Xem mẫu

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ­ LUẬT KHOA KINH TẾ KINH TẾ PHÁT TRIỂN NÂNG CAO Từ cái nhìn của Lý Quang Diệu “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. Bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người việt nam không thể xếp sau một nước nào trong khu vực” và định hướng phát triển kinh tế. GVHD: PGS, TS Nguyễn Chí Hải HVCH: Trần Duy Lâm MSHV: 101021607 Từ cái nhìn của Lý Quang Diệu “Nếu có vị trí số một ở Đông nam Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. Bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người việt nam không thể xếp sau một nước nào trong khu vực” và định hướng phát triển kinh tế. GVHD: PGS. TS Nguyễn Chí Hải HVTH: Trần Duy Lâm MSHV: 101021607 Giới thiệu: Trong hơn 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, cựu Thủ tướng quá cố Lý Quang Diệu đã từng nhiều lần đến Việt Nam. Lần đầu tiên vào tháng 4/1992, thăm Hà Nội, TP.HCM và Đồng Nai, trò chuyện thân mật cả ngày với Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tiếp xúc với Tổng bí thư Đỗ Mười, cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cựu Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh... Sau đó, ông liên tục trở lại Việt Nam vào tháng 11/1993, 3/1995, và 11/1997... Đặc biệt, trong chuyến thăm Việt Nam vào năm 2007 của ông Lý Quang Diệu đã để lại nhiều ấn tượng đặc biệt về tình hữu nghị giữa hai nước. Ông dự đoán, Việt Nam trong 5 năm tới sẽ bắt kịp tốc độ của các nước trong khu vực. Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh như Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Australia, và New Zealand. Việt Nam đã mất nhiều thời gian, bỏ lỡ một số cơ hội. Bây giờ, Việt Nam phải bù đắp cho cơ hội đã mất đó, "cần bù đắp và tiến kịp". Ông còn nhấn mạnh rằng “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam. Bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người, Việt Nam không thể xếp sau nước nào trong khu vực”. Vậy hiện tại chúng ta đã có những gì và chưa được những gì? Liệu chúng ta có đi đúng định hướng chưa ? Và chúng ta cần làm những gì cho chặn đường tương lai, mà nền kinh tế phía trước dự báo có nhiều biến động của các nước siêu cường kinh tế và sự phụ thuộc của các nước đang phát triển như Việt Nam vào vòng xoáy đó. Bài viết nhìn nhận từ thời kỳ mở cửa cho đến hướng phát triển tăng trưởng kinh tế, bài viết sử dụng phương pháp lịch sử, định tính trên cơ sở phân tích, so sánh. Từ khóa: Kinh tế Việt Nam, thời kỳ đổi mới, Lý Quang Diệu, cải cách. 1. Chiến lược thời mở cửa Năm 1858 khi quân đội Pháp nổ những phát súng đầu tiên. Xâm chiếm Việt Nam thì Vua Tự Đức lo lắng kinh hãi vẫn chưa biết đối phó thế nào trước kẻ thù. Thì cũng trong khoảng thời gian ấy năm 1854 một đất nước xa xôi cách chúng ta vài ngàn dặm ở phía bắc cùng chịu ảnh hưởng về văn hóa tương tự như Việt Nam, đồng thời cũng đang rơi vào sự dòm ngó từ các nước phương Tây xâm lược đó chính là Nhật Bản nơi mà có Nhật hoàng Minh Trị với tầm nhìn của mình là phải “mở cửa” mới có thể ngang hàng về phát triển khoa học, quân sự , kinh tế. Quả thật, lịch sử đã chứng minh tài năng của ông chưa đầy 40 năm sau, hạm đội của Ông đã đánh tan tác hạm đội hùng mạnh của Nga. Điều gì, đã làm nên sự khác biệt giữa hai nước khi có cùng chung xuất phát điểm, có phải chăng đó chính là sự sợ hãi, thiển cận là tự mãn của cái cũ mà không có sự khao khát