma, “Lênin kị nhật – đàm cách mạng”, Lạc diệp. Dẫn lại từ: Trung Quốc tân thi sử (1916-1949), tlđd, tr.301. (6) Trung Quốc tân thi sử (1916-1949), tlđd, tr.299. (7), (10), (13) Từ Chí Ma nghiên cứu tư liệu, Thiểm Tây nhân dân xuất bản xã, 1988. Dẫn lại từ: Tân thi thể nghệ thuật luận, tlđd, tr.163; 164; 168.
  8. (9) Quách Mạt Nhược, “Luận thi tam trát”, Trung Quốc hiện đại thi luận- thượng, tr.53. Dẫn lại từ: Tân thi thể nghệ thuật luận, tlđd, tr.164. (15), (17) Từ Chí Ma nghiên cứu tư liệu, tr.172. Dẫn lại từ: Tân thi thể nghệ thuật luận, tlđd, tr.168; 169-170. (16) Từ Chí Ma nghiên cứu tư liệu, tr.167-168. Dẫn lại từ: Tân thi thể nghệ thuật luận, tlđd, tr.162. (18), (19) Trung Quốc tân thi sử (1916-1949), tlđd, tr.326. (20) Firenze: địa danh gọi theo tiếng Ý, tiếng Anh là Florence, nơi phát nguyên của phong trào Văn nghệ phục hưng châu Âu. (22), (23) Tân thi thể nghệ thuật luận, tlđd, tr.173. (24) Trung Quốc tân thi sử (1916-1949), tlđd, tr.327. (25) Sha yang na la: tác giả dùng tiếng Trung phỏng âm tiếng Nhật “sayonara”, nghĩa là “tạm biệt”. (26) Để bảo đảm trung thành với nguyên tác, khi dịch thơ chúng tôi trình bày đúng theo hình thức sắp xếp các dòng thơ của tác giả (NVH). (27) Lâm Minh Hoa, Tân thi giám thưởng từ điển (nhiều tác giả), Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 2004, tr.183. (28) Trần Phúc Dân, Trung Quốc hiện đại văn học danh thiên tuyển độc, tlđd, tr.342. (29), (30) Trung Quốc tân thi sử (1916-1949), tlđd, tr.329 và 326. (31) Tân thi thể nghệ thuật luận, tlđd, tr.174.
nguon tai.lieu . vn