của cái mới? Bước vào những năm cuối thế kỉ XX khi mà cuộc chơi chinh phục làm chủ thị trường không còn là quân sự đạn pháo nữa mà nó là cuộc chiến kinh tế không súng nổ đạn bay, không máu đổ. Nhưng đó là cuộc chiến sống còn mang tính toàn cầu, một trong những điểm nóng đó chính là khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Và chúng ta năm giữa điểm nóng đó. Điều may mắn là chúng ta không di theo vết xe cũ, chúng ta đã “Mở” cửa. Đi cùng với nó là hàng trăm, hàng ngàn câu hỏi được đặt ra. Cuối cùng nên bắt đầu từ đâu? Thu hút ngoại lực để bồi dưỡng nội lực, tạo ra lợi thế biến thách thức thành cơ hội là hai thành tố quan trọng trên con đường hội nhập. Con đường phát triển của nền kinh tế Việt Nam không bằng phẳng, trải qua những khó khăn thăng trầm rồi dẫn đến những sai lầm đáng tiếc. Điển hình 1985 cuộc cải cách Giá – Lương – Tiền làm cho nền kinh tế kiệt quệ, nhưng việc bãi bỏ ngăn sông cấm chợ cho phép kinh tế tư nhân mở rộng và phát triển là một liều thuốc hồi sinh cho các hoạt động kinh tế. Đến năm 1988, hậu quả quá trình mất cân đối kinh tế vĩ mô mãn tính khiến nền kinh tế lại lâm vào một thời kì lạm phát suy thoái tồi tệ, đồng tiền bị mất giá nghiêm trọng dẫn đến tình trạng đổ bể tín dụng đồng loạt vào những năm 1990­1991. Đó là những vấp ngã mang tính chủ quan duy ý chí và điều ngạc nhiên mỗi lần thất bại thì nền kinh tế của Việt Nam lại lớn hơn và mạnh hơn. Nếu có thể tổng kết điều gì đã làm nên sự kỳ diệu của nền kinh tế Việt Nam thì chỉ bằng một chữ thôi, bạn sẽ chọn chữ nào? Riêng đối với tôi, đó là chữ “Mở”. Giống như chữ “Hỏa” mà Gia Cát Lượng và Chu Du đã chọn lựa trong trận Xích Bích đánh tan Tào Tháo. Có những lĩnh vực kinh tế mà chữ Mở đã làm nên những điều kì diệu như chiếc đũa thần. Cuộc cải cách ngân hàng 1989­1990, kể từ ngày ban hành hai pháp lệnh ngân hàng 1990, hệ thống ngân hàng mới đã không ngừng phát triển cả về lượng và chất. Nó đã giúp chúng ta bước qua cơn khủng hoảng và chính hệ thống này thực hiện kỳ tích đẩy tốc độ phát triển GDP trong ba năm liền lên trên 8% năm, gấp đôi tốc độ tăng trưởng những năm trước đó. Cánh cửa mở của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã mở rộng cho khu vực kinh tế tư nhân. Sau những trục trặc của hệ thống hợp tác tín dụng non trẻ và thiếu kinh nghiệm. Nhờ chính sách Mở của nhà nước và sự phát triển của ngân hàng thương mại, từ năm 1993, kinh tế tư nhân đã phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Tỷ trọng thu ngân sách nhà nước từ khu vực kinh tế tư nhân từ 6% lên trên 11%. Riêng năm 2008, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào GDP gần 47%; trong đó có phần đóng góp quan trọng của kinh tế tư nhân và từ một số địa phương như TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Bên cạnh đó hoạt động ngoại thương và đầu tư nước ngoài có một vị trí quan trọng ngày càng lớn trong tiến trình và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Cho đến nay theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, đã có 9500 dự án đầu tư nước ngoài tổng vốn 98 tỷ đô. Nhưng hội nhập kinh tế đòi hỏi nâng cao năng lực cạnh tranh. Khi điều kì diệu đã đi qua, chúng ta phải đương đầu với những khó khăn mới. Ngoại thương tuy phát triển mạnh, nhưng vấn nạn nhập siêu kéo dài đang là một bài toán khó trong nổ lực phục hồi các cân đối vĩ mô. Sự lựa chọn giữa lạm phát và tăng trưởng vẫn là một sự lựa chọn đầy khó khăn, và mục tiêu tăng trưởng trong ổn định vẫn còn là sứ mệnh bất khả thi của chính sách tiền tệ quốc gia. Và trên hết, hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế tăng nhanh hệ số ICOR, từ con số 2,5 năm 1989 tăng lên 8,5 năm 2009 và hiện nay 6,82 năm 2015. Ngân hàng Thế giới đã khuyến cáo rằng Việt Nam không nên trông cậy vào nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và chưa biết khi nào phục hồi mà nên quan tâm khơi dậy đồng vốn trong nước. Thật sự đáng lo ngại, khi mà đồng vốn là vấn đè cốt lõi cho nền kinh tế, chúng ta cần phát huy của nội lực kinh tế bao gồm nhiều yếu tố: lao động, tài nguyên, đất đai, kỹ thuật, công nghệ…và trong đó đồng vốn có vai trò quan trọng nhất. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được quyết định bởi khối lượng đồng vốn được tích lũy của nền kinh tế và được đưa vào đầu tư. Nền kinh tế muốn huy động đồng vốn từ bên trong cần phải phá vỡ những tắc nghẽn đang là nguyên nhân khiến nó bị bất động, không sinh sôi sôi nảy nỡ được đưa vào dòng chảy của đầu tư. Tại một nước nông nghiệp như Việt Nam, tâm lý trữ vàng là phổ biến như cất trữ trong két sắt, chôn giấu dưới nền nhà là cực kì nguy hiểm và có tác hại đến nền kinh tế và nó là trở ngại đầu tiên cần vượt qua mà người dân đang thực hành tiết kiệm. Nếu chúng ta có thể đưa được phân nữa số đó vào hệ thống ngân hàn, nguồn vốn có sẵn để phục vụ cho sự vận hành thường nhật của nền kinh tế sẽ gia tăng bội phần, và nếu nguồn vốn được huy động ngày càng lớn với một giá phí thấp, sẽ rất thuận lợi cho việc giảm lãi suất ngân hàng với kết quả mang lại là giúp tang trưởng tín dụng và đầu tư trong nước. Nhu cầu vốn, cũng chính là bài thuốc cho doanh nghiệp tư nhân. Chúng ta không thể nói phát huy ngoại lực nếu các doanh nghiệp trong nước muốn phát triển sản xuất lại không nhận được những nguồn tài trợ trung và dài hạn cho dự án của mình. Mặt khác, yêu cầu phát huy nội lực còn có một đòi hỏi rất cấp bách là làm tan băng các khoản nợ tín dụng quá hạn và khó đòi. Trong cơn sốt đầu tư phát triển sản xuất, bất động sản thì số vốn tín dụng đã chết cứng trong hàng ngàn căn nhà, kho, xưởng máy...Những khoản nợ này cần được làm sống dậy, bằng cách tạo cho chúng tính lưu động cần thiết qua những công cụ nợ. Nhưng trước hết và quan trọng nhất là các biện pháp kích thích sự luân chuyển các tài sản đó. Theo K. Marx mọi sự vật luôn vận động và phát triển, điều này đúng không chỉ trong triết học mà còn cả ngay định luật cho xã hội và kinh tế học. Nền kinhh tế tăng trưởng nhanh khi nào các hoạt đọng kinh tế vận hành thông suốt, không trở ngại. Giá trị của các loại tài sản, hàng hóa trong nền kinh tế được gia tăng chính là nhờ sự vân động của các loại tài sản, hàng hóa đó. Do vậy, muốn phát huy nội lực kinh tế đất nước, trước hết cần phải khai thông dòng chảy cho các yếu tố nội lực. Từ khi đất nước thống nhất đến nay chúng ta có quá nhiều vấn đề cần giải quyết nhưng yếu tố nội sinh là hòa giải, hòa hợp dân tộc vẫn chỉ là một điều mơ ước. Nhưng giờ đây, khi đối mặt với sự xâm phạm bờ cõi từ Biển Đông, cơ may hòa giải hòa hợp, đại đoàn kết dân tộc lại xuất hiện. Hàng chục triệu trái tim người Việt đang hướng về một mục tiêu chung và bảo vệ tổ quốc chủ quyền thiêng liêng của dân tộc. Bây giờ chúng ta có dân số đứng thứ 14 trên thế giới, một lãnh thổ dài hàng ngàn dặm và một thềm lục địa trù phú. Chúng ta không còn là một nước nhỏ và càng không thể là một quốc gia yếu hèn. Khi cơ may cho một sự đoàn kết vĩ đại, một sự đồng tầm hiệp lực của trên 90 triệu người Việt của một nước Việt thống nhất đang xuất hiện, cơ may ấy không thê bỏ lỡ. Đó là cơ hội ngàn năm có một cho dân tộc Việt. Đó là cơ hôi để Việt Nam trở thành một quốc gia hùng cường, có một chỗ đứng xứng đáng trên thế giới này. Hãy nhìn vào Singpore của Lý Quang Diệu nếu không có sự đoàn kết, ý chí từ người dân nước này thì Lý Quang Diệu có tài giỏi cách mấy cũng chỉ là phí sức, càng không thể biến một đầm lầy Đông Nam Á thành Singpore của ngày nay. 2. Xây dựng cơ chế thị trường và quản lý nhà nước định hướng XHCN Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng: “Có thể còn khá sớm khi nói đến những đóng góp về lý luận và thực tiễn của Việt Nam để khẳng định một mô hình phát triển kinh tế của nhân loại. Nhưng cùng với thực tiễn sinh động của gần 30 năm đổi mới, những hiểu biết và sự trải nghiệm phương thức vận hành của nền kinh tế thị trường đã cho thấy những sự phát triển về lý luận của nước ta về kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng sâu sắc hơn và được khẳng định”. Quả thật như vậy, chúng ta đã có những thành tích kinh tế đáng nể khi nền kinh tế mới bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường. Tuy vây, chúng ta chỉ mới có một thị trường sản phẩm tương đối phát triển, còn thị trường các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, tiền vốn, vẫn còn ở mức sơ cấp. Phát triển hoàn chỉnh cơ chế thị trường không chỉ ở chỗ thiết lập về mặt hình thức, các loại thị trường, mà quan trọng hơn, còn là phát huy tốt những đặc tính căn bản của nó. Thứ nhất là tính lưu chuyển, yếu tố cần thiết cho sự vận hành thông suốt của thị trường. Một thị trường chỉ hoạt động tốt khi nào sản phẩm của nó được lưu thông không trở ngại từ người sản xuất cho đến người tiêu dùng, từ người bán cho đến người mua. Từ đó, sản phẩm sẽ đạt đến mức tối ưu “thuận mua vừa bán”. Tại đây thấy được vai trò ccủa Nhà nước cho những ngày đổi mới bãi bỏ cấm chợ ngăn sông mà thị trường nông phẩm mới thực sự hình thành, kích thích sản xuất nông nghiệp, biến Việt Nam từ nước nhập khẩu gạo thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Bên cạnh đó thì còn những thị trường đang khuất tất như thị trường đất đai, tuy có vẻ ì xèo ban đầu nhưng càng về sau thì đâu lại vào đấy, không đề cập đến các vấn đề biến động của thị trường mà là do quyền sở hữu đất đai của công dân chưa thực sự rõ ràng, dẫn đến các thủ tục phiền hà hành chính, phức tạp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân. Thị trường vốn trên thực tế đã xuất hiện nhưng mới ở giai đoạn sơ cấp, các sản phẩm của thị trường này (cổ phiếu, trái phiếu) chưa được trao đổi mua bán dễ dàng vì chưa có thị trường chứng khoán thứ cấp. Không thể phát triển được thị trường nếu không có sự lưu chuyển các sản phẩm, và ngược lại. Đăc tính thứ hai là tính cạnh tranh. Chính nhờ sự cạnh tranh nhiều người bán và giữa nhiều người mua mà chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, mức giá ngày càng giảm thấp. Sự cạnh tranh đòi hỏi một sân chơi ngang bằng và một luật chơi công bằng, trong đó người bán và người mua đều được đối xử bình đẳng trong quan hệ mua bán. Thực tế đã kiểm nghiệm điều đó. Một hệ ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